CHÚA GIÊSU VÀ QUÂN DỮ – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Sau nụ hôn phản bội, Giuđa lẩn vào đám người đến bắt Chúa Giêsu.  Công việc của hắn đã xong.  Việc hắn phải làm lúc này là hồi hộp quan sát với hy vọng rằng những người bắt Chúa Giêsu sẽ thực hiện đúng giao kèo và không để Chúa Giêsu vuột khỏi như bao lần trước trong quá khứ.

Chúa Giêsu không có ý định như vậy, nếu Ngài muốn thì cũng chẳng ai làm gì được Ngài.  Thay vì chờ kẻ thù ra tay, Ngài nói với họ: “Quý vị tìm ai?”  Họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét

.”  Ngài xác nhận: “Chính tôi đây.  Mặc dù đã có dấu chỉ điểm của Giuđa là nụ hôn, họ có vẻ vẫn nghi ngờ.  Ngu dốt hết sức!  Họ nghi người này dám ra mặt như thế thì không thể là người mà họ muốn bắt.

Thánh Gioan cho biết rằng khi Chúa Giêsu nói “Chính tôi đây” thì quân dữ đã “lùi lại và ngã xuống đất.”  Khi giải thích về sự té ngã của họ, chắc chắn rằng Thánh Gioan coi đó là một phép lạ do quyền năng của Chúa.  Có thể không phải cả đám họ đều ngã hết; có thể chỉ những người đứng ngay trước mặt Chúa Giêsu mới ngã, đó chính là những viên chỉ huy đã hỏi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu cho phép điều gì đó thuộc quyền năng của Ngài để chiếu tỏa trong lời Ngài và vẻ uy nghi của Ngài, kẻ thù phải giật lùi và ngã nhào.  Đây không là lần đầu tiên Chúa Giêsu khiến kẻ thù hoảng sợ vì vẻ uy nghi của Ngài (x. Ga 7:44; 10:39).  Ngài sẽ mở đường cho họ bởi vì đó là ý muốn của Chúa Cha, nhưng không phải trước khi cho họ thấy rằng Ngài tự do hành động.  Ngài làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:7).  Ngài làm vậy không phải vì yếu đuối mà vì chọn lựa.

TÌNH HUỐNG và THANH GƯƠM

Kẻ thù của Chúa Giêsu liền tận dụng tình huống này.  Chúa Giêsu trao mình mà không hề chống cự và xin tha cho các đệ tử.  Không có chiến đấu nên không có nguy hiểm, thế nên một số người trong đám lính tỏ ra hăng hái, bước tới và bắt Chúa Giêsu.  Giuđa giữ đủ mức độ yêu thương và lòng kính trọng dành cho Thầy để an thân, hắn để cho người khác hành động.  Các môn đệ ngạc nhiên trước các sự kiện này.  Chưa bao giờ họ thấy Thầy bị đối xử tồi tệ như vậy.  Những lần trước, khi kẻ thù tìm cách bắt Ngài, Ngài chỉ lặng lẽ lánh đi nơi khác, thế mà bây giờ Thầy lại chịu để cho chúng bắt.  Lúc này họ thấy Ngài nắm chặt hai bàn tay.

Ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ xin ý kiến của Thầy Giêsu để có thể chiến đấu bằng gươm, vì hai người trong số họ có gươm, nhưng họ không hiểu ý Thầy mình.  Chiều tối, Ngài nói với họ: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”  Họ đáp: “Thưa không.  Ngài bảo họ: “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua.  Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp.  Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất.  Họ thưa với Thầy Giêsu: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.  Ngài bảo: “Đủ rồi!” (Lc 22:35–38).  Có thể họ nghĩ rằng đây là cách Chúa Giêsu nói tới sự cấp bách.  Sự mạnh dạn của họ lớn hơn sự khôn ngoan.  Có gươm giáo trong tay, một số người trong số họ chờ lệnh của Thầy Giêsu, sẵn sàng xông vào đám lính Rôma.

Lúc đó, hành động nhanh chóng, vì Chúa Giêsu không còn thời gian để trả lời họ.  Phêrô bộc trực khi thấy Thầy bị bắt.  Ông không đợi Thầy trả lời, mà liền vung gươm chém thẳng vào đầu Malchus, một trong những người đang bắt giữ Thầy Giêsu.

Sau khi Phêrô chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, Chúa Giêsu nghiêm giọng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ý nghĩa câu nói không rõ ràng.  Có thể Chúa Giêsu có ý nói rằng “Cứ để như thế, không còn bạo lực nữa,” hoặc là “Cứ để mọi sự diễn biến; cứ để họ bắt Thầy.”  Trong lúc bị thương, hẳn là Malchus buông tay ra, và Chúa Giêsu liền dùng tay để gắn tai cho hắn.  NếuThầy Giêsu không làm phép lạ chữa lành tai cho Malchus, hẳn là Phêrô khó yên thân trong sân dinh thượng tế tối hôm đó.

Chúa Giêsu vẫn chủ động.  Quay sang Phêrô, Ngài nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ngài không tham dự vào việc tự vệ bằng bạo động, Ngài muốn yêu thương.

Bạo lực sinh ra bạo lực, đổ máu dẫn đến đổ máu nhiều hơn.  Dùng gươm phải được phép, nếu không sẽ phạm pháp.  Hơn nữa, Chúa Giêsu không cần họ trợ giúp: “Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao?  Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26:53).  Một đạo quân có 6.000 người.  Thay vì 12 môn đệ yếu đuối bảo vệ Ngài, Ngài có thể xin Chúa Cha ban cho mười hai lần sáu ngàn thiên thần giúp đỡ Ngài – tức là 12 x 6.000 = 72.000 quân.

Sau khi nói với Phêrô, Chúa Giêsu quay sang đám người đến bắt Ngài.  Mặc dù Ngài nói với mọi người, nhưng Ngài nhắm đến những kẻ có chức quyền, những kẻ chịu trách nhiệm về những gì xảy ra – các thượng tế, những người coi Đền Thờ, và các bô lão.  Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến?  Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt.  Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:52–53).

BẮT GIỮ

Chúa Giêsu không phản đối việc bắt Ngài nhưng phản đối cách thức, thời gian và nơi chốn mà họ bắt Ngài.  Họ đối xử với Ngài như thể Ngài là kẻ trộm cướp, trưởng băng đảng có vũ khí, hoặc kẻ phạm pháp.  Nếu có vấn đề sự khác nhau về học thuyết, họ cũng biết rất rõ rằng họ vẫn thấy Ngài giảng dạy ở Đền Thờ.  Họ có thể bắt Ngài giữa thanh thiên bạch nhật và đưa Ngài ra trước hội đường.  Chúa Giêsu biết tại sao họ không làm vậy – và chính họ cũng biết điều đó.  Họ biết họ kết tội Chúa Giêsu về những lời Ngài nói.  Họ sợ dân chúng vì tính thâm độc trong động lực và sự bất công trong cách đối xử của họ dành cho Chúa Giêsu.

Nhưng có ý nghĩa sâu xa về những gì xảy ra.  Họ là những kẻ độc ác.  Do đó hành động của họ hoàn tất lời tiên tri, như Chúa Giêsu đã xác định: “Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (Mc 14:49b).  Những gì họ làm đều được Thiên Chúa sử dụng và ăn khớp với kế hoạch cứu độ.

Lúc đó, quân dữ có vẻ đã thắng thế.  Chúa Giêsu nói: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:53b).  Họ đã nhiều lần muốn bắt Ngài nhưng không thể bởi vì giờ của Ngài chưa đến.  Bây giờ là lúc họ có thể tự do hành động.  Satan là hoàng tử của bóng tối, nó đã nhập vào Giuđa, kẻ thủ mưu thành công.  Giờ hành động của quân dữ cũng là giờ của quyền lực tối tăm, bởi vì họ hành động với tư cách là liên minh và vũ khí của Satan.

CÁC MÔN ĐỆ CHẠY TRỐN

Sau khi nói với đám quân dữ, Chúa Giêsu im lặng.  Các Thánh sử không cho biết có sự thảo luận giữa các môn đệ hay không, về những gì nên làm hoặc nên nói.  Các Phúc Âm chỉ cho biết cách hành động của các môn đệ: “Bấy giờ CÁC MÔN ĐỆ BỎ NGƯỜI MÀ CHẠY TRỐN HẾT” (Mt 26:56b).

Chạy trốn là hèn nhát, đáng xấu hổ.  Họ xa tránh Thầy Giêsu trong lúc nguy hiểm và bỏ mặc Thầy trong tay kẻ thù.  Tuy nhiên, chúng ta không nên coi đó là điều khó làm dịu tính nghiêm khắc về việc kết tội.  Chúa Giêsu đã giải tán họ và nói: “Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8).  Ngài phản đối họ dùng gươm giáo, vả lại Ngài cũng không tỏ dấu hiệu bỏ trốn.  Họ phải mau mắn quyết định điều cần làm, trong khi đó họ vẫn chăm chú theo dõi Chúa Giêsu, và họ quyết định chọn cách an toàn cho bản thân.   Khi họ thấy Chúa Giêsu bị bắt mà không tìm cách thoát thân, họ lẩn vào bóng tối của những tán cây ô-liu. Điều đó ứng nghiệm lời tiên tri về lời nói của Chúa Giêsu: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26:31).  Khi đó, Thánh Gioan thấy Thầy Giêsu đơn độc nên cảm thương: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do Thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại” (Ga 18:12).

Khi Chúa Giêsu đã bị trói chặt và bị quân lính vũ trang vây quanh, đám quân dữ bắt đầu dàn hàng tiến về thành phố.  Thánh Gioan cho biết rằng “họ điệu Chúa Giêsu đến ông Kha-nan, nhạc phụ của ông Cai-pha.  Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó” (Ga 18:13).  Truyền thống đặt dinh của ông Kha-nan– có lẽ cũng như dinh của ông Cai-pha – trên ngọn đồi phía Tây của thành phố, khoảng 60m tính từ căn phòng mà Chúa Giêsu đã ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ vài giờ trước đó.

THANH NIÊN CHẠY TRỐN

Đêm tối, mọi người trong thành phố đã yên giấc.  Chỉ có những lính canh còn thức bên các bức tường. Thánh Máccô cho biết rằng các môn đệ đã bỏ của chạy lấy người.  Trong các Phúc Âm, chỉ có Máccô thú nhận sự thật này: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai.  Họ túm lấy anh.  Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14:51–52).

Thánh Máccô là người theo Chúa Giêsu khi còn khá trẻ – chưa tới 20 tuổi.  Ông không đi theo xa xa, mà đi theo trong đám đông.  Điều này cho thấy rằng ông không đi theo vì tò mò hoặc hiếu kỳ, mà thực sự quan tâm, thế nên ông trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.  Và rồi ông bị quân dữ tóm lấy, nhưng ông bỏ áo để thoát thân, sợ quá nên ông chẳng ngại gì nữa dù lúc đó ông “trần như nhộng.”

Trình thuật Tin Mừng không cho chúng ta biết tình trạng đó của Mác-cô xảy ra trong khi người ta “dẫn độ” Chúa Giêsu từ Vườn Dầu tới dinh Kha-nan.  Có thể chàng trai trẻ Mác-cô là con của chủ nhân căn biệt thự Ghết-si-ma-ni và thức giấc vì tiếng la hét ồn ào của đám quân dữ.  Có một truyền thống cho rằng mẹ của Thánh Mác-cô là chủ căn nhà mà Chúa Giêsu và các môn đệ ăn Bữa Tiệc Ly.  Nếu truyền thống này đúng về vị trí của Phòng Tiệc Ly và dinh Kha-nan, hẳn là đám quân dữ dẫn tù nhân đi ngang qua Phòng Tiệc Ly.  Căn nhà của mẹ Thánh Mác-cô là một trong những nơi hội họp đầu tiên của các Kitô hữu thời sơ khai.  Đó là nơi mà Thánh Phêrô tới sau khi được thiên thần giải thoát khỏi nhà tù (Cv 12:12).

Chứng cớ chưa đủ thuyết phục, nhưng có điều nhỏ cho biết rằng chàng trai trẻ kia chính là Thánh Mác-cô.  Nếu đúng vậy, chúng ta có thể hình dung sự kiện đó vẫn sống động trong trí nhớ.  Nếu Thánh Mátthêu, Thánh Luca và Thánh Gioan biết điều này, hẳn là họ đã bỏ qua vì thấy không quan trọng.  Đối với Thánh Mác-cô, điều đó giống như một dấu ấn mà chính ông đã ghi dấu trong Phúc Âm do ông viết ra, giống như Thánh Gioan đã nói tới chính mình bằng cách nói “người môn đệ Chúa yêu.”

Lm Ralph Gorman –

 Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim

ĐỪNG CHẠY TRỐN THẬP GIÁ – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Một trong các diện mạo nổi bật của Cuộc Khổ Nạn là Chúa Giêsu đơn độc dữ dội trong những giờ phút cuối cuộc đời Ngài trên thế gian.  Đa số các môn đệ, những người theo Ngài và là bạn hữu của Ngài, đều trốn Ngài và bỏ rơi Ngài trong lúc cấp bách nhất.  Thánh Phêrô còn cả gan dám chối bỏ Ngài tới ba lần để tránh liên lụy tới Ngài – người mà ông đã mạnh mẽ tuyên xưng là Con Thiên Chúa (Mt 16:16).  Có vài người tận tình theo sát Ngài, đó là Đức Mẹ và Thánh Gioan, những người đứng bên chân Thập Giá và chứng kiến Chúa Giêsu Chúa Giêsu bị đóng đinh, rồi cùng đưa Ngài đi an táng.

Khi đi qua Mùa Chay Thánh này, chúng ta cần suy tư về những lần chúng ta đã chạy trốn thập giá và chạy trốn Chúa Giêsu.  Chúng ta đã từng làm điều đó, bằng cách này hay cách khác.  Đó là những lúc chúng ta trốn tránh đau khổ của chính mình, của người thân, của người lân cận, hoặc của những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống hằng ngày.  Nhưng “chạy trời không khỏi nắng”, bởi vì chúng ta không thể trốn tránh đau khổ về thể lý – như bệnh tật, mất người thân, mất việc làm, bị tổn thương, hoặc các dạng đau khổ khác, kể cả những điều trái ý trong cuộc sống.  Khi đau khổ xảy ra, chúng ta thường tránh né bằng cách xem ti-vi, lướt internet, ăn uống thứ gì đó, uống rượu, sử dụng ma túy, xem phim ảnh đen, v.v…  Rất đa dạng.  Chúng ta tìm cách làm bất cứ thứ gì để tránh đối mặt với thực tế của cuộc sống: thập giá.  Thật vậy, chúng ta luôn tìm cách chạy trốn thập giá!

Chạy Trốn Đau Khổ Của Người Khác

Đây là điều rất thật, đó là khi chúng ta gặp đau khổ của người khác.  Người ta rất ưa chủ nghĩa cá nhân.  Đây là đặc điểm đối lập với cách hiểu của Công giáo về Nhiệm Thể Đức Kitô.  Chúng ta là một cộng đồng.  Chúng ta được liên kết với nhau qua Chúa Thánh Thần ở mức độ sâu xa nhất của chính con người chúng ta.  Chúng ta là các chi thể của Đức Giêsu Kitô trên thế gian này.  Chúa Giêsu là Đầu.  Khi một chi thể của Nhiệm Thể bị đau, tất cả chúng ta cũng bị đau.  Chúng ta không biết thực tế này nên chúng ta có thể làm ngơ, nhưng đó là sự thật minh nhiên.

Khi yêu thương nhau với tư cách là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi đi vào trong nỗi đau khổ của những người lân cận.  Điều này không dễ, nhưng không có gì về Thập Giá cho chúng ta biết đời sống tâm linh và con đường nên thánh sẽ dễ dàng.  Chúa Cứu Thế Giêsu đã chết trên Thập Giá và Ngài cho chúng ta biết rằng chúng ta PHẢI theo Ngài.  Có một Thập Giá cuối cùng dành cho mỗi chúng ta là chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt trước khi chúng ta có thể bước vào đời sống vĩnh hằng: TỬ THẦN ĐANG ĐỢI TẤT CẢ CHÚNG TA.  Thập Giá đến trước khi ngôi mộ trống.  Cuộc sống này là những chuỗi thập giá dẫn chúng ta tới chung một số phận như Đức Chúa của chúng ta.  Dù vậy, chúng ta vẫn hy vọng nhờ những gì xảy ra phía sau Thập Giá.

Khi Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội trên thế gian, Ngài muốn kết hiệp toàn nhân loại qua dấu chỉ hữu hình đối với thế giới thực tế về bản thể học (ontological reality) trong tính liên kết của nhân loại và tặng phẩm Ơn Cứu Độ.  Đức Kitô đã mặc xác phàm, điều này liên kết Ngài với chúng ta trong tình đoàn kết và liên kết chúng ta với nhau.  Đó là nhờ mối liên kết sâu xa mà Ngài truyền lệnh cho chúng ta là phải yêu thương người lân cận.  Yêu thương đòi hỏi lòng ước muốn trong chúng ta về điều tốt lành đối với người lân cận.  Điều đó có nghĩa là chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta có sức chịu đựng, bởi vì tình yêu đòi hỏi sự hy sinh: vác thập giá.  Chúng ta cần can đảm chung phần đau khổ với tha nhân, nhưng tình yêu thương thúc giục chúng ta thể hiện sự công bình.  Chúng ta làm nhẹ gánh nặng của người khác và mở rộng khả năng yêu thương khi chúng ta chấp nhận đồng hành với những người đau khổ ở xung quanh chúng ta.  Đi vào nỗi đau khổ của người khác không chỉ là phong cách của Mẹ Thánh Teresa Calcutta, mà còn phải là của mỗi chúng ta.

Đi Vào Nỗi Đau Khổ Của Người Khác Bằng Cách Nào?

Đa số chúng ta không được mời gọi từ bỏ mọi thứ để sống trong những khu nhà ổ chuột và dành trọn thời gian để phục vụ người nghèo.  Chúng ta có trách nhiệm gia đình, đó là ơn gọi của chúng ta.  Thập giá của người khác có thể ở nhiều dạng, và chúng ta phải tập thói quen nhận ra nhu cầu của những người ở xung quanh chúng ta.  Chúng ta phải mang sức nặng thập giá của chính mình, đồng thời cũng tìm cách làm nhẹ gánh nặng của người khác.  Bắt đầu có thể là thăm viếng bệnh nhân hoặc người già nào đó, an ủi người sầu khổ, nâng đỡ người thất vọng, giúp đỡ người cô thân, chia sẻ lương thực với người nghèo khó, gọi điện thăm hỏi ai đó, chia sẻ với người vô gia cư…  Hãy nhìn họ là hình ảnh của Thiên Chúa.  Cứ thế và cứ thế…  Cái nghèo đáng sợ nhất là cái nghèo về tinh thần: sự cô đơn.  Khi nào chúng ta thôi chạy trốn thập giá?  Đó là lúc chúng ta không ngừng yêu thương người lân cận, bởi vì không có cách nào có thể chấm dứt đau khổ trên thế gian này!

Chúng Ta Có Tiếp Tục Chạy Trốn?

Bạn có chạy trốn thập giá?  Mỗi chúng ta có thể trả lời “có” với câu hỏi này.  Chắc chắn tất cả chúng ta đều đã từng làm ngơ trước nỗi đau khổ của người khác.  Vào một lúc nào đó, tất cả chúng ta đã tránh né thập giá của chính mình bằng cách nào đó.  Chúa Giêsu đã dùng chính các thập giá này để làm tăng khả năng yêu thương ở chúng ta, Ngài muốn làm chúng ta nên thánh.  Thật là không hề dễ chút nào.  Đau khổ rất mạnh mẽ khiến người ta có thể cảm thấy không thể sống sót, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể mở rộng tâm hồn chúng ta qua những nỗi đau khổ đó.  Ngài cũng mở rộng tâm hồn yêu thương của chúng ta qua đau khổ chúng ta chịu hằng ngày.

Chúng Ta Nghĩ Về Thiên Đàng Như Thế Nào?

Thiên Đàng là sự liên kết những con người đã được định hình theo tình yêu của Chúa Ba Ngôi chí thánh.  Đó là mối liên kết được nhận biết trọn vẹn, là SỰ QUÊN MÌNH HOÀN TOÀN, là sự liên tục yêu thương qua hành động – như việc các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.  Đó là sự bước vào thập giá của người khác cho tới tận thế.  Yêu thương đòi hỏi thập giá.  Một trong các cách Thiên Chúa chuẩn bị Nước Trời cho chúng ta là dạy chúng ta đi vào nỗi đau khổ của tha nhân.  Thập giá có tính biến đổi, có thể làm chúng ta nên thánh.  Mùa Chay này, chúng ta hãy cầu xin cho có sức mạnh và biết cách đi vào Cuộc Khổ Nạn cùng với Chúa Giêsu và tha nhân để chúng ta có thể trưởng thành trong tình yêu thương và sự thánh thiện.

Constance T. Hull

 Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim

CUỘC KHỔ NẠN NỘI TÂM CỦA CHÚA GIÊSU – Alexandra Reis – Trầm Thiên Thu 

Alexandra Reis – Trầm Thiên Thu chuyển ngữ

Chúng ta được thánh hóa là nhờ Giá Máu cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.  Nhưng chúng ta thường chỉ “chăm chú” vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa về phương diện thể lý chứ không đi sâu vào ý nghĩ và nỗi đau nội tâm mà Chúa Giêsu phải chịu đựng vì chúng ta. S uy tư của tác giả Alexandra Reis hay quá!  Xin được giới thiệu với quý vị.

CHÚA GIÊSU TẠI VƯỜN DẦU

Một điểm để suy nghĩ khi Chúa Giêsu phát hiện các đệ tử ngủ hết trơn.  Ngài hỏi ông Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” (Mt 26:40).  Trong sự khôn ngoan vô cùng của Ngài, Chúa Giêsu không bao giờ muốn chúng ta nói: “Thầy không cảm thấy thế nào sao?”  Do đó, Ngài vẫn để cho các môn đệ thân tín bỏ rơi Ngài.  Ngài có thể làm cho họ tỉnh thức, nhưng Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng luôn có ai đó tỉnh thức trong đêm tối, người đó chia sẻ những nỗi đau của chúng ta và an ủi chúng ta trong mọi nỗi đau khổ hằng ngày.  Ngài muốn nói rằng trong những lúc đen tối nhất và lầm lẫn nhất, Ngài luôn có ở đó, ngay cả khi cả thế giới đang ngủ yên.

CHÚA GIÊSU BỊ XÉT XỬ

“Sự thật là gì?” (Ga 18:38).  Câu hỏi này được Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu khi xét xử Ngài.  Lúc đó, Chúa Giêsu trả lời mọi câu hỏi dành cho Ngài, nhưng Ngài không trả lời câu hỏi này: “Ông là ai, là vua ư?”  Tại sao?  Vì Ngài là Sự Thật.  Thiên Chúa biết chúng ta thường nghi ngờ chính Ngài và Ý Ngài, nên Ngài muốn cho chúng ta thấy cái gì đó hữu hình: Ngài sai Chúa Con tới thế gian.  Có thể Ngài không trả lời vì biết tầm hiểu của Phi-la-tô có giới hạn.  Cũng như sau khi chữa lành người mù, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39).  Ngài chỉ trao ban Sự Thật cho những ai xin được biết, chứ không ban cho những người cho là mình biết rồi.  Ngài im lặng để những người thấy mà tin.

CHÚA GIÊSU BỊ TRÓI VÀO CỘT ĐÁ VÀ BỊ ĐÁNH ĐÒN

Lúc này, “Vua các vua” bị hành hạ dữ dội khi hai tay bị trói chặt vào cột đá, nhưng Ngài nghĩ gì?  Ngài bị giết chết vì chúng ta, tất nhiên Ngài nghĩ về chúng ta.  Nhưng không chỉ là nhân loại nói chung, mà nghĩ một cách đặc biệt.  Ngài vô thủy vô chung, nên Ngài cũng nghĩ tới riêng từng người sẽ xuất hiện trên thế gian này.  Thánh Tâm Ngài bị đè nặng vì tội lỗi của cả thế giới, với thân thể trần truồng và yếu đuối bị treo trên Thập Giá, Ngài vẫn luôn nghĩ tới chúng ta, hy vọng một ngày ngày nào đó mỗi chúng ta đều trở thành đại thánh nhân.  Với ý nghĩ này, Ngài không nề đổ máu đến giọt cuối cùng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta.  Tại sao chúng ta sợ khi cuộc sống gặp trắc trở?  Ngài vẫn đợi chúng ta ở đó để được nghe chúng ta kêu xin.  Đừng để Ngài phải chờ đợi lâu!  Chúng ta hãy cố gằng đáp lại tình yêu của Ngài luôn dành cho chúng ta!

CHÚA GIÊSU CHỊU ĐỘI VÒNG GAI

Bao đau khổ vẫn chưa đủ với Chúa Giêsu.  Ngài biết chúng ta không đủ can đảm khi bị người ta khinh miệt và vu khống, thế nên Ngài quyết định “bù lỗ” cho chúng ta.  Đức cố Tổng Giám Mục Fulton Sheen nói rằng không chỉ Thánh Thể hóa tiều tụy mà còn chịu tơi tả thảm thương, vòng gai nhọn đặt lên đầu Ngài, những chiếc gai sắc đâm thấu óc đến nỗi có thể chết ngay được.  Không chỉ vậy, Ngài còn bị mỉa mai vì yêu thương chúng ta.  Cứ tưởng tượng cũng thấy nổi gai óc, nổi da gà rồi!  Ngài muốn cảnh báo chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ bị mỉa mai nếu chúng ta bảo vệ Sự Thật và Công Lý, nhưng Ngài ban cho chúng ta niềm hy vọng (đức cậy) và mặc khải rằng thế gian này không phải là nơi ở của chúng ta.

CHÚA GIÊSU VÁC THẬP GIÁ

Sau khi bị lột áo, Ngài còn phải vác Thập Giá.  Thập Giá này không chỉ để đóng đinh Ngài cho tới chết, mà Ngài còn vác thập giá của cả nhân loại, của mỗi chúng ta.  Trên Thập Giá, Ngài hy sinh vì chúng ta, và qua đó, Ngài thánh hóa bổn phận hằng ngày của chúng ta, cho chúng ta biết con đường thập giá gian nan lắm.  Ngài đã phải ngã ba lần, nhưng Ngài vẫn cố đứng dậy để chúng ta biết rằng chúng ta cũng nhiều lần quỵ ngã vì phạm tội, nhưng chúng ta phải đứng dậy ngay.  Sức khỏe Ngài rất yếu khi Ngài vác Thập Giá, ông Simon (người Ky-rê-nê) bị bọn thủ ác “bắt cóc” vác đỡ Thập Giá cho Ngài.  Điều này cho thấy rằng thập giá không bao giờ là quá nhiều để chúng ta không thể vác nổi, chúng ta vẫn luôn được vác đỡ.  Qua đó, Ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải cố gắng sống kiên trì, hy vọng và yêu thương.

CHÚA GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH

Cuối cùng là cao điểm của sự hành hạ.  Bị treo trên Thập Giá rồi mà Ngài vẫn đại lượng:“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34).  Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi điều này.  Tình yêu phải rất lớn thì mới có thể tha thứ kẻ thù.  Nhưng đó cũng là “tiêu chuẩn vào Nước Trời.”  Ngài tha thứ như vậy vì Ngài nghĩ tốt cho những người hành hạ và nguyền rủa Ngài, nghĩ tốt cho chúng ta, rằng họ đang ăn năn và đã lỡ “quá tay.”  Đây là lý do chính mà Chúa Giêsu chịu chết vì chúng ta, Ngài nghĩ về chúng ta, Ngài muốn thể hiện tình yêu trọn vẹn và sự tha thứ trọn vẹn cho những người thành tâm sám hối đền tội mình, Ngài cũng nói như vậy với chúng ta và chúc lành cho những người sám hối.  Ngài bênh vực rằng chúng ta lầm mà thôi.  Lạy Chúa của con!

CHÚA GIÊSU CHỊU CÔ ĐƠN

“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34).  Đó là động thái cuối cùng của Lòng Thương Xót dành cho chúng ta trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài.  Qua đó, Ngài đền bù và sửa chữa mọi trái tim bị bỏ rơi trên thế giới.  Ngài chịu cảm giác đơn độc đến nỗi chúng ta không thể tưởng tượng nổi.  Ngài cô độc và vô vọng để trao niềm hy vọng cho những người bị khinh miệt, không có bạn, bị bỏ rơi, bị mỉa mai, nhưng không ban niềm an ủi cho những người kiêu căng và tự phụ.  Tại sao?  Vì “họ đã được phần thưởng rồi” (Mt 6:2, 5 & 16).  Chúng ta hãy hướng về Chúa trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời và hãy cố gắng sống thánh thiện để đáp lại tình yêu của Ngài.

CHÚA GIÊSU TRÚT HƠI THỞ

Và thế là hoàn tất.  Đỉnh cao của Cuộc Khổ Nạn là lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng.  Sự hy sinh vô hạn được Ngài dành cho chúng ta để cứu độ chúng ta.  Vì thế, chúng ta phải cố gắng hy sinh để ngày mai xứng đáng vào Nước Trời, Vương quốc Vĩnh hằng.  Bạn muốn nên thánh tới mức nào khi suy niệm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu?  Mùa Chay là dịp nhắc nhở chúng ta Về Quê Thật.  Trước tiên, chúng ta phải đi xuyên suốt Hành Trình Khổ Nạn để đạt tới Đích Phục Sinh.  Như vậy, chúng ta hãy cố gắng nên thánh trong Mùa Chay Thánh này.  Hãy trao chính mình cho Thiên Chúa, đừng bắt Ngài chờ đợi trong Vườn Dầu Linh Hồn chúng ta.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta trong Mùa Chay Thánh này để hoàn thiện như Ngài!

Alexandra Reis – 

Trầm Thiên Thu 

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

From: Langthangchieutim

CHUYỆN PHẢN BỘI – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Phản bội là không trung thành, dám bội ước quên thề, không ngại vong ân bội nghĩa, sẵn sàng ăn cháo đá bát.  Phản bội có nhiều dạng và nhiều mức độ.  Có lẽ dạng “nhẹ” nhất là thất hứa (đối với loại hứa hẹn bình thường), chẳng hạn hứa tặng cho ai cái gì đó hoặc hứa làm điều gì đó mà không giữ lời – dù là quên do sơ ý hoặc cố ý.  Chắc chắn rằng thất hứa cũng là một dạng phản bội.  Chắc hẳn ai cũng đã từng khổ sở vì bị phản bội, và cũng đã hơn một lần ngang nhiên… phản bội người khác!

Tuần Thánh có “nét đậm” về sự phản bội.  Chính Chúa Giêsu là người bị phản bội, còn kẻ phản bội lại chẳng ai xa lạ gì mà chỉ là những người thân tín và được Ngài hết lòng thương yêu.  Những kẻ đó là ai?  Có tôi không?

Thứ Nhất là giám mục Phêrô (người sẽ được Chúa Giêsu cất nhắc làm giáo hoàng).  Ông là người đã mạnh mẽ nói chắc như đinh đóng cột: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” (Ga 13:37; Mt 26:35; Mc 14:31; Lc 22:33).  Thế nhưng ông đâu có dám, mạnh miệng thế thôi. Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng ông, biết rõ cả tương lai của ông, nên Ngài nói: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (Ga 13:38; Mt 26:34; Mc 14:30; Lc 22:34). Và tất cả các môn đệ cũng đều nói chắc như vậy. Ui da, coi bộ “kẹt” dữ nghen!  Mà “kẹt” thật, bởi vì sau đó sự thể diễn tiến trúng phoóc, xảy ra y chang.

Phêrô chối đay đảy, chối không ngại miệng, vuốt mặt không nể mũi.  Ông không chỉ chối bỏ Sư Phụ của mình mà còn chối bỏ cả nguồn cội của mình là người xuất thân từ Galilê.  Nào có ai quyền hành tra xét chi đâu mà sợ đến thế, chỉ là mấy đầy tớ gái thôi mà.  Ôi, con người là thế, rất yếu đuối, nói hay mà làm dở, hứa nhiều mà chẳng giữ trọn được bao nhiêu!  Nói theo kiểu tam-đoạn-luận: phàm nhân yếu đuối và sa ngã, Phêrô là phàm nhân, chúng ta là phàm nhân, thế nên cả Phêrô và chúng ta đều yếu đuối và sa ngã.  Nói trước bước không qua.  Thế nên tiền nhân đã nhắc nhở: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.”

Vấn đề không dừng lại ở đó.  Phêrô đã phản bội nhưng cũng đã thật lòng sám hối, vấn đề quan trọng là SÁM HỐI.  Thế nên ông được Thầy Giêsu ân thương thứ tha và còn trao ban quyền cao chức trọng là làm giáo hoàng, với trọng trách làm “hoa tiêu” lèo lái Con Thuyền Giáo Hội trên biển cả trần gian, là người chăm sóc cả chiên mẹ và chiên con (Ga 21:15-17), đồng thời còn phải củng cố đức tin cho người khác: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh (Lc 22:32).  Phương trình cân bằng: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều (Lc 12:48).  Hai mẫu tự Đ độc đáo lắm!

Thứ Nhì là giám mục Giuđa Ítcariốt, con trai ông Simôn Ítcariốt.  Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu nhắc tới lời Kinh Thánh: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18; x. Tv 41:10).  Và rồi Ngài cảm thấy tâm thần xao xuyến.  Ngài tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13:21).  Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai.  Trong số các môn đệ có một người được Đức Giêsu thương mến và được tựa đầu vào ngực Thầy.  Ông Phêrô làm hiệu cho ông Gioan hỏi xem Thầy muốn nói về ai.  Ông Gioan liền nghiêng mình vào ngực Thầy và hỏi xem người đó là ai vậy.  Đức Giêsu trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy” (Ga 13:26).  Nói rồi Ngài chấm một miếng bánh trao cho Giuđa.  Đối với tục lệ Do Thái, việc tự tay trao cho người khác như vậy là động thái ân cần lắm.  Người Việt cũng có cách “quan tâm” tương tự là gắp đồ ăn cho người khác.

Ông Giuđa vừa ăn xong miếng bánh liền bị Satan nhập vào. Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13:27).  Sau khi ăn miếng bánh, ông Giuđa liền đi ra.  Lúc đó, trời đã tối.  Ở đây có hai chi tiết:

[1] Ông Giuđa đã rước lễ bất xứng nên bị ma quỷ nhập, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11:27).

[2] Ông Giuđa ra đi và vào trong vùng bóng tối, tức là vùng của ma quỷ.  Bóng tối đối lập với ánh sáng, ma quỷ đối lập với Thiên Chúa.  Những việc làm trong “bóng tối” là động thái lén lút, biểu hiện sự xấu xa.  Ông Giuđa hành động theo mệnh lệnh của “lòng ham mê tiền bạc,” mà tiền bạc là hiện thân của ma quỷ: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).  Chỉ vì 30 đồng bạc (silver coins, không phải là gold coins – đồng vàng), giá rất bèo, một số tiền không lớn, thế mà ông Giuđa đành đoạn tình dứt nghĩa với Thầy của mình.

Sau khi nhận tiền, có lẽ ông nghĩ là họ mắc lừa, nghĩa là ông có tiền trong tay nhưng họ không thể chạm vào chân lông của Thầy.  Đã bao lần họ tìm cách ném đá Thầy nhưng vô ích, và rồi rõ ràng là mới nghe Thầy nói “chính tôi đây” là chúng té lăn cù liền đấy thôi.  Nhưng rồi thấy Thầy bị bắt, ông đâm hoảng.  Sao kỳ vậy ta?  Quyền phép thầy biến đâu hết rồi?  Và ông đã ném trả số tiền đó vào Đền Thờ (Mt 27:5).

Nhưng tiếc thay, ông đã mất niềm tin vào lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa, thế nên ông đã tự xử tội mình bằng cách mượn sợi dây để kết liễu mạng sống (Mt 27:5).  Đó là động thái hèn nhát.  Chết không phải là can đảm mà dám sống để chịu đau khổ mới thực sự là can đảm.
Chắc rằng chẳng ai dám làm quan tòa để xét đoán ông Giuđa có được cứu độ hay không, nhưng mỗi chúng ta cần phải soi mình qua “tấm gương mờ tối” của ông để tự xét mình và cố gắng sửa đổi cho kịp khi còn trong thời gian Thiên Chúa kiên trì chờ đợi chúng ta “làm lại cuộc đời” – tức là Giờ của Lòng Thương Xót.

Thứ Ba Là Dân Chúng.  Trong đó có đủ loại người và đủ độ tuổi.  Họ đã từng mê say nghe Chúa Giêsu giảng đạo đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ, rồi Ngài thấy tội nghiệp nên làm phép lạ cho họ ăn uống no nê – một lần đến năm ngàn đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, và còn dư 12 thúng đầy (Mt 14:15-21; Mc 6:30-44; Lc 9:12-17; Ga 6:5-13 – với năm chiếc bánh và hai con cá), và một lần đến bốn ngàn đàn ông, cũng không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, tính cả cũng gần chục ngàn người, và còn dư bảy giỏ (Mt 15:32-38; Mc 8:1-10 – với bảy chiếc bánh).
Thấy phép lạ nhãn tiền như vậy, chính họ cũng đặt vấn đề và kháo nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14).  Và rồi chỉ mới vài ngày trước Lễ Vượt Qua, họ lũ lượt đón Ông-Làm-Phép-Lạ vào Thánh Thánh Giêrusalem.  Họ sung sướng đến nỗi cởi áo ra trải lên đường cho lừa chở Ngài vô, đua nhau bẻ cành lá vẫy chào và tung hô vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít!  Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!  Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21:9; Mc 11:9; Lc 19:38; Ga 12:12).

Nhưng rồi họ nghe những kẻ thủ đoạn kích động nên họ lật mặt, lời tung hô thành lời phản đối, tay giơ cành lá vẫy chào biến thành những nắm đấm giơ cao và la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:15).  Rõ ràng là phản bội trắng trợn.  Mỗi chúng ta cũng hăng hái và hùng hổ lẫn vào trong đám người phản trắc tồi tệ đó!
Mọi sự ồn ào náo nhiệt dần dần lặng lẽ theo con đường lên Can-vê…  Trên đường vác thập giá lên Đồi Sọ, Chúa Giêsu đã ngã ba lần vì sức nặng của thập giá, nhưng Ngài đã cố gắng đứng dậy dù rất yếu đuối và kiệt sức.  Chúng ta cũng vậy, đã bao lần té lên té xuống, nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng mặc dù có lúc cảm thấy thất vọng về chính mình.  Hãy vững tin vào Thầy Giêsu, luôn cố gắng đứng dậy và quyết tâm làm lại cuộc đời. T hánh nhân có quá khứ, tội nhân có tương lai.

Hãy cố gắng sống theo lệnh truyền của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thầy Chí Thánh Giêsu Kitô, mỗi ngày thêm hoàn thiện hơn: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).  Các điệp từ “yêu thương nhau” phải vang lên theo từng hơi thở, yêu thương thì sẵn sàng tha thứ.

Cuối cùng, hãy nghe lời của Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) với cách phân tích rất chí lý: “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành.”  Ai cũng lần mò về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha (Thánh Inhaxio Loyola), chắc chắn rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của cả thế giới này kia mà!  Chính Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Faustina như thế đấy.  Cứ an tâm, vững tin, cố gắng “chết” dần dần, và rồi sẽ được phục sinh với Thấy Giêsu.  Amen!

Trầm Thiên Thu

 From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

CHUYỆN PHẢN BỘI – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Phản bội là không trung thành, dám bội ước quên thề, không ngại vong ân bội nghĩa, sẵn sàng ăn cháo đá bát.  Phản bội có nhiều dạng và nhiều mức độ.  Có lẽ dạng “nhẹ” nhất là thất hứa (đối với loại hứa hẹn bình thường), chẳng hạn hứa tặng cho ai cái gì đó hoặc hứa làm điều gì đó mà không giữ lời – dù là quên do sơ ý hoặc cố ý.  Chắc chắn rằng thất hứa cũng là một dạng phản bội.  Chắc hẳn ai cũng đã từng khổ sở vì bị phản bội, và cũng đã hơn một lần ngang nhiên… phản bội người khác!

Tuần Thánh có “nét đậm” về sự phản bội.  Chính Chúa Giêsu là người bị phản bội, còn kẻ phản bội lại chẳng ai xa lạ gì mà chỉ là những người thân tín và được Ngài hết lòng thương yêu.  Những kẻ đó là ai?  Có tôi không?

Thứ Nhất là giám mục Phêrô (người sẽ được Chúa Giêsu cất nhắc làm giáo hoàng).  Ông là người đã mạnh mẽ nói chắc như đinh đóng cột: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” (Ga 13:37; Mt 26:35; Mc 14:31; Lc 22:33).  Thế nhưng ông đâu có dám, mạnh miệng thế thôi.  Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng ông, biết rõ cả tương lai của ông, nên Ngài nói: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư?  Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (Ga 13:38; Mt 26:34; Mc 14:30; Lc 22:34).  Và tất cả các môn đệ cũng đều nói chắc như vậy.  Ui da, coi bộ “kẹt” dữ nghen!  Mà “kẹt” thật, bởi vì sau đó sự thể diễn tiến trúng phoóc, xảy ra y chang.

Phêrô chối đay đảy, chối không ngại miệng, vuốt mặt không nể mũi.  Ông không chỉ chối bỏ Sư Phụ của mình mà còn chối bỏ cả nguồn cội của mình là người xuất thân từ Galilê.  Nào có ai quyền hành tra xét chi đâu mà sợ đến thế, chỉ là mấy đầy tớ gái thôi mà.  Ôi, con người là thế, rất yếu đuối, nói hay mà làm dở, hứa nhiều mà chẳng giữ trọn được bao nhiêu!  Nói theo kiểu tam-đoạn-luận: phàm nhân yếu đuối và sa ngã, Phêrô là phàm nhân, chúng ta là phàm nhân, thế nên cả Phêrô và chúng ta đều yếu đuối và sa ngã.  Nói trước bước không qua.  Thế nên tiền nhân đã nhắc nhở: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.

Vấn đề không dừng lại ở đó.  Phêrô đã phản bội nhưng cũng đã thật lòng sám hối, vấn đề quan trọng là SÁM HỐI.  Thế nên ông được Thầy Giêsu ân thương thứ tha và còn trao ban quyền cao chức trọng là làm giáo hoàng, với trọng trách làm “hoa tiêu” lèo lái Con Thuyền Giáo Hội trên biển cả trần gian, là người chăm sóc cả chiên mẹ và chiên con (Ga 21:15-17), đồng thời còn phải củng cố đức tin cho người khác: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:32).  Phương trình cân bằng: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều (Lc 12:48).  Hai mẫu tự Đ độc đáo lắm!

Thứ Nhì là giám mục Giuđa Ítcariốt, con trai ông Simôn Ítcariốt.  Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu nhắc tới lời Kinh Thánh: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18; x. Tv 41:10).  Và rồi Ngài cảm thấy tâm thần xao xuyến.  Ngài tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13:21).  Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai.  Trong số các môn đệ có một người được Đức Giêsu thương mến và được tựa đầu vào ngực Thầy.  Ông Phêrô làm hiệu cho ông Gioan hỏi xem Thầy muốn nói về ai.  Ông Gioan liền nghiêng mình vào ngực Thầy và hỏi xem người đó là ai vậy.  Đức Giêsu trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy” (Ga 13:26).  Nói rồi Ngài chấm một miếng bánh trao cho Giuđa.  Đối với tục lệ Do Thái, việc tự tay trao cho người khác như vậy là động thái ân cần lắm.  Người Việt cũng có cách “quan tâm” tương tự là gắp đồ ăn cho người khác.

Ông Giuđa vừa ăn xong miếng bánh liền bị Satan nhập vào. Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13:27).  Sau khi ăn miếng bánh, ông Giuđa liền đi ra.  Lúc đó, trời đã tối.  Ở đây có hai chi tiết:

[1] Ông Giuđa đã rước lễ bất xứng nên bị ma quỷ nhập, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11:27).

[2] Ông Giuđa ra đi và vào trong vùng bóng tối, tức là vùng của ma quỷ.  Bóng tối đối lập với ánh sáng, ma quỷ đối lập với Thiên Chúa.  Những việc làm trong “bóng tối” là động thái lén lút, biểu hiện sự xấu xa.  Ông Giuđa hành động theo mệnh lệnh của “lòng ham mê tiền bạc,” mà tiền bạc là hiện thân của ma quỷ: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).  Chỉ vì 30 đồng bạc (silver coins, không phải là gold coins – đồng vàng), giá rất bèo, một số tiền không lớn, thế mà ông Giuđa đành đoạn tình dứt nghĩa với Thầy của mình.

Sau khi nhận tiền, có lẽ ông nghĩ là họ mắc lừa, nghĩa là ông có tiền trong tay nhưng họ không thể chạm vào chân lông của Thầy.  Đã bao lần họ tìm cách ném đá Thầy nhưng vô ích, và rồi rõ ràng là mới nghe Thầy nói “chính tôi đây” là chúng té lăn cù liền đấy thôi.  Nhưng rồi thấy Thầy bị bắt, ông đâm hoảng.  Sao kỳ vậy ta?  Quyền phép thầy biến đâu hết rồi?  Và ông đã ném trả số tiền đó vào Đền Thờ (Mt 27:5).

Nhưng tiếc thay, ông đã mất niềm tin vào lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa, thế nên ông đã tự xử tội mình bằng cách mượn sợi dây để kết liễu mạng sống (Mt 27:5).  Đó là động thái hèn nhát.  Chết không phải là can đảm mà dám sống để chịu đau khổ mới thực sự là can đảm.

Chắc rằng chẳng ai dám làm quan tòa để xét đoán ông Giuđa có được cứu độ hay không, nhưng mỗi chúng ta cần phải soi mình qua “tấm gương mờ tối” của ông để tự xét mình và cố gắng sửa đổi cho kịp khi còn trong thời gian Thiên Chúa kiên trì chờ đợi chúng ta “làm lại cuộc đời” – tức là Giờ của Lòng Thương Xót.

Thứ Ba Là Dân Chúng.  Trong đó có đủ loại người và đủ độ tuổi.  Họ đã từng mê say nghe Chúa Giêsu giảng đạo đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ, rồi Ngài thấy tội nghiệp nên làm phép lạ cho họ ăn uống no nê – một lần đến năm ngàn đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, và còn dư 12 thúng đầy (Mt 14:15-21; Mc 6:30-44; Lc 9:12-17; Ga 6:5-13 – với năm chiếc bánh và hai con cá), và một lần đến bốn ngàn đàn ông, cũng không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, tính cả cũng gần chục ngàn người, và còn dư bảy giỏ (Mt 15:32-38; Mc 8:1-10 – với bảy chiếc bánh).

Thấy phép lạ nhãn tiền như vậy, chính họ cũng đặt vấn đề và kháo nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14).  Và rồi chỉ mới vài ngày trước Lễ Vượt Qua, họ lũ lượt đóng Ông-Làm-Phép-Lạ vào Thánh Thánh Giêrusalem.  Họ sung sướng đến nỗi cởi áo ra trải lên đường cho lừa chở Ngài vô, đua nhau bẻ cành lá vẫy chào và tung hô vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít!  Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!  Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21:9; Mc 11:9; Lc 19:38; Ga 12:12).

Nhưng rồi họ nghe những kẻ thủ đoạn kích động nên họ lật mặt, lời tung hô thành lời phản đối, tay giơ cành lá vẫy chào biến thành những nắm đấm giơ cao và la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:15).  Rõ ràng là phản bội trắng trợn.  Mỗi chúng ta cũng hăng hái và hùng hổ lẫn vào trong đám người phản trắc tồi tệ đó!

Mọi sự ồn ào náo nhiệt dần dần lặng lẽ theo con đường lên Can-vê…  Trên đường vác thập giá lên Đồi Sọ, Chúa Giêsu đã ngã ba lần vì sức nặng của thập giá, nhưng Ngài đã cố gắng đứng dậy dù rất yếu đuối và kiệt sức.  Chúng ta cũng vậy, đã bao lần té lên té xuống, nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng mặc dù có lúc cảm thấy thất vọng về chính mình.  Hãy vững tin vào Thầy Giêsu, luôn cố gắng đứng dậy và quyết tâm làm lại cuộc đời. T hánh nhân có quá khứ, tội nhân có tương lai.

Hãy cố gắng sống theo lệnh truyền của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thầy Chí Thánh Giêsu Kitô, mỗi ngày thêm hoàn thiện hơn: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).  Các điệp từ “yêu thương nhau” phải vang lên theo từng hơi thở, yêu thương thì sẵn sàng tha thứ.

Cuối cùng, hãy nghe lời của Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) với cách phân tích rất chí lý: “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành.”  Ai cũng lần mò về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha (Thánh Inhaxio Loyola), chắc chắn rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của cả thế giới này kia mà!  Chính Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Faustina như thế đấy.  Cứ an tâm, vững tin, cố gắng “chết” dần dần, và rồi sẽ được phục sinh với Thấy Giêsu.  Amen!

 Trầm Thiên Thu

From: Langthangchieutim

LỊCH SỬ MÙA CHAY – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để cầu nguyện, sám hối, hy sinh và làm việc lành để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh.  Muốn canh tân phụng vụ Giáo hội, Hiến pháp về Phụng vụ Thánh của Công đồng Vatican II nói: “Hai yếu tố là đặc tính của mùa Chay – nhớ lại Bí tích Thánh Tẩy hoặc chuẩn bị cho Bí tích này, và sám hối – nên được nhấn mạnh trong phụng vụ và giáo lý.  Qua đó, Giáo hội chuẩn bị cho các tín hữu về việc cử hành lễ Phục sinh, trong khi họ lắng nghe Lời Chúa nhiều hơn và dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn” (số 109).  Chữ Lent (mùa Chay) được rút ra từ chữ Lencten trong ngôn ngữ Anglo-Saxon, nghĩa là “mùa Xuân”, và Lenctentid không chỉ có nghĩa là “mùa Xuân” mà còn có nghĩa là “tháng Ba”, vì mùa Chay thường rơi vào tháng này.

Từ thời Giáo hội sơ khai, có chứng cớ về mùa Chay để chuẩn bị lễ Phục sinh.  Chẳng hạn, Thánh Irênê (qua đời năm 203) đã viết cho Thánh Giáo hoàng Victor I, nói về việc cử hành lễ Phục sinh và sự khác nhau giữa hai việc cử hành này trong Giáo hội Đông phương và Tây phương: “Sự tranh luận không chỉ về ngày này, mà còn về đặc tính của việc ăn chay.  Một số người nghĩ rằng họ nên ăn chay một ngày, một số người nghĩ nên ăn chay hai ngày, một số người khác lại nghĩ nên ăn chay nhiều ngày hơn; một số người khác lại nghĩ nên ăn chay 40 giờ cuối cùng.  Sự khác nhau trong cách giữ luật như vậy đã không có nguồn gốc như ngày nay, mà rất khác trước, từ thời xa xưa” (Eusebius, Lịch sử Giáo hội, V, 24).  Khi Rufinus dịch đoạn văn này từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin, có dấu phẩy giữa số 40 và chữ “giờ” khiến ý nghĩa hóa thành 40 ngày, mỗi ngày 24 giờ.  Do đó, tầm quan trọng của đoạn văn vẫn là từ thời tổ tiên xa xưa – luôn được diễn tả là thời các tông đồ, và thời gian 40 ngày mùa Chay đã xuất hiện.  Tuy nhiên, việc thực hành thực sự và thời gian mùa Chay vẫn chưa tương ứng trong cả Giáo hội.

Mùa Chay trở nên phổ biến hơn sau khi Kitô giáo được công nhận năm 313 (sau công nguyên).  Công đồng Nicê (325), trong giáo luật ghi rằng hai công nghị nên được tổ chức hằng năm, “một công nghị trước 40 mùa Chay.”  Thánh Athanasiô (qua đời năm 373) trong các “Lễ Thư” (Festal Letters) kêu gọi giáo đoàn ăn chay 40 ngày trước khi ăn chay nghiêm ngặt hơn trong Tuần Thánh.  Thánh Cyril thành Giêrusalem (qua đời năm 386) nói trong các bài giảng giáo lý, ngày nay gọi là RCIA (Rite of Catholic Initiation for Adults, nghi thức khai tâm Công giáo cho người lớn), trong đó có 18 điều hướng dẫn trước khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội được trao cho các tân tòng trong mùa Chay.  Thánh Cyril thành Alexandria (qua đời năm 444) viết trong một loạt “Lễ Thư” cũng cho biết rằng việc thực hành đó trong mùa Chay chú trọng thời gian 40 ngày ăn chay.  Cuối cùng, Thánh Giáo hoàng Leo (qua đời năm 461) đã giảng rằng các tín hữu phải “hoàn tất việc ăn chay 40 theo luật”, đồng thời chú ý nguồn gốc mùa Chay.  Có thể kết luận rằng, vào cuối thế kỷ IV, thời gian 40 ngày ăn chay chuẩn bị lễ Phục sinh được coi là mùa Chay như ngày nay, cầu nguyện và ăn chay đã tạo nên các bài luyện tập tâm linh thời sơ khai.

Dĩ nhiên, con số 40 luôn có ý nghĩa tâm linh đặc biệt quan tâm sự chuẩn bị.  Trên núi Hô-rép (núi Sinai), chuẩn bị nhận Mười Điều Răn, “Môsê ở đó với Đức Chúa 40 ngày và 40 đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Điều” (Xh 34:28).  Êlia đi bộ “40 ngày và 40 đêm lên núi Hô-rép để gặp Thiên Chúa” (1 V 19:8).  Quan trọng nhất là Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện “40 ngày và 40 đêm” trong hoang địa trước khi Ngài công khai sứ vụ (Mt 4:2).

Khi 40 ngày chay được thiết lập, việc kế tiếp là quan tâm mức độ ăn chay.  Chẳng hạn, tại Giêrusalem, người ta ăn chay 40 ngày, các ngày từ thứ Hai tới thứ Sáu trong tuần, nhưng không ăn chay vào thứ Bảy hoặc Chúa nhật, do đó mùa Chay kéo dài 8 tuần.  Tại Rôma và Tây phương, người ta ăn chay 6 tuần, các ngày từ thứ Hai tới thứ Bảy trong tuần, do đó mùa Chay kéo dài 6 tuần.  Cuối cùng, người ta ăn chay 6 ngày mỗi tuần trong 6 tuần, thứ Tư lễ Tro được thiết lập để tăng số ngày cho đủ 40 ngày trước lễ Phục sinh. Luật ăn chay có khác nhau.

Thứ nhất, một số vùng kiêng cữ các loại thịt và các sản phẩm làm từ động vật, một số vùng lại trừ các thức phẩm như cá.  Chẳng hạn, Thánh Giáo hoàng Grêgôriô (qua đời năm 604), viết cho Thánh Augustine thành Canterbury, nói về quy luật này: “Chúng ta phải kiêng những đồ tươi như thịt, và các loại tươi khác như sữa, bơ và trứng.”

Thứ nhì, luật chung cho mọi người là mỗi ngày chỉ ăn một bữa, buổi tối hoặc lúc 3 giờ chiều.

Luật ăn chay trong mùa Chay cũng thay đổi. Cuối cùng, được phép ăn nhẹ trong ngày để giữ sức khỏe mà làm việc.  Được phép ăn cá, và sau đó cũng được phép ăn thịt suốt tuần, trừ thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu.  Rồi được phép ăn các sản phẩm làm từ sữa, và cuối cùng luật này được hoàn toàn nới lỏng.  Tuy nhiên, kiêng cữ cả các sản phẩm sữa cũng dẫn đến việc ăn trứng Phục sinh và ăn bánh kẹp vào thứ Ba béo (Gras Mardi, Shrove Tuesday), trước thứ Tư lễ Tro.

Thời gian trôi qua, luật được thay đổi dần, thế nên ngày nay việc ăn chay không chỉ đơn giản mà còn quá dễ.  Thứ Tư lễ Tro vẫn là khởi điểm mùa Chay, từ đó kéo dài 40 ngày, không kể Chúa nhật.  Luật ăn chay và kiêng thịt ngày nay rất đơn giản: Chỉ giữ vào thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, các tín hữu ăn chay (một bữa no, hai bữa nhẹ) và kiêng thịt; còn các thứ Sáu khác trong mùa Chay chỉ phải kiêng thịt.  Giáo hội khuyến khích “từ khước cái gì đó” để hy sinh trong mùa Chay.  Có điều thú vị vào các Chúa nhật và lễ trọng như lễ Thánh Giuse (19 tháng Ba) và lễ Truyền Tin (25 tháng Ba), người ta “được miễn trừ” và có thể tận hưởng bất cứ thứ gì phải kiêng trong mùa Chay.

Hãy hy sinh từ khước điều gì đó vì Chúa.  Làm thật lòng chứ đừng như người Pharisêu (giả hình) để được người ta “chú ý.”  Hãy chú trọng hoạt động tâm linh, như tham dự đi Đàng Thánh Giá, Thánh lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng, xưng tội và rước lễ.  Hãy tập trung vào hoạt động mùa Chay: Sám hối, canh tân đời sống, thể hiện đức tin và chuẩn bị cử hành mầu nhiệm cứu độ.

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ CatholicEducation.org)

From: ngocnga_12&KimBang Nguyen

ĐAU TÌNH-Trầm Thiên Thu

[Niệm ý Mc 7:24-30 ≈ Mt 15:21-28]

Mẹ thương con gái vô cùng
Con đau nên cũng xót lòng mẫu thân
Khổ thân con bé vô ngần
Bị ma quỷ ám suốt đêm suốt ngày
Nghe tin có một Ông Thầy
Uy quyền trục xuất quỷ ngay tức thì
Ông Thầy tên gọi Giê-su
Bà tìm năn nỉ trừ tà cho con
Thế nhưng Chúa lại ví von
Coi bà như chó bên chân chủ nhà
Loanh quanh ngồi chực nằm chờ
Mong ăn miếng vụn bánh thừa mà thôi
Bà không giận, vẫn mỉm cười
Niềm tin như đóa hoa tươi nở kìa
Chúa nhìn bà, Chúa chịu thua
Bởi niềm tin ấy cao to quá chừng
Thương con mà mẹ đau lòng
Thương đời nên Chúa xót thương dân lành
Tuyệt vời với nỗi đau tình
Bệnh gì cũng khỏi, xấu thành đẹp ngay

TRẦM THIÊN THU

From: Phan Sinh Trần

CHÂN DUNG THÁNH THOMAS TÔNG ĐỒ

CHÂN DUNG THÁNH THOMAS TÔNG ĐỒ

Trầm Thiên Thu

Ngày 3 tháng Bảy hằng năm là ngày mừng kính Thánh Tôma, vị Tông đồ “nổi tiếng” là có lòng cứng như sáp nguội.  Thánh Tôma có biệt danh là “Tôma Đa Nghi,” và còn được gọi là Điđymô (nghĩa là “sinh đôi”), phiên âm theo Việt ngữ là Thọ-mai.

Có lần Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến!  Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.  Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.  Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.  Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14:1-4).  Thánh Tôma hồn nhiên hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14:5-6).  Và rồi Chúa Giêsu nói câu nổi tiếng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6).

Khi nghe các Tông đồ khác kể lại việc họ đã tận mắt gặp Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Tôma đã không tin.  Khi Chúa Giêsu hiện ra lần nữa, cũng có mặt Thánh Tôma ở đó, Chúa Giêsu bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.  Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.  Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20:27).  Chắc chắn Thánh Thomas không dám sờ vào, mà chỉ còn biết cúi đầu, sụp lạy và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con!  Lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28).  Câu này trở thành câu tuyên tín minh nhiên trong Tân ước.

Tội nghiệp Thánh Tôma!  Ngài bị “chết tên” với cái nickname “Tôma Đa Nghi.”  Nhưng nếu ngài không nghi ngờ thì ngài cũng tin.  Câu tuyên xưng đức tin của Thánh Tôma đã cho các Kitô hữu một lời cầu nguyện mãi mãi đến tận thế.  Thánh Tôma cũng gợi ra một lời khen của Chúa Giêsu dành cho các tín hữu: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).  Có thể coi đó là mối phúc thứ chín.

Truyền thống nói rằng Thánh Tôma đã ra khỏi biên giới Đế quốc Rôma để rao giảng Tin Mừng, đi xa tới tận Ấn Độ.  Ngài tới Muziris (Ấn Độ) năm 52, và rửa tội một số người mà ngày nay vẫn gọi là “Kitô hữu của Tôma” (Saint Thomas Christians, tiếng Ấn Độ là “Mar Thoma Nasrani” hoặc gọi tắt là “Nasrani”).  Sau đó, Thánh Tôma bị đâm chết bằng cây thương dài ở Ấn Độ, thi hài ngài được đưa tới Mesopotamia hồi thế kỷ III, và rồi lại được chuyển tới nhiều nơi khác.  Năm 1258, người ta đưa hài cốt ngài tới Abruzzo, thuộc Ortona (Ý), trong một nhà thờ, và người ta gọi là Nhà thờ Thánh Tôma Tông đồ.  Thánh Tôma được tôn vinh là Thánh bổn mạng của Ấn Độ, và tên ngài vẫn “nổi tiếng” trong số các “Kitô hữu của Tôma” ở Ấn Độ.

Truyền thống cho biết rằng Thánh Tôma bị đâm chết tại Mylapore, gần Chennai, lúc 72 tuổi.  Thánh Tiến sĩ Ephrem nói rằng Thánh Tôma bị giết ở Ấn Độ, thi hài ngài được thương nhân Khabin đem đi an táng tại Urhai (Edessa).

Thánh Tôma có tiếng là người “cứng lòng” nhưng lại rất can đảm, vì dám rủ các bạn cùng chết với Sư Phụ.  Có thể điều ngài nói là mạnh mẽ, quyết liệt, nhưng có thể ngài chỉ do bộc phát, do thẳng tính, nghĩ sao nói vậy, chứ chưa hẳn ngài đã dám liều mạng thật khi bày tỏ sự sẵn sàng chết với Chúa Giêsu – vì khi Thầy Giêsu bị bắt thì cũng chẳng thấy tăm hơi Thánh Thomas đâu.  Nhưng dù sao cũng thật đáng khen, vẫn xứng đáng làm gương cho chúng ta.

Cơ hội là khi Chúa Giêsu đề nghị đi tới Bêtania sau khi Ladarô đã chết, các Tông đồ không trở lại Giuđê, vì người Do-thái tìm cách ném đá Chúa Giêsu.  Bêtania gần Giêrusalem, nghĩa là phải đi bộ ngay giữa lòng quân thù và hầu như là chết chắc!  Nhận ra điều này, Thánh Tôma đã nói với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16).  Thánh Tôma can đảm lắm nên mới động viên các bạn như vậy!  Tuy bản tính đa nghi, nhưng một khi đã tỏ tường thì Thánh Tôma tin thật, không gì lay chuyển.  Cứng lòng tin có thể mang hai ý nghĩa: Cứng lòng không chịu tin – chai cứng, hoặc cứng cáp lòng tin – vững tin.

Thiết tưởng cũng nên biết điều này: Thánh Tôma là bổn mạng của những người đa nghi, những người mù, các kiến trúc sư, các thợ xây, và các nhà thầu xây dựng.

Lạy Thánh Tôma Tông Đồ, xin cầu thay nguyện giúp để chúng con cũng vững tin vào Đức Giêsu Kitô đến hơi thở cuối đời. Amen.

Trầm Thiên Thu

CHỮ TIN

[Tín khúc Ga 20:19-29 ≈ Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49]

Nói gì thì nói, mặc ai

Tô-ma nhất quyết một lời: Không tin!

Tưởng là đá cứng khó mềm

Ai dè đá ấy lại liền chảy tan!

Người tin – giải thích không cần

Không tin – giải thích chẳng còn ích chi [1]

Tin là phần phúc diệu kỳ

Đâu có dễ gì không thấy mà tin!

Tin là không có dị đoan

Vẫn cần lý trí cân phân rạch ròi

Cũng không nhẹ dạ tin người

Nói gì nghe nấy, tức thời gặp nguy!

Tin là điều rất diệu kỳ

Được nên công chính là nhờ đức tin [2]

Vững tin vào Chúa uy linh

Vì Ngài là Đấng nhân lành, xót thương.

Chúa ơi, xin hãy đỡ nâng

Vì con yếu kém về lòng kính tin

Biến con dẫu cứng cũng mềm

Tô-ma ơi, chớ bỏ quên phận này!

Trầm Thiên Thu

From: Langthangchieutim

NGÀY HIỀN PHỤ – TRẦM THIÊN THU

NGÀY HIỀN PHỤ

TRẦM THIÊN THU

Hằng năm, chúng ta có Ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day) để tôn vinh các người Mẹ, được kỷ niệm vào Chúa Nhật thứ nhì của tháng Năm, và chúng ta cũng có Ngày Hiền Phụ (Father’s Day) để tôn vinh các người Cha, được kỷ niệm vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

LỊCH SỬ

Nguồn gốc Ngày Hiền Phụ không là một hiện tượng xảy ra trễ nhất, các học giả cho rằng Ngày Hiền Phụ có từ thời Babylon bị tàn phá. Một thanh niên tên là Elmesu đã khắc Thông điệp Ngày Hiền Phụ trên một tấm thiệp bằng đất sét gần 4.000 năm trước. Elmesu ước mong cha mình có sức khỏe tốt và sống lâu. Dù không có chứng cớ về Elmesu và người cha nhưng truyền thống kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vẫn lưu truyền ở nhiều quốc gia trên thế giới.

NGÀY HIỀN PHỤ TẠI HOA KỲ

Cách nhìn ngày nay về việc kỷ niệm Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”.

Ý tưởng về Ngày Hiền Phụ xuất hiện trong đầu bà Sonora khi bà tình cờ nghe bài giảng thuyết về Ngày Hiền Mẫu năm 1909. Lúc đó bà 27 tuổi, bà nghĩ: “Nếu có ngày tôn vinh Mẹ thì tại sao không có ngày tôn vinh Cha?”. Bà cảm thấy thương những người cha vì tình thương bà nhận được từ người cha của bà là ông William Jackson Smart, một cựu chiến binh. Mẹ bà qua đời do sinh con khi Sonora mới 16 tuổi. Ông Smart phải chịu cảnh “gà trống” nuôi 5 đứa con bằng tất cả lòng yêu thương và chăm sóc của người cha kiêm chức năng làm mẹ.

Được cảm hứng từ việc bà Anna Jarvis đấu tranh để có Ngày Hiền Mẫu, bà Dodd bắt đầu khởi xướng tổ chức Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ. Hiệp hội Chính quyền Spokane (Spokane Ministerial Association) và Hiệp hội Thanh niên Kitô giáo (Young Men’s Christian Association – YMCA) tại địa phương ủng hộ ý nguyện của bà Sonora. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Dù ban đầu có sự lưỡng lự, nhưng vẫn được nhiều người ủng hộ, và Ngày Hiền Phụ được tổ chức tại các thành phố trong quốc gia Hoa Kỳ.

Thấy rất nhiều người tụ họp kỷ niệm Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ, tổng thống Woodrow Wilson phê chuẩn việc này vào năm 1916. Tổng thống Calvin Coolidge cũng ủng hộ Ngày Hiền Phụ mang tính quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1924: “Hãy thiết lập các mối quan hệ thân mật giữa cha con và nhấn mạnh vào trách njiệm của họ”. Sau 40 năm đấu tranh, tổng thống Lyndon Johnson ký lệnh dùng Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ từ năm 1966. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon ký quyết định vĩnh viễn kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm. Bà Sonora Smart Dodd được tôn vinh vì bà đã góp phần vào Hội chợ Thế giới (World’s Fair) ở Spokane năm 1974. Bà Dodd qua đời năm 1978, hưởng thọ 96 tuổi.

CÁC GIẢ THUYẾT VỀ LỊCH SỬ NGÀY HIỀN PHỤ

Có vài giả thuyết về Ngày Hiền Phụ. Một số người co rằng Ngày Hiền Phụ đầu tiên được tổ chức tại miền Tây Virginia năm 1908. Một số người khác cho rằng lễ này được tổ chức lần đầu tại Vancouver, Washington.

Chủ tịch câu lạc bộ Lions tại Chicago, ông Harry Meek, được coi là người tổ chức Ngày Hiền Phụ đầu tiên vào năm 1915 để nhấn mạnh vào việc tôn vinh những người cha. Ông chọn Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu để kỷ niệm, đó là ngày gần sinh nhật của ông Meek. Để đánh giá công việc của ông Meek, CLB Lions của Hoa Kỳ đã tặng ông chiếc đồng hồ bằng vàng, với lời đề tặng “Người khởi xướng Ngày Hiền Phụ” (Originator of Father’s Day) vào chính sinh nhật của ông, 20-6-1920. Một số sử gia tôn vinh bà Charles Clayton ở Tây Virginia là người khởi xướng Ngày Hiền Phụ.

Năm 1957, thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết thư gởi quốc hội: “Dù chúng ta tôn vinh người cha hay người mẹ thì cũng đừng bỏ người nào. Người cha hay người mẹ bị bỏ quên cũng đều cảm thấy buồn vậy”.

Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước – kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ – đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Mặc dù Ngày Hiền Phụ không cố định giống nhau tại các nước và cách kỷ niệm cũng khác nhau, nhưng ở đâu cũng chung một tâm tình là tôn vinh công lao của những người cha và bày tỏ lòng yêu thương đấng sinh thành. Vào ngày này, con cái gởi thiệp mừng, hoa và quà cho cha mình để bày tỏ lòng yêu thương và kính trọng.

Tại nhiều quốc gia có đa số là người Công giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse, ngày 19 tháng Ba.

Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

LỜI CẦU NGUYỆN CHO HIỀN PHỤ

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xin chúc lành cho những người cha trên thế giới, xin hướng dẫn những người cha biết yêu thương và làm gương lành cho con cái, xin biến đổi họ trở nên những người cha như chính Chúa là Cha, xin ban cho họ tràn đầy hồng ân và kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh với lòng yêu thương đích thực. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 (chuyển ngữ từ FathersDayCelebration.com)

SUY TƯ VỀ GIUĐA ÍTCARIỐT

 SUY TƯ VỀ GIUĐA ÍTCARIỐT
Joe Heschmeyer

(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ)

Theo truyền thống, Thứ Tư Tuần Thánh được gọi là “Spy Wednesday,” (Thứ Tư Do Thám) vì đó là ngày tông đồ Giuđa phản bội Thầy Giêsu.  Đó là lời nhắc nhở chúng ta đã ít nghĩ về Giuđa… có lẽ vì chúng ta không thích những gì chúng ta biết.  Đây là 8 điều đáng để chúng ta suy tư:
 

  1. Giuđa Thuộc Nhóm Mười Hai

Nói chung, đó là điểm rõ ràng và không thú vị.  Nhưng đó là điều thực sự đáng cân nhắc.  Điều đó cho thấy rằng Giuđa là một trong số mười hai môn đệ đầu tiên được Đức Kitô truyền chức thánh trong Giáo Hội – được chính Chúa Giêsu tuyển chọn, Ga 6:70-71.  Điều đó gợi nhiều ẩn ý.

Vào lúc nào đó, Giuđa đã bỏ mọi sự để theo Đức Kitô (Mc 10:28).  Các câu chuyện như vậy thật rắc rối.  Tôi nhớ rằng Charles Templeton là người đi loan báo Tin Mừng cùng với Billy Graham, nhưng rồi từ bỏ Kitô giáo và theo thuyết bất khả ngộ hoặc vô thần.  Có lẽ nhiều người cho rằng không thể có chuyện như vậy, thế nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật.  Thánh Phaolô biết lịch sử Israel, cho biết rằng nhiều người được Thiên Chúa cứu khỏi Ai Cập nhưng rồi lại từ bỏ Ngài và chết.  Thánh Phaolô nói: “Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1 Cr 10:12).  Giuđa nhắc chúng ta nhớ tới điều tương tự.  Nếu Giuđa có thể bỏ mọi sự và dành nhiều thời gian cho Đức Kitô, thậm chí là thân thiết với Ngài, mà vẫn sa ngã, bạn và tôi không nên tự phụ.  Nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta tiến bước.

  1. Giuđa Không Kỳ Cục

Không có lý do gì để tin rằng Giuđa là trường hợp duy nhất.  Nghĩa là dễ rơi vào cái bẫy suy nghĩ của Giuđa là trường hợp duy nhất trong lịch sử sa đọa đến nỗi ông có thể phản bội Chúa Giêsu như thế.  Dĩ nhiên điều đó không thật.  Ông không là Kitô hữu duy nhất, cũng chẳng là giáo sĩ duy nhất.  Chúng ta có gợi ý về điều này trong những lần thất bại của các môn đệ khác – chẳng hạn, Phêrô chối Thầy, hoặc các môn đệ khác bỏ của chạy lấy người khi Chúa Giêsu bị bắt.  Nhưng chúng ta có gợi ý về điều này trong Giáo Hội về các vụ bê bối ngày nay.
 

  1. Giuđa Che Giấu Cuộc Chiến Nội Tâm

Vấn đề của Giuđa không bắt đầu trong Tuần Thánh.  Đã có vẻ như Giuđa không là môn đệ trung thành, và rồi ông đã phản bội Chúa Giêsu không biết vì lý do gì.  Không phải vậy, có một đường dài dần dần ông chuyển từ ánh sáng sang bóng tối.  Trong Ga 6:70-71, Chúa Giêsu cho biết rằng Giuđa thoái hóa, khi đó Ngài nói về Thánh Thể.  Sau khi Ngài nói rằng thịt và máu Ngài là của ăn và của uống thật, nhiều môn đệ đã xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá!  Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60).  Phêrô nói thay cho cả Nhóm Mười Hai, xác tín vào Chúa Giêsu, nhưng lúc đó Ngài ám chỉ việc phản bội của Giuđa.  Có điều gì đó có vẻ buồn cho Giuđa.  Thánh sử Gioan cho chúng ta biết rằng Giuđa ăn cắp tiền (Ga 12:6).  Nếu bạn phạm tội trọng, đó là tội lăng nhăng ngoài hôn nhân hoặc tội gì đó, có cơ hội tốt để tội đó không là điểm khởi đầu.  Một loạt các hành vi xấu xa dẫn tới hậu quả rất tồi tệ.  Thánh Phanxicô Salê mô tả quá trình đó là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.” 

Một người vợ yêu dấu của người chồng, có người gởi tin nhắn cám dỗ người vợ này không chung thủy.  Thứ nhất, tin nhắn đó là đề nghị của người đàn ông kia.  Thứ hai, người vợ có thể chấp nhận hoặc từ chối.  Thứ ba, cô ta có thể bằng lòng hoặc khước từ.  Mặc dù vậy, khi Satan, thế gian, và xác thịt nhìn vào linh hồn gắn liền với Con Thiên Chúa, chúng đặt ra những chước cám dỗ và lời đề nghị với linh hồn đó, do đó – [1] Tội lỗi được đề nghị với linh hồn đó; [2] Lời đề nghị có thể làm vui hoặc không vui đối với linh hồn đó; [3] Linh hồn đó có thể bằng lòng hoặc từ chối.  Nói cách khác, có bộ ba là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.”  Mặc dù bộ ba này có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng và dễ nhận ra, mà chúng theo dấu trong các tội trọng. 

Thánh Giacôbê nói rằng có hệ lụy tất yếu: “Một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15).  Vấn đề ở đây không phải là Giuđa chiến đấu với cơn cám dỗ – tất cả chúng ta cũng vậy.  Mà vấn đề là Giuđa có vẻ chiến đấu một mình, cứ để chúng cắn rứt cho tới lúc dám phản bội Thầy.  Thánh Gioan nói: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19).  Ma quỷ phát triển trong bóng tối, thế nên nếu bạn chiến đấu về điều gì đó về tâm linh, hãy chia sẻ điều đó với một người mà bạn tin tưởng – một linh mục, một người uy tín, một người thân, một người bạn,… Và bạn sẽ ngạc nhiên thấy chước cám dỗ phải teo dần trong ánh sáng.
 

4.Giuđa Không Quan Tâm Thần Học

Là Kitô hữu, chúng ta thuộc về “Israel Mới.”  Nhưng điều đó có ý nghĩa gì?  Đáng nhớ tên gọi này có từ đâu.  Tổ phụ Giacóp được đổi tên thành Israel sau khi vật lộn suốt đêm với thiên thần.  Cuối cùng, thiên thần nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacóp nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng” (St 32:29).  Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa là Đấng trở thành sự cố gắng.  Và Giuđa có vẻ phiền vì sứ điệp của Chúa Giêsu, nhưng ông không quan tâm hoặc không muốn cố gắng.
 Một điều nổi bật về Giuđa là, qua các Phúc Âm, chúng ta không thấy ông nói về chính mình và tiền bạc.  Có lẽ những gì ông nói là tự thêu dệt hoặc kêu gọi về tài chính.  Trong Tuần Thánh, tại nhà ông Simon Cùi, cô Maria ở Bêtania xức dầu thơm hảo hạng lên chân Chúa Giêsu, Giuđa đã phản đối: “Phí dầu thơm như thế để làm gì?  Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo” (Mc 14:4-5).  Chúa Giêsu nói: “Cứ để cho cô làm.  Sao lại muốn gây chuyện?  Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa.  Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được!  Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!  Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng.  Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô” (Mc 14:6-9). 

Câu trả lời của Chúa Giêsu là thần học.  Khó có thể tưởng tượng rằng điều đó lại vô nghĩa đối với Giuđa, bởi vì ông không có ánh mắt cần thiết (ít là ngay lúc đó) để biết tại sao điều đó tốt đẹp đối với Thiên Chúa.  Lý luận của Giuđa là sự lạnh nhạt của thời hiện đại – những thứ tốt đẹp và mắc tiền như nước hoa phải bán đi để lấy tiền mua lương thực cho người nghèo, hoặc ít ra là để dằn túi của những người như Giuđa và những người có thói quan liêu. 

Nói cách khác, đó là lần duy nhất chúng ta nghe Giuđa yêu cầu điều gần gũi với vấn đề tôn giáo, điều thuần túy là “Phúc Âm công bình xã hội” không có chỗ cho sự siêu việt, vẻ đẹp, Thập Giá, hoặc Thiên Chúa.  Bức tranh về Giuđa nổi bật trong Tân Ước là con người không thể nắm bắt chiều kích “thẳng đứng” của Kitô giáo, nhưng là con người chỉ nghĩ theo chiều ngang.  Sự tập trung của ông có vẻ ít tập trung vào Thiên Chúa, mà tập trung vào con người – và cuối cùng là tập trung vào chính mình.

  1. Giuđa Không Tôn Kính Thánh Thể

Trước tiên, Giuđa có vẻ bắt đầu tách khỏi Đức Kitô sau khi nghe giáo huấn về Thánh Thể trong Ga 6, có vấn đề là không biết Giuđa có được thúc đẩy bởi các lý lẽ thần học hay không (không thích điều Chúa Giêsu nói), hoặc những điều cá nhân (không thích khi thấy Chúa Giêsu bị người ta bỏ rơi).  Nhưng điều này lên cao điểm trong việc phản bội vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh.  Đáng chú ý cách phản bội của Giuđa được mô tả là có liên quan Thánh Thể. 

Thánh Luca kể: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.  Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.”  Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.  Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy.  Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người” (Lc 22:19-22). 

Chúa Giêsu tố cáo sự trơ tráo của Giuđa khi tham dự Thánh Lễ đầu tiên mà lại mưu tính phản bội.  Các môn đệ cũng lầm lẫn về ý nghĩa của lời nói gở của Chúa Giêsu, và họ bắt đầu hỏi nhau xem Chúa Giêsu ám chỉ ai.  Thánh Gioan kể lại những gì tiếp tục xảy ra: 

Chúa Giêsu nói: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy.”  Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt.  Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y.  Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!”  Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Ngài nói với y như thế.  Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giêsu nói với y: “Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ,” hoặc bảo y bố thí cho người nghèo.  Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra.  Lúc đó, trời đã tối. (Ga 13:26-30) 

Giuđa nhận miếng bánh một cách bất xứng – rước lễ bất xứng, Gioan mô tả việc lãnh nhận bất xứng đó là lúc Satan nhập vào Giuđa.  Sau đó, Giuđa đứng dậy và bỏ đi – dĩ nhiên mang theo cả túi tiền.  Như vậy, Giuđa coi thường việc tham dự nghi lễ tôn giáo – dạ tiệc mừng Lễ Vượt Qua, Thánh Lễ đầu tiên, chỉ vội đi lo chuyện xấu xa.  Điều đó cũng giống như khi chúng ta rước lễ xong rồi ra ngoài ngay, không ở lại cho đến hết lễ – và không tâm sự với Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong lòng mình.
 

  1. Giuđa Hợp Tác Với Satan

Điều kinh khủng về Giuđa không chỉ là một Kitô hữu phản bội Đức Kitô, mà còn là một trong Nhóm Mười Hai lại liên minh với ma quỷ – nghĩa là Giuđa biết mình đang tuân lệnh của Satan, còn hơn là sự yếu đuối bình thường của nhân loại.  Điều ranh mãnh siêu nhiên là chỗ đó.  Nếu chúng ta rời ánh mắt khỏi những điều thuộc về Trời, chúng ta sẽ chỉ chú ý vào những gì thuộc thế gian.  Lúc đó, chúng ta nửa hướng mắt nhìn lên, nửa hướng mắt nhìn xuống những gì ở bên dưới chúng ta. 

Đừng bao giờ tự mãn, hãy luôn bám chặt vào Đức Kitô, đặc biệt là kết hiệp với Ngài qua bí tích Thánh Thể.  Một người cai rượu nói: “Nếu tôi uống lại, vấn đề sẽ tồi tệ hơn trước.”  Đó là vấn đề quan trọng đối với bạn và tôi.  Sự cám dỗ trở thành sự thích thú, sự thích thú trở thành tội lỗi.  Đào vi thượng sách, tránh voi chẳng xấu mặt.  Tội nhỏ trở thành tội lớn, nếu chúng ta không đưa nó ra ánh sáng.  Đó là bài học đắt giá chúng ta học được từ Giuđa. 

Joe Heschmeyer

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ ShamelessPopery.com)

Sống viên mãn

Sống viên mãn

TRẦM THIÊN THU

Thánh giáo phụ Irênê viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống viên mãn”. Câu này hay quá! Ngài muốn nói rằng nên thánh thật là ý nghĩa. Nên thánh là sống viên mãn, là trở nên con người như Thiên Chúa đã tạo dựng.

Sống viên mãn không tương đương với khái niệm hiện đại về “cách sống tròn đầy nhất”. Nhiều người nói về cách sống này, họ muốn nói rằng chúng ta nên hưởng thụ càng nhiều càng tốt, càng thoải mái càng tốt. Không hẳn là sai, nhưng không đúng với cách sống mà Thánh Irênê đề cập.

Sống viên mãn nghĩa là tận hưởng sự sống kết hiệp với Thiên Chúa, kết quả của sự sống viên mãn là sống các nhân đức đối thần (tin, cậy, mến) và các nhân đức đối nhân (bác ái, công bình, can đảm, chịu đựng, nhịn nhục, cẩn thận, khiêm nhu, tha thứ, nhân hậu, tử tế, hòa đồng,…). Sống nhân đức sẽ được phần thưởng tốt lành là sinh hoa trái của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta muốn biết cuộc sống của mình có ý nghĩa gì và với mục đích gì. Trái tim chúng ta khao khát tình yêu và sự viên mãn. Chúng ta có thể thỏa mãn bằng cách sống kết hiệp với Thiên Chúa, tức là sống thánh thiện.

Các thánh là gương mẫu về việc sống viên mãn. Thiết tưởng, Thánh GH Gioan Phaolô II hoặc Chân phước Nữ tu Teresa Calcutta là những người sống viên mãn. Họ lan tỏa hoa trái của Chúa Thánh Thần. Người ta được các thánh thu hút, nói đúng ra là được Thiên Chúa thu hút qua các thánh. Họ sống viên mãn vì họ sống tình bằng hữu sâu sắc với Chúa Giêsu, Đấng là vinh quang của Thiên Chúa nơi nhục thể.

Các thánh sống viên mãn vì họ không nô lệ đam mê hoặc các cảm xúc tiêu cực, nhưng các nhân đức tươi nở trong cuộc đời họ. Sống nhân đức sẽ dẫn chúng ta tới sự bình an đích thực và hạnh phúc ngay tại thế gian này.

Sống viên mãn là sống theo hoa trái của Chúa Thánh Thần. Khi ơn Chúa Thánh Thần phát triển trong chúng ta, chúng ta bắt đầu xác định cính mình bằng hoa trái: luôn vui mừng, vì thế mà bình an. Đó là trở nên hoa trái của Chúa Thánh Thần. Dù vui hay buồn, sự sống viên mãn vẫn ở trong chúng ta.

Hoa trái của Chúa Thánh Thần là kết quả của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Chắc chắn rằng chúng ta càng sống theo hoa trái của Chúa Thánh Thần, hoa trái đó càng phát triển trong chúng ta. Tuy nhiên, hoa trái của Chúa Thánh Thần vừa là tặng phẩm vừa là sự chọn lựa. Nếu chúng ta muốn có kinh nghiệm về sự sống viên mãn, cách sống thánh thiện, chúng ta phải quyết tâm sống theo hoa trái của Chúa Thánh Thần hàng ngày. Vậy ngay từ hôm nay, chúng ta phải quyết tâm thực hiện 9 điều này:

  • Yêu thương mọi người chúng ta gặp.
  • Sống vui trong lúc khó khăn.
  • An tâm khi gặp nghịch cảnh.
  • Kiên tâm khi gặp thử thách.
  • Tử tế với người không tử tế.
  • Dịu dàng khi có điều trái ý.
  • Luôn luôn sống đại lượng.
  • Trung thành với điều nguyện ước và ơn gọi.
  • Kiềm chế khi bị cám dỗ.

Chúng ta bất toàn, nhưng nếu chúng ta càng hợp tác với ơn Chúa, chúng ta càng thêm nhân đức: “Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:23), và “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:10).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ SpiritualDirection.com)

DÂNG HY SINH VÀ ĐAU KHỔ

DÂNG HY SINH VÀ ĐAU KHỔ

Trầm Thiên Thu 

Cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta trên trái đất có giá trị vô hạn.  Chúng ta có cả phẩm giá cao cả và số phận vĩnh cửu.  Phẩm giá của chúng ta là gì?  Chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy.  Định mệnh của chúng ta là gì?  Tất cả chúng ta đều là khách lữ hành trên đường về quê hương vĩnh hằng là Thiên Đàng.

Sự đau khổ có giá trị vô cùng đối với con người trước mắt Thiên Chúa.  Tuy nhiên, nếu tách khỏi phương diện siêu nhiên thì tự bản chất đau khổ không có giá trị đích thực.  Nếu bạn thích: đau khổ làm chúng ta tốt lành hơn hoặc cay đắng hơn.

  1. THIÊN THẦN NHÌN CON NGƯỜI

Trong Nhật Ký, Thánh Faustina nói rằng các thiên thần nhìn con người với “lòng ghen tỵ” thánh thiện vì hai lý do.  Thứ nhất, con người nhận được Quà Tặng tuyệt diệu là Thánh Thể – Mình, Máu, Linh Hồn và Thần Tính của Chúa Giêsu – khi rước lễ.  Các thiên thần trên Thiên Đàng không bao giờ có đặc ân phi thường đó, và cũng không thể đau khổ.  Các thiên thần hiểu rằng nếu được nhìn nhận và chấp nhận một cách đúng đắn, đau khổ có giá trị vô hạn, và có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất.  Thật vậy, Chúa Giêsu – Ngôi Lời Nhập Thể – đã chọn con đường đau khổ làm phương tiện để hoàn thành việc cứu độ thế gian.

  1. SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC MẸ FATIMA

Đức Mẹ Fatima bảo ba em Luxia, Phanxicô, và Giaxinta cầu nguyện và dâng hy sinh để cầu cho các tội nhân.  Đức Mẹ tỏ vẻ buồn cho biết rằng nhiều linh hồn bị hư mất vì không đủ những linh hồn quảng đại cầu nguyện và hy sinh để cứu rỗi các tội nhân đáng thương.  Một tên gọi khác của sự hy sinh là sẵn sàng chấp nhận một số hình thức đau khổ.  Sứ điệp này của Đức Mẹ Fatima có thể được áp dụng cho chính chúng ta trong tình trạng cụ thể của cuộc sống và những đau khổ của chính chúng ta.  Không ai trên thế gian này có thể tránh khỏi đau khổ.

III. DÂNG ĐAU KHỔ

Ba từ ngắn gọn này tóm tắt toàn bộ sứ điệp: dâng đau khổ.  Khi Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, đến thăm bạn với dạng đau khổ nào đó, điều vô cùng quan trọng là chấp nhận những đau khổ được ban cho từ Bàn Tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa và dâng lên cho Ngài.  Hãy nhớ rằng, đau khổ có thể làm cho chúng ta tốt lành hơn hoặc cay đắng hơn.  Đau khổ có thể cứu linh hồn hoặc lãng phí!

Làm thế nào để giảm đau khổ?  Khi đau khổ, chúng ta hãy cố gắng kết hợp đau khổ của chúng ta với Thập Giá – với Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Chúng ta gọi đó là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.  Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc sống, hành động, và đặc biệt là những đau khổ của chúng ta, có giá trị vô hạn.

  1. KẾT HIỆP VỚI THÁNH LỄ

Chúa Giêsu đã chết một lần trên Thập Giá tại Canvê hơn 2000 năm trước.  Ngài không chết nữa.  Tuy nhiên, mỗi khi linh mục cử hành Thánh Lễ, tái diễn những gì đã xảy ra trên Canvê xưa.  Trong mỗi Thánh Lễ, Chúa Giêsu thực sự hiến dâng chính Ngài như một Nạn Nhân không tì vết cho Chúa Cha để cứu rỗi thế giới.  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết thêm rằng trong mọi Thánh Lễ, cũng như trên Canvê, Đức Mẹ hiện diện một cách thần bí nhưng rất thực tế.

Vì vậy, chúng ta đừng lãng phí những cơ hội ngàn vàng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta khi chúng ta trải qua bất kỳ hình thức đau khổ nào, và bắt đầu kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Chúa Giêsu trên Thập Giá.  Tốt hơn hết, khi kết hiệp với Mẹ Maria, hãy đặt đau khổ của bạn vào tay Mẹ Maria và Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ.  Sau đó, xin Mẹ ký thác những đau khổ này trên bàn thờ, nơi cử hành Thánh Lễ, để được kết hiệp với đau khổ của Chúa Kitô.  Sống theo cách sống này sẽ biến những đau khổ, dù là nhỏ nhất, của bạn thành một kho tàng ân sủng dồi dào vô hạn.

  1. DÂNG ĐAU KHỔ CHO CHÚA GIÊSU

Khi được các em hỏi nên dâng gì cho Chúa, Đức Mẹ Fatima đã trả lời là “dâng tất cả.”  Hãy biến cuộc sống của bạn thành lễ hy sinh sống động để chuộc tội, đền đáp và ngợi khen.  Đây là vài gợi ý cụ thể về những gì chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa qua Trái Tim Đức Mẹ:

  1. Thời Tiết Khắc Nghiệt

Tất cả chúng ta đều thích những ngày nắng đẹp với những giai điệu chim hót líu lo và hương thơm ngát của hoa nở rộ.  Nhưng không phải là luôn như vậy.  Cái lạnh buốt, mưa to và gió mạnh là đặc điểm của dự báo thời tiết thực tế trong nhiều ngày.  Thay vì phàn nàn về thời tiết thì hãy chấp nhận, sau đó tạ ơn Chúa và kết hiệp với Chúa Giêsu trên Thập Giá.

  1. Tình Trạng Sức Khỏe

Hậu quả của Nguyên Tội là tất cả nhân loại đều bị suy yếu về sức khỏe, ốm đau, đôi khi bệnh tật, cũng như lây nhiễm vi trùng.  Điều này không thể tránh khỏi!  Tại sao không kết hiệp tình trạng sức khỏe thể lý đau khổ của bạn với Chúa Giêsu trên Thập Giá?  Giá trị của tặng phẩm này là vô hạn!

  1. Đại Dịch

Đại dịch toàn thế giới như vậy là duy nhất trong lịch sử thế giới.  Thay vì lãng phí sự đau khổ hoàn vũ này, hãy kết hiệp với Thập Giá của Chúa Giêsu trên Canvê qua Hy Tế của Thánh lễ dâng lên Chúa Cha Vĩnh Hằng.  Ước gì đau khổ là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa để cứu rỗi các linh hồn và chính mình!

  1. Đau Khổ Gia Đình

Nhiều cha mẹ nhiệt thành cầu nguyện đã đau đớn tột cùng khi nhìn thấy những đứa trẻ mà họ nuôi dạy là người Công giáo và lãnh nhận các bí tích, đã không may lạc lối và từ bỏ đức tin.  Bất chấp những lời mời gọi, khuyên bảo và những giọt nước mắt cay đắng của cha mẹ, những đứa trẻ vẫn sống không biết gì về Chúa, như thể Ngài không hiện hữu.  Trong trường hợp này, hơn bao giờ hết, cha mẹ không nên chán nản, tuyệt vọng, phải cố gắng hơn nhiều.

Ngược lại, cha mẹ nên đặt những đau khổ của họ và những đứa con lên bàn thờ của Thánh Lễ, nơi Chúa Giêsu dâng những vết thương của Ngài cho Chúa Cha Hằng Hữu, và Cha vui lòng.  Thánh Monica đã kiên trì cầu nguyện cho con trai Augustinô, và con trai đã hoán cải khi 31 tuổi.

  1. Khô Khan Tâm Linh

Bất cứ ai coi trọng đời sống tâm linh thì rồi sẽ gặp phải sự khô khan, cụ thể nhất là trong đời sống cầu nguyện.  Đây được gọi là trải nghiệm sa mạc khô hạn.  Thay vì từ bỏ đấu tranh, hãy cố gắng thinh lặng và cầu nguyện.  Điều này có thể dẫn đến sự đau khổ lớn lao, nhưng dâng đau khổ tâm linh rất hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa.

Hãy kết hiệp tình trạng khô khan tâm linh của bạn với Chúa Giêsu trong cơn hấp hối nơi Vườn Dầu, và đặt nó lên bàn thờ của Hy Lễ Thánh.  Chúa Giêsu đã trải nghiệm sự cô độc.  Tuy nhiên, Ngài càng cầu nguyện càng mạnh mẽ và nhiệt thành hơn.  Ngài là mẫu gương của chúng ta.

  1. Cái Chết Của Thân Nhân

Khi đối mặt với cái chết của người thân, niềm tin và hy vọng của chúng ta có thể bị lung lay.  Trong thời điểm quan trọng này, việc đặt những người thân yêu của chúng ta – những người đã qua đời, lên bàn thờ và trên Thập Giá qua Thánh Lễ, là điều vô cùng quan trọng, và cầu xin cho họ được cứu rỗi đời đời.  Trong sách Gương Chúa Giêsu, tác giả Thomas Kempis nói: “Điều quan trọng không phải là sống lâu, mà là sống thánh thiện.”

Chấp nhận và tuân theo Thánh Ý quan phòng của Thiên Chúa là giải pháp chắc chắn duy nhất, chúng ta không nên đặt câu hỏi tại sao Chúa lại lấy mạng họ, nhưng chúng ta có thể làm điều gì đó trong hiện tại cho linh hồn họ, cũng như cho chính chúng ta.

  1. Đảo Ngược Kế Hoạch

Không ai trong chúng ta vui mừng vì những con người và hoàn cảnh làm gián đoạn lịch trình, kế hoạch và các dự án của chúng ta.  Tuy nhiên, dù muốn hay không, các kế hoạch và dự án của chúng ta sẽ thường xuyên bị gián đoạn.  Thay vì mất bình tĩnh và điềm tĩnh, tại sao không đơn giản chấp nhận những mâu thuẫn và kết hiệp với Thập Giá của Chúa Giêsu?  Hãy đặt những gián đoạn lên Thập Giá trên Canvê qua Thánh Lễ.  Làm vậy để công việc mà bạn không thể hoàn thành có thể cứu các linh hồn.

  1. KẾT LUẬN

Tóm lại, đau khổ là một thực tại của con người mà không ai có thể tránh khỏi.  Cho dù chúng ta là tín nhân hay vô tín ngưỡng, theo đạo Công giáo hay vô thần, nhà thần bí chiêm niệm vĩ đại hay nhà duy vật cốt lõi, đau khổ vẫn là một phần trong thân phận con người.  Nhưng hãy nhớ câu châm ngôn ngắn gọn này: “Đau khổ làm cho bạn tốt hơn hoặc cay đắng.”  Nếu một người đau khổ chỉ vì đau khổ thì thật là cay đắng!  Chỉ khi nào đau khổ của chúng ta được kết hiệp với đau khổ của Chúa Giêsu trên Thập Giá qua Thánh Lễ thì chúng ta mới được thánh hóa và tăng trưởng trong sự thánh thiện.

Do đó, bắt đầu từ hôm nay, hãy nhớ đến những đau khổ trong cuộc sống của bạn.  Hãy đặt những viên ngọc quý này trong tay và trái tim của Mẹ Maria.  Chính Đức Mẹ sẽ đặt chúng lên bàn thờ Thập Giá tại Canvê.  Sự đau khổ của bạn kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giêsu và Đức Mẹ sẽ thực sự có giá trị vô hạn đối với sự cứu rỗi các linh hồn kịp thời và vĩnh viễn!

Lm. Ed Broom, Omv

Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Mùa Chay – 2021

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

BÀI HỌC TỪ TỘI CỦA PHÊRÔ VÀ GIUĐA

BÀI HỌC TỪ TỘI CỦA PHÊRÔ VÀ GIUĐA

 Trầm Thiên Thu

Trình thuật Lc 22:54-62 (≈ Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27) cho biết: Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế.  Còn ông Phê-rô thì theo xa xa.  Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ.  Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!”  Ông liền chối: “Tôi có biết ông ấy đâu, chị!”

Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!”  Nhưng ông Phêrô đáp lại: “Này anh, không phải đâu!”  Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê.”  Nhưng ông Phêrô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!”  Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy.  Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.”  Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Có lẽ ba lần ông Simôn Phêrô chối Thầy là lúc đáng tiếc nhất trong đời ông.  Biết rõ Thầy mình là Đức Giêsu Kitô, là sư phụ, là bạn hữu, và Chúa, thế mà ông vẫn chối phăng.  Thật khiêm nhường khi Phêrô chia sẻ chuyện buồn đó với Giáo Hội sơ khai, và thật tuyệt vời vì Chúa Thánh Thần linh hứng để câu chuyện đó được ghi chép lại trong các Phúc Âm.  Ông Simôn Phêrô cho chúng ta biết rằng người sa ngã có thể đứng dậy, người lang thang có thể trở về, các tội nhân đều có thể được tha thứ, dù cho người đó phạm tội nặng thế nào cũng có thể trở nên các vị đại thánh.

Chúa Giêsu phục hồi chức vụ cho Phêrô sau khi Ngài sống lại, lúc đó có đống lửa ở bờ biển Galilê.  Như phản ánh ba lần Phêrô chối Thầy, Chúa Giêsu cũng hỏi ông ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”  Simôn Phêrô thưa: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”   Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên con và chiên mẹ.  Bí tích Hòa Giải (xưng tội) là cách gặp gỡ Chúa Giêsu khi chúng ta tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Thiên Chúa và lãnh nhận ơn tha thứ qua thừa tác viên linh mục.

Mặc dù tội của Simôn Phêrô đã được tha nhưng vẫn không phải là không mất mát và các cơ hội bị lãng phí.  Trong khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, người ta thấy Ngài kiệt sức nên bắt ông Simôn người Kyrênê vác đỡ thập giá.  Nếu Simôn Phêrô không phạm tội chối Thầy đêm trước thì có lẽ ông có mặt lúc đó để giúp đỡ Thầy mình bằng cách vác thập giá mà đi với Thầy.  Thế thì tuyệt vời biết bao!  Nhưng cơ hội lại dành cho ông Simôn khác.

Tạ ơn Chúa, Thánh Phêrô đã sám hối.  Ông không thất vọng như Giuđa Iscariot.  Khi Giuđa thấy Chúa Giêsu bị kết án tử và bị dẫn đi hành hình, ông cũng rất hối hận về việc làm sai trái của mình.  Có người cho rằng lý do Giuđa bán Thầy vì muốn đối chất với các nhà lãnh đạo Israel về việc bắt Chúa Giêsu phải dùng quyền năng của Ngài và lên ngôi.  Giuđa đã trả lại 30 đồng bạc cho các thượng tế và kỳ mục rồi thú nhận: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27:4a).  Nhưng họ thản nhiên trả lời: “Can gì đến chúng tôi.  Mặc kệ anh!” (Mt 27:4b).  Chính tay Giuđa đã ném trả số bạc đó vô Đền Thờ rồi đi thắt cổ.

Nếu như chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Giuđa chạy ngay lên Can-vê thì sao?  Nếu ông sụp lạy dưới chân thập giá đang treo Đức Kitô và xin Ngài tha thứ thì sao?  Chúa Giêsu đã nói gì và làm gì?  Có lẽ ai cũng biết câu trả lời, hoặc là cũng đoán được kết quả.  Chắc hẳn là Chúa Giêsu đã tha thứ cho Giuđa.

Hãy đến với Chúa Giêsu qua Bí tích Hòa Giải, không bao giờ muộn.  Tội gì cũng có thể được tha thứ, chúng ta biết rằng mọi tội lỗi hoặc trì hoãn thú tội đều kéo theo hệ lụy mất mát, và cơ hội bị bỏ lỡ.

Lm Victor Feltes

Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ parishableitems.wordpress.com)

BÀI HỌC FATIMA CHO THÁNG MƯỜI

BÀI HỌC FATIMA CHO THÁNG MƯỜI

Chúng ta đang sống trong Tháng Mười, tháng biệt kính Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta có thể nhớ lại những lần Đức Mẹ hiện ra và nói về Chuỗi Mân Côi.

Năm 1917, ba trẻ mục đồng ở Fatima, Bồ Đào Nha, đã được gặp Đức Mẹ tại Cova da Iria, nơi chúng đang chăn đàn chiên gần những ngọn núi gần nhà.  Lucia, Francisco và Jacinta đã đi vào lịch sử về lòng sùng kính các em dành cho Đức Mẹ vì sứ điệp mà các em có thể trao cho thế giới để cảm ơn Mẹ Thiên Chúa đã ưu tiên thăm viếng các em.  Đây là 10 bài học Đức Mẹ Fatima dạy về việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi.

  1. Cầu nguyện có chủ tâm

Khi Đức Mẹ gặp các em, chúng có thể nhận biết sức mạnh của lời cầu nguyện của chúng.  Khi người ta biết chuyện lạ, họ xin các em chuyển ý nguyện với Bà Đẹp mà các em gặp mỗi tháng vào ngày 13 tại Cova da Iria – từ tháng Năm tới tháng Mười.  Người ta trĩu nặng vì các vấn nạn của thế giới này, và luôn có nhiều ý nguyện để cầu xin.  Ba trẻ trở thành những chiến binh cầu nguyện thực sự, quyết tâm cầu nguyện cho người khác, kể cả các nhu cầu lớn lao của thế giới này.  Các em đặc biệt cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các linh hồn và xin hòa bình cho thế giới.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để suy niệm cuộc đời Đức Kitô

Mỗi ngày, một Kitô hữu có thể đọc Kinh Mân Côi và suy niệm về cuộc đời Đức Giêsu Kitô.  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Lời Nguyện Fatima là nền tảng các mầu nhiệm về Sự Sống và Sự Chết của Đức Giêsu Kitô.  Bắt đầu mỗi chục kinh, một mầu nhiệm được chú ý để suy niệm, và chúng ta cùng sống mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô.

  1. Bình thường nên đọc Năm Chục Kinh

Đức Mẹ yêu cầu các em đọc trọn terço – tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là cả năm chục kinh Mân Côi.  Cảm ơn Thánh Gioan Phaolô II, vì chúng ta ngày nay có thêm Năm Sự Sáng, và cảm ơn Chân phước Bartolo Longo, tổng cộng có 20 mầu nhiệm Mân Côi.  Có thể người ta không đủ kiên nhẫn đọc 15 chục kinh hoặc 20 chục kinh, nhưng 5 chục kinh là mức trung bình mà đa số chúng ta có thể thực hiện.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để chống chiến tranh

Ba trẻ được gặp Đức Mẹ trong thời gian chịu nỗi thống khổ của Thế Chiến I.  Mặc dù các em không tiếp xúc với chiến tranh, nhưng các em được động viên cầu xin cho chấm dứt chiến tranh.  Các em nhận Chuỗi Mân Côi như một loại vũ khí khác để chấm dứt chiến tranh.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để xin hòa bình

Ngoài việc cầu xin cho chiến tranh chấm dứt, Kinh Mân Côi còn là phương cách để đạt được sự bình an riêng mỗi cá nhân.  Ba trẻ trở nên những tông đồ đích thực của Kinh Mân Côi và có thể đạt được bình an nội tâm, mặc dù các em phải chịu nhiều đau khổ vì ý kiến của người khác – xã hội và gia đình.

  1. Kinh Mân Vôi là cách tốt để cứu các linh hồn

Lời nguyện Fatima sau Kinh Sáng Danh là lời nguyện cầu cho các linh hồn, lời nguyện này do chính Đức Mẹ dạy các em.  Lời cầu xin này thấm vào việc đọc Kinh Mân Côi thường xuyên, người ta trở nên quen cầu xin theo ý nguyện tốt lành: cầu xin Ơn Cứu Độ cho các linh hồn.

  1. Kinh Mân Côi là cách đối thoại riêng

Kinh Mân Côi có ảnh hưởng sâu sắc tới ba trẻ.  Các em lãnh nhận nhiều ơn lành nhờ được gặp Đức Mẹ, nhưng các em cũng cũng được giới thiệu cách sống đời sống cầu nguyện thực sự để giúp các em bước đi trên con đường đối thoại riêng.  Việc cầu nguyện thường xuyên làm thay đổi thái độ và ước muốn trong cuộc sống.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để học cầu nguyện

Kinh Mân Côi ngắn gọn và dễ cầu nguyện.  Đó là cách tốt để học cầu nguyện.  Đó cũng là lời cầu nguyện vừa bằng lời nói vừa bằng tâm trí.  Sự lặp đi lặp lại các từ ngữ là lời cầu bằng lời nói và là cách cầu nguyện dễ dàng nhất.  Sự kết hợp với việc suy niệm các mầu nhiệm là lời nguyện tâm trí.  Như vậy, người đọc Kinh Mân Côi đi vào lời cầu nguyện, bắt đầu bằng những gì quen thuộc và chuyển tới những gì khó khăn hơn.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để cầu nguyện liên lỉ

Kinh Mân Côi có thể trở nên thói quen tốt trong cuộc sống hằng ngày, giúp các Kitô hữu đáp lại lời động viên của Thánh Phaolô về việc cầu nguyện không ngừng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.  Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.  Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).  Đức Mẹ không yêu cầu ba trẻ đọc Kinh Mân Côi hằng ngày, nhưng cầu nguyện luôn luôn.

  1. Sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi là tặng phẩm

Một số người cho rằng sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi gây nhàm chán.  Tuy nhiên, sự lặp lại này làm cho người ta suy niệm ý nghĩa của các câu chữ và có thời gian để cầu nguyện.  Trong một thế giới tìm cách xâm chiếm cả các ý tưởng riêng, sự lặp lại trong Kinh Mân Côi giúp tạo nên khiên thuẫn để bảo vệ đời sống nội tâm của chúng ta.  Điều quan trọng nhất khi đọc Kinh Mân Côi là chúng ta đối xử với Đức Maria là Mẹ Hiền của chính chúng ta.

Lạy Đức Mẹ Fatima, xin cầu cho chúng con.  Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin nguyện giúp cầu thay.

Lm. Nicholas Sheehy, L.C (Legionaries of Christ – Dòng Đạo Binh Chúa Kitô)

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Chữ ngờ

Chữ ngờ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

 

Sống ở đời, người ta có thể học biết nhiều điều, nhưng không ai học được chữ NGỜ. Đối với những người lo vỗ béo thân xác mà bỏ mặc linh hồn gầy ốm, mê làm giàu đời này mà quên đời sau, Chúa Giêsu nói: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20).

Chữ NGỜ luôn bất ngờ. Trong Việt ngữ, chữ NG có âm “ngờ” – vừa kỳ lạ, vừa kỳ cục. Ngốc Nghếch hóa Ngớ Ngẩn, Ngớ Ngẩn hóa Ngẩn Ngơ, Ngẩn Ngơ nên Ngờ Nghệch, Ngờ Nghệch vì Ngu Ngốc. Thật là đáng Ngại Ngần và Ngại Ngùng lắm!

Chuyện kể rằng… Một ông chủ ngân hàng rất giàu có. Ông bị chứng viêm màng não. Một bác sĩ danh tiếng nhất được mời đến khám bệnh, và bác sĩ lạnh lùng nói:

– Ngài không sống được ba giờ nữa!

Bệnh nhân yêu cầu:

– Xin bác sĩ làm thế nào cho tôi sống được tới ngày mai để tôi thanh toán các công việc. Tôi sẽ thưỏng cho bác sĩ bội hậu.

Bác sĩ vừa lắc đầu vừa nói:

– Thưa ngài, bác sĩ chúng tôi có thể kê toa để ngài đi mua thuốc, nhưng bác sĩ chúng tôi không thể bán thời giờ, vì THỜI GIỜ Ở TRONG TAY CHÚA.

Tất cả là của Thiên Chúa, chúng ta chỉ có đôi tay không – vào đời và ra đi vẫn chỉ có vậy thôi. Thế nên Chúa Giêsu khuyên chúng ta tín thác vào Ngài, bởi vì Thiên Chúa quan phòng mọi sự: “ĐỪNG lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng ĐỪNG lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay? Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Phần anh em, ĐỪNG tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và ĐỪNG BẬN TÂM. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12:22-31).

TRẦM THIÊN THU

GỢI Ý CỦNG CỐ GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO

GỢI Ý CỦNG CỐ GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO

Để ý quan sát, chúng ta có thể thấy rằng gia đình đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Là những người theo