Lễ Tạ Ơn-Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng 

Võ Thị Diệu Hằng    

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ 

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

 Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

 Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

 Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước. 

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh... 

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất  đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

 3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) LễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông

Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington  thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789. 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

 Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

 b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

 6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

 Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ) 

 8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

From: NguyenNThu

CON TẠ ƠN CHÚA – Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN  

Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN

 Con tạ ơn Chúa vì chồng của con cứ phàn nàn

 khi bữa cơm chưa dọn kịp,bởi lẽ anh ấy đang ở ngay bên cạnh con, chứ không phải bên ai khác.

 Con tạ ơn Chúa vì con của con cứ càu nhàu

 khi phải phụ rửa chén đĩa cho con,bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

 Con tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà con phải trả quá cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang có một công việc tốt để làm.

 Con tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,

bởi lẽ như thế nghĩa là con luôn được bạn bè quý mến kéo đến chơi.

 Con tạ ơn Chúa vì quần áo con bỗng trở nên hơi chật,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được đủ ăn. 

 Con tạ ơn Chúa vì cái bóng của con cứ ở sát bên con, nhìn con làm việc,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được sống tự do ngoài nắng.

 Con tạ ơn Chúa vì nền nhà cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đang có một mái nhà để cư ngụ.

 Con tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền điện nước của tháng này lại tăng cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là Con đang được ấm áp.

 Con tạ ơn Chúa vì cái bà ngồi phía sau con trong Nhà Thờ

hát sai tông lạc nhịp,bởi lẽ như thế nghĩa tai con còn nghe được rất tinh tế.

 Con tạ ơn Chúa vì một đống đồ rất lớn phải giặt và ủi,

bởi lẽ như thế nghĩa là con có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

 Con tạ ơn Chúa vì các cơ bắp trong người con

nó mệt rũ ra vào cuối ngày,bởi lẽ như thế nghĩa là con có sức để làm việc nhiều.

 Con tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm vào buổi sáng,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đi lại, hít thở và cười nói,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang còn sống được thêm một ngày nữa.

 Và cuối cùng…

 Con tạ ơn Chúa vì đã nhận được quá nhiều E-mails gửi về,

bởi lẽ như thế nghĩa là con vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến con

 Con gửi bài này để bạn bè con hiểu rằng:

 “Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,

cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào !” 


 

HAPPY THANKSGIVING !

Thưa quý vị:

Thế kỷ 16, người di dân Pilgrims từ con tàu Mayflower đã đặt chân đến miền giá lạnh Đông Bắc Châu Mỹ. Nơi đây họ đã được thổ  dân da đỏ giúp đỡ và chỉ cách sinh tồn. Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời<https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_Ch%C3%BAa>  đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, và họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts<https://vi.wikipedia.org/wiki/Massachusetts>.

Và từ đó qua nhiều thời đại, lễ Tạ Ơn Thanksgiving đã được tổ chức tạ Hoa Kỳ mỗi năm vào thứ năm cuối cùng của tháng 11 Dương Lịch. (Riêng tại Canada lễ Thanksgiving vào ngày Monday thứ nhì của  tháng 10)

Người Việt tỵ nạn chúng ta cũng gần như thế: Cuộc di tản bằng máu và nước mắt qua biển cả và đưởng rừng để trốn chạy chế độ Cộng Sản sau 30 tháng 4 – 1975 đi tìm tự do. Chúng ta đã được Hoa Kỳ và các QG đồng minh dang vòng tay nhân ái đón nhận.

Hôm nay, Lễ Tạ Ơn Thanksgiving 2025, xin kính mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm “Lời Cám Ơn” của NS Ngô Thụy Miên & Hạ Đỏ Bích Phượng. Phần hòa âm do PBN 114 thực hiện hợp ca. Trần Ngọc thực hiện hình ảnh minh họa (2015).

 <https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:The_First_Thanksgiving_Jean_Louis_Gerome_Ferris.png>

       Cám ơn quý vị .TN.

Happy ThanksGiving 

Happy ThanksGiving 

T ơn Chúa – hôm nay ta còn sống

Mắt còn nhìn, còn đọc được e-mail

Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu

Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 

Tạ ơn Thân hữu gần xa

Hàng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều

E-mail nhận được bao nhiêu

Là bao tình cảm thương yêu chan hòa !

S.T.

TÊN TRỘM VÀ NGƯỜI CHỦNG  SINH –  L.M. Mark Link, S.J.

 L.M. Mark Link, S.J.

Tập san Catholic Digest có mục thường xuyên được gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở). Trong mục này thường có hai hay ba câu chuyện do độc giả gởi đến. Những câu chuyện này kể lại sự hoán cải trở lại đạo Công Giáo của độc giả.

 Có một câu chuyện thật cảm động về chàng thành niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội, và sau đó gia nhập chủng viện.

 

Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, ba sinh viên ở một đại học Ohio bị giết trong lúc biểu tình phản đối chiến tranh. Những cuộc dấy loạn về sắc tộc như xé nát nhiều thành phố trong nước Mỹ. Các nhà lãnh đạo quốc gia bị ám sát. Mọi sự bỗng dưng trở nên rời rạc. 

Chàng thanh niên này rời chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội, và chế nhạo đức tin mà trước đây anh từng ấp ủ. 

Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng. 

Sau đó là Tuần Thánh và trong Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1970, chàng thành niên, lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là vị linh mục anh rất kính trọng. Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và đi vào nhà thờ. 

Khi bước vào cửa, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn thánh giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There When They Crucified My Lord?” (Bạn có ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?) 

Và rồi điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra. Anh viết: 

“Trong con người tôi, điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quỳ xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi.” 

“Từ ngày đó trở đi,” anh cho biết, “tôi trở nên một người Công Giáo tái sinh.” 

Anh kết thúc với nhận xét sau: “Tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng với các kết quả.” 

****************

Tôi thích câu chuyện này vì nó thích hợp với các bài đọc trong ngày lễ “Chúa Giêsu là Vua” hôm nay. 

Vì bài Phúc Âm diễn tả một thanh niên vô tôn giáo cách đây hai ngàn năm, Anh là một tên trộm cướp, với đầy giận dữ trong lòng nhưng anh đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên ấy. 

Và điều thay đổi cuộc đời của người thanh niên này cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là điều thay đổi anh chủng sinh trong câu chuyện trên đây.  Đó chính là việc đóng đinh Đức Kitô. 

Và điều mà Đức Kitô trên thập giá đã nói với người trộm thì Người cũng nói với anh chủng sinh: “Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Thật khó có bài đọc nào thích hợp hơn để kết thúc năm phụng vụ.  Bài đọc đã tóm lược lý do tại sao Chúa Giêsu đến trong thế gian.  Chính là để tha thứ cho tội nhân, như tên trộm-và như anh chủng sinh.

Và điều này đưa chúng ta đến việc áp dụng tất cả những điều này vào thực tế đời sống chúng ta.  Đó là: 

–  Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho mỗi người chúng ta.

–  Người muốn tha thứ tội lỗi chúng ta, bất kể có to lớn đến đâu và lâu đời đến đâu.

–  Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với tên trộm và anh chủng sinh:
Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Đây là tin mừng khiến chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Chúa Kitô Vua.

Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thi hành cho chúng ta điều mà Người đã làm cho tên trộm và anh chủng sinh. 

Đây cũng là tin mừng mà Thánh Phaolô đã diễn tả  trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật hôm nay: 

[Thiên Chúa] đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta một cách bình an đến vương quốc của Con yêu dấu của Người, mà nhờ Người chúng ta được tự do, đó là, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi.

L.M. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

HÀNH TRÌNH NGẮN NGỦI CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 

Lê Châu An Thuận

Mỗi phút trôi qua, đều có người rời xa thế giới này.

Tuổi tác không liên quan gì đến điều đó.

Tất cả chúng ta đều đang xếp hàng mà không hề nhận ra.

Chúng ta không bao giờ biết có bao nhiêu người đang ở phía trước mình.

Chúng ta không thể quay lại.

Chúng ta không thể ra khỏi hàng.

Chúng ta không thể tránh khỏi hàng.

Vì vậy, trong khi chúng ta đang xếp hàng,

Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc.

Hãy bước những bước đầu tiên.

Đặt ra những ưu tiên.

Hãy dành thời gian.

Hãy làm cho người khác hạnh phúc.

Hãy biến những điều nhỏ nhặt thành lớn lao.

Hãy khiến ai đó mỉm cười.

Hãy yêu thương hết mình.

Hãy giữ gìn sự bình yên.

Hãy nói với gia đình bạn rằng bạn yêu họ nhiều như thế nào.

Đừng hối tiếc.

Hãy sống hết mình


 

Co’ ba tiếng để cứu em gái – Truyen ngan qua’ HAY

Son Bui

Cô bé mới tám tuổi khi cha đánh bạc thua và đem cô làm vật thế chấp trong một ván bài.

Chị gái cô, mười lăm tuổi, chỉ có ba tiếng đồng hồ để giành lại em trước khi tên đòi nợ đến.

Deadwood, Lãnh thổ Dakota. Năm 1877. Nơi luật pháp đến chậm, nguy hiểm đến nhanh, và sự sống sót chỉ thuộc về những kẻ tàn nhẫn.

Thomas Garrett đã mất hết mọi thứ: tiền khai thác mỏ, tiền công, lòng tự trọng; và giờ đây, trong cơn say tại Gem Saloon, ông đã mất thứ còn đáng giá hơn tất cả: đứa con gái của mình.

Người thắng ván bài là Bullock; không phải cảnh sát trưởng, mà là một tên buôn người chuyên “cung cấp” trẻ em cho các trại mỏ.

Những đứa trẻ chỉ mới sáu tuổi đã phải làm việc mười hai tiếng mỗi ngày phân loại quặng cho đến khi phổi hỏng hoặc ngón tay rụng rời. Hầu hết không sống quá mười bốn tuổi.

Thomas ký vào giấy tờ mà không chút do dự. Bullock sẽ đến đón bé Emma vào đúng trưa hôm sau. Khi Sarah mười lăm tuổi đi làm ở tiệm giặt về và biết chuyện cha mình đã làm, cô không khóc.

Không gào thét.

Không sụp đổ.

Cô chỉ hỏi một câu: “Khi nào?”

“Ngày mai. Trưa.”

Còn ba tiếng nữa mới đến bình minh.

Ba tiếng để cứu em gái.

Và Sarah có thứ mà cha cô chưa bao giờ có: sự tỉnh táo.

Cô biết rõ Bullock.

Ai ở Deadwood cũng biết.

Một kẻ độc ác núp sau giấy tờ và vẻ ngoài đứng đắn.

Hắn đã bắt cha cô ký hợp đồng; nghĩa là hợp đồng đó có thể bị thách thức.

Và Deadwood lúc ấy có thêm một thứ nữa: một vị thẩm phán liên bang mới toanh vừa công khai tuyên bố rằng cha mẹ không được phép dùng con cái để trả nợ.

Sarah không ngủ.

Không chớp mắt.

Lúc mặt trời vừa ló dạng, cô đã đứng trước tòa án, thở hổn hển, nhưng ánh mắt kiên định.

Người thư ký định đuổi cô đi; con gái mười lăm tuổi thì biết gì về luật pháp.

Nhưng Sarah biết.

Vì trước khi rượu chè hủy hoại ông, cha cô từng là một thư ký tòa… và cô đã đọc ngấu nghiến mọi cuốn sách luật ông để lại trong nhà.

Cô trình bày vụ việc với sự chính xác của một luật sư thực thụ:

Hợp đồng vi phạm luật lao động lãnh thổ.

Là hình thức nô lệ nợ với trẻ vị thành niên.

Thomas Garrett mất năng lực pháp lý vì đang say rượu.

Người thư ký sững sờ. Rồi gật đầu.

Ông ta đánh thức vị thẩm phán.

Thẩm phán Isaac Parker – người sau này được gọi là “Thẩm phán Treo cổ” – đọc hợp đồng, nghe Sarah trình bày, và làm một điều chưa từng có tiền lệ:

Ông ban hành lệnh khẩn cấp, ngăn chặn việc chuyển giao và triệu tập cả Bullock lẫn Thomas Garrett ra tòa ngay chiều hôm đó.

Khi Bullock cùng hai gã tay chân đến căn nhà lá của nhà Garrett đúng trưa, hắn thấy Sarah đang đợi trên hiên.

Không run rẩy.

Không van xin.

Cô cầm trên tay lệnh của tòa án liên bang.

Bullock đỏ mặt vì giận dữ, nhưng không ngu ngốc đến mức chống lại thẩm phán.

Tại phiên tòa, Thẩm phán Parker không chần chừ.

Ông tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Xác định đó là hành vi buôn bán trẻ vị thành niên bất hợp pháp.

Cảnh cáo Bullock rằng bất kỳ nỗ lực nào tiếp theo nhằm đòi “nợ” sẽ khiến hắn bị còng tay.

Rồi ông quay sang Thomas Garrett.

Một người cha đánh bạc con cái mình thì mất luôn quyền làm cha.

Parker tước bỏ quyền giám hộ của ông ta và; trong một quyết định làm cả Lãnh thổ Dakota sửng sốt; chỉ định cô gái mười lăm tuổi Sarah làm người giám hộ hợp pháp của em gái.

Nhưng chiến thắng không làm no bụng. Giờ đây Sarah phải nuôi một đứa trẻ tám tuổi, không tiền bạc, không nhà cửa, chỉ có công việc giặt là để sống qua ngày.

Điều cô làm tiếp theo đã trở thành huyền thoại.

Cô đến gặp năm người phụ nữ kinh doanh ở Deadwood; chủ tiệm giặt, thợ may, chủ nhà trọ; và đưa ra một đề nghị:

“Tôi sẽ làm việc với lương thấp hơn. Các bà cho hai chị em tôi ăn ở. Tôi nhận việc nặng nhất và làm giờ dài nhất.”

Bốn người từ chối.

Người thứ năm; góa phụ Martha Bullock (không họ hàng gì với tên buon người) nói có.

Trong ba năm tiếp theo, Sarah làm việc mười sáu tiếng mỗi ngày. Emma được đi học; Sarah bắt buộc điều đó.

Cô dành dụm từng đồng xu.

Đến năm 1880, cô đủ tiền thuê một tòa nhà nhỏ và mở tiệm giặt của riêng mình.

Năm 1882, cô mua đứt tòa nhà đó.

Cô thuê sáu phụ nữ. Trả lương xứng đáng. Cung cấp chỗ ở cho những người cần.

Emma, lúc ấy mười ba tuổi, giữ sổ sách. Khi Emma đủ mười tám, Sarah; hoàn toàn từ lợi nhuận kinh doanh;

trả tiền cho em đi học trường sư phạm để trở thành giáo viên.

Sau này Emma trở thành hiệu trưởng và là một trong những người đấu tranh quyết liệt nhất cho cải cách luật lao động trẻ em trong bang.

Sarah không bao giờ lấy chồng.

“Tôi đã nuôi một đứa con rồi,” cô cười nửa miệng.

“Và làm tốt hơn hầu hết mọi người dù chỉ có một nửa điều kiện.”

Cô điều hành tiệm giặt đến năm 1910, tạo việc làm cho hơn một trăm phụ nữ trong ba thập kỷ.

Emma nghỉ hưu với tư cách nữ hiệu trưởng đầu tiên của quận.

Khi Sarah qua đời năm 1923, cáo phó chỉ nhắc đến “sự nghiệp kinh doanh thành công” của bà.

Emma kể lại câu chuyện thật:

Một cô gái mười lăm tuổi chỉ có ba tiếng đồng hồ, một cuốn sách luật, và niềm tin mãnh liệt rằng cuộc đời em gái mình không phải để bán.

Thẩm phán Parker sau này nói:

Công lý không chỉ là trừng phạt kẻ có tội.

Đôi khi là biết nhận ra năng lực ở nơi không ai buồn tìm kiếm.

Ranh giới giữa bi kịch và chiến thắng rất mong manh.

Đôi khi chỉ là một cô gái tuổi teen từ chối chấp nhận việc em mình bị đem đổi như quân bài poker; và đủ thông minh để tìm ra đúng một đòn bẩy pháp lý có thể ngăn điều đó lại.

Sarah Garrett không có tiền.

Không có vũ khí.

Không có đồng minh.

Cô chỉ có thời gian đang cạn kiệt.

Một bộ óc được tôi luyện bởi tuyệt vọng.

Và tình yêu đủ mạnh để đối đầu cả thế giới.

Và thế là đủ.

#fblifestyle


 

CHÌM VÀO TRONG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, thì khóc!”.

Sau khi chinh phục ‘cả thế giới’, đại đế Alexander đứng trước doanh trại, khóc nức nở và nói, “Ta không còn thế giới nào nữa để chinh phục!”; ông chết ở tuổi 33. Hơn 350 năm sau, đứng trước Giêrusalem, Chúa Giêsu cũng sụt sùi vì không chinh phục nổi lòng người trong thành! Vậy mà, nhờ tình yêu trên thập giá, cũng tuổi 33, Ngài chinh phục cả thế giới!

Kính thưa Anh Chị em,

Alexander khóc vì không còn ‘thế giới’ nào để chinh phục; Chúa Giêsu khóc, vì nguyên chỉ một Giêrusalem, Ngài phải đầu hàng! Tin Mừng hôm nay tiết lộ lần khóc hiếm hoi đó vốn cho thấy đây không phải là một nỗi buồn thoáng qua; đúng hơn, một nỗi buồn thánh đang ‘chìm vào trong’ nhân cách toàn thánh của Ngài.

Chúa Giêsu nhận thức một thực tế xót xa rằng, Ngài đến, đem cho Giêrusalem món quà cứu rỗi. Buồn thay, một số người lờ đi; số khác thì tức giận; số khác nữa, thay vì đón nhận, lại trở thành ‘công cụ cho tử thần’ đang chờ Ngài. Từ thế kỷ thứ ba, Origen đã có một cái nhìn sâu sắc về sự việc này, “Như một gương sáng, Chúa Giêsu xác nhận và hoàn thành các Mối Phúc Ngài dạy. Ngài hiền lành, khóc lóc, bị bắt bớ vì sự công chính… và Ngài đã có phúc được lại mọi sự, được cả thế giới!”. “Khi Chúa Giêsu động lòng thương xót, nguồn mạch sự sống run rẩy, nền tảng tình yêu vỡ tung, và vực sâu tình yêu bao la dạt dào và vô cùng của Thiên Chúa được bộc lộ!” – Henri Nouwen.

Không chỉ khóc cho Giêrusalem, Chúa Giêsu còn khóc cho nhân loại, cho bạn và tôi, nhất là cho những ai thuộc gia đình đức tin mai ngày mà Ngài thấy trước từng cuộc ‘đổ nát của linh hồn’: sống tín điều mà không sống niềm tin; ở gần đền thờ mà lòng xa Chúa; ơn cứu độ chạm đến, nhưng để nó rơi tuột. Cảm nhận một sự thất đoạt gần như hoàn toàn, Ngài lặng thinh, ‘chìm vào trong’ và rơi lệ! “Không phải thân xác chịu khổ, nhưng linh hồn trong xác. Sự quằn quại là đau khổ của linh hồn, chứ không phải của thân xác. Trái tim quằn quại ấy bươm nát bởi tội lỗi!” – Henry Newman.

Mattitgia – bài đọc một – cũng trải qua một tâm trạng phần nào tương tự. Thấy dân mình bái lạy tà thần, “ruột gan ông sôi sục”. Thế nhưng, đang khi phản ứng của con người là phẫn nộ thì Thiên Chúa lại tỏ ra dịu dàng, Ngài không nổi giận, nhưng ‘chìm vào trong’ nỗi đớn đau vì yêu, đến mức rơi lệ vì chúng ta.

Anh Chị em,

“Trông thấy thành, thì khóc!”. Chính trong khoảnh khắc Chúa Giêsu sụt sùi trước Giêrusalem, chúng ta bắt gặp một Thiên Chúa ‘gần như thất bại’ khi phải bất lực trước sự tự do của con người. Đấng có thể khiến đá trở thành con cái Abraham, có thể ngăn đe bão tố; thế mà Ngài chọn khóc. Những giọt lệ ấy không nói lên sự yếu đuối, nhưng là mặc khải của một tình yêu tôn trọng – thà bị tổn thương còn hơn cưỡng ép lòng người. Bao lần Ngài đến, gõ cửa, chúng ta vẫn lờ đi; và Ngài vẫn âm thầm đứng đó, lặng lẽ, đợi chờ, và khóc. Rõ ràng, ơn cứu độ không tuôn trào trên những tâm hồn khép kín, nhưng trên những ai để mình được chinh phục bởi một Thiên Chúa… biết khóc.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hôm nay, đừng làm Chúa phải khóc vì con nữa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, Năm Lẻ

Phải chi ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 19,41-44

41 Khi ấy, Đức Giê-su đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, thì khóc thương 42 mà nói : “Phải chi ngày hôm nay ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi ! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”


 

Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha. (1 Ga 2:15) – Cha Vương

Ngày Thứ 4 an lành và ấm áp nhé. Đừng quên cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời, xin cho họ được hưởng nhan thánh Chúa.

Cha Vương

Thứ 4: 19/11/2025.   (t7-22)

TIN MỪNG: Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha. (1 Ga 2:15)

SUY NIỆM: 3/ Đức Mẹ: Ai quá trìu mến thế tục sẽ xúc phạm và đối nghịch cùng Chúa. Con cho rằng mình đau khổ lắm, vì không được vào số người nghĩa thiết với Chúa. Người yếu ớt hèn nhát trở nên nghĩa thiết Chúa sao được? Chúa biết rõ con chưa hiến dâng cho Người, mà chính Người lại ban trót mình cho con. Hãy tận tâm với Chúa, dâng mọi sự cho Chúa, chắc con sẽ được Chúa ban nhiều ơn. Thế tục và những sự thuộc về nó không sánh vào đâu với người được Chúa làm gia tài.

4/ Linh hồn: Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, con yếu đuối cần phải có ơn rất mạnh, mới có thể vâng giữ các điều Mẹ phán dạy, và theo chân, học tập Mẹ được; xin Mẹ cầu bầu giúp sức cho con vui lòng noi gương Mẹ và đổ trên con những ơn cần thiết. 

   Biết bao lần con đã trở lòng, đã bội tín, mà còn dám  dâng lòng con cho Chúa Giêsu? Song Chúa không chê bỏ “tấm lòng khiêm tốn hối cải” và không bao giờ từ chối lời Mẹ. Lạy Mẹ đầy tình thương xin giúp con hòa thuận với Chúa, để Chúa Con ban dư đầy lòng con mọi ơn lành, ngõ hầu con nhận biết và ước ao kính mến làm tôi Chúa luôn. 

(x. Sách Gương Đức Mẹ, Q1:6:3-4) 

LẮNG NGHE: Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo. (Rm 12:2)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gìn giữ con tinh tuyền giữa đời ô nhơ, giữa muôn ngàn nguy hiểm để con được ủi an dưới bóng Mẹ yêu luôn mãi.

THỰC HÀNH: Đọc 10 Kinh Kính Mừng và một Kinh Vực Sâu cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục.

From: Do Dzung

**********************

Magnificat – Lãng Du | Nhóm Yêu Thánh ca

Số người xin thất nghiệp ở Mỹ lên mức cao nhất trong hai tháng

Ba’o Nguoi-Viet

November 18, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Số người nhận trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ đang ở mức cao nhất trong hai tháng theo số liệu vào giữa Tháng Mười trong lúc Bộ Lao Động có thể đã tiến hành khảo sát các hộ gia đình để soạn báo cáo việc làm hàng tháng vốn bị hoãn lại trong suốt thời gian chính phủ đóng cửa, Reuters cho biết hôm Thứ Ba, 18 Tháng Mười Một.

Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tiếp tục – tức là vẫn xin tiền thất nghiệp sau tuần đầu tiên – tăng lên 1.95 triệu trong tuần lễ kết thúc vào ngày 18 Tháng Mười, theo số liệu được Bộ Lao Động cập nhật trên trang web của họ hôm Thứ Ba.

Người tìm việc làm tại công ty MasTec trong Hội chợ việc làm Mega JobNewsUSA South Florida được tổ chức tại Amerant Bank Arena hồi Tháng Chín. (Hình minh họa: Joe Raedle/Getty Images)

Con số này tăng thêm 10,000 đơn từ tuần trước đó và là mức cao nhất kể từ đầu Tháng Tám. Con số này cũng tăng đáng kể so với mức 1.91 triệu đơn ở tuần kết thúc vào ngày 13 Tháng Chín.

Số đơn mới xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần lễ 18 Tháng Mười được ghi nhận là 232,000, tăng từ 219,000 trong tuần lễ kết thúc vào ngày 20 Tháng Chín, tuần cuối cùng số liệu được báo cáo trước khi chính phủ đóng cửa. Tuy nhiên, con số đó nằm trong ngưỡng số đơn xin trợ cấp mới thường thấy trong những tháng trước khi chính phủ đóng cửa.

Bộ Lao Động tiến hành khảo sát hàng tháng trong tuần có ngày 12 của tháng, để công bố báo cáo việc làm. (NNL) [đ.d.]


 

John D. Rockefeller – TG Văn Chương

TG Văn Chương

Người đàn ông giàu nhất thế giới khi 53 tuổi chỉ còn sống được một năm — rồi ông đưa ra một quyết định mang cho mình thêm bốn mươi bốn năm nữa.

John D. Rockefeller đã xây dựng một đế chế khiến ông trở thành tỷ phú đầu tiên trong lịch sử.

Năm 25 tuổi, ông đã sở hữu một trong những nhà máy lọc dầu lớn nhất nước Mỹ.

Năm 31 tuổi, ông là nhà lọc dầu số một thế giới.

Năm 38 tuổi, ông kiểm soát 90% lượng dầu tinh chế tại Hoa Kỳ.

Mỗi quyết định đều được tính toán.

Mỗi mối quan hệ là một đòn bẩy.

Mỗi đồng tiền là một khoản đầu tư cho điều gì đó lớn hơn.

Ở tuổi 50, ông đứng một mình trên đỉnh cao — người giàu nhất nước Mỹ, với khối tài sản tương đương khoảng 340 tỷ đô la ngày nay.

Ông đã “thắng” cuộc chơi của sự giàu có.

Nhưng ông sắp thua thứ mà không khoản tiền nào mua nổi.

Năm 53 tuổi, cơ thể phản bội ông.

Ngày nào cũng bị giày vò bởi cơn đau khủng khiếp.

Tóc rụng sạch.

Rối loạn tiêu hóa khiến ông chỉ còn ăn được súp và bánh quy.

Người có thể mua mọi thứ gần như không thể tự nuôi sống mình.

Giấc ngủ bỏ đi. Niềm vui biến mất.

Các bác sĩ nói thẳng: ông chỉ còn chưa đầy một năm.

Một cộng sự viết:

“Ông không còn ngủ, chẳng còn cười, và chẳng còn điều gì trong đời có ý nghĩa với ông.”

Rockefeller — người dành hàng chục năm tích lũy nhiều tiền hơn bất kỳ ai trước đó — thức trắng một đêm đối mặt với sự thật không thể trốn chạy:

Ông sẽ không mang theo nổi một xu.

Kẻ từng kiểm soát thị trường dầu mỏ thế giới bỗng nhận ra mình chẳng kiểm soát được điều gì thật sự quan trọng.

Cú tỉnh ngộ ấy đổi tất cả.

Ông gọi luật sư và kế toán tới, đưa chỉ thị gây sững sờ:

tái cấu trúc toàn bộ tài sản để dồn cho bệnh viện, nghiên cứu y khoa và các hoạt động từ thiện.

Năm 1913, ông lập Quỹ Rockefeller.

Những gì diễn ra sau đó thật phi thường.

Quỹ đã tài trợ nghiên cứu dẫn đến việc phát hiện penicillin, cứu sống hàng triệu người.

Quỹ nâng đỡ các tiến bộ y học, các cơ sở giáo dục, và những chương trình y tế công cộng làm thay đổi xã hội.

Nhưng điều bất ngờ hơn nữa đã xảy ra: chính Rockefeller thay đổi.

Càng trao đi tài sản để giúp người khác, sức khỏe ông càng… tốt lên một cách kỳ lạ.

Đau đớn thuyên giảm.

Sức lực dần trở lại.

Năm lẽ ra ông phải chết… trôi qua. Rồi năm khác. Rồi lại một năm nữa.

Người bị “tuyên án” mười hai tháng sống đến 97 tuổi — thêm 44 năm so với dự liệu.

Các bác sĩ có thể tranh luận về điều đã cứu ông.

Nhưng Rockefeller thì biết. Ở cuối đời, ông tâm sự:

“Chúa dạy tôi rằng mọi thứ đều thuộc về Ngài, còn tôi chỉ là kênh để thực hiện ý muốn của Ngài.

Từ ngày đó, đời tôi là một kỳ nghỉ dài và hạnh phúc.”

Nửa đầu đời, ông tin rằng giàu có là phần thưởng.

Nửa sau dạy ông rằng tiền bạc chỉ là công cụ, và phần thưởng thật sự nằm ở những gì ta dựng xây bằng nó.

Ông không chỉ kiếm thêm những năm tháng; ông có được một đời sống khác — đầy ý nghĩa hơn là tích lũy, bình an thay vì quyền lực, mục đích thay vì sợ hãi.

Câu chuyện Rockefeller khẽ nhắc ta một sự thật:

Ta có thể dành cả đời để thắng một trò chơi sai.

Thành công vô nghĩa chỉ là khoảng trống đắt đỏ.

Nhưng không bao giờ là quá muộn để đổi cuộc chơi.

53 năm đầu của Rockefeller dựng nên một đế chế giàu có.

44 năm sau tạo nên một di sản — một di sản cho đến hôm nay vẫn đang cứu người.

TG Văn Chương

From: Tu-Phung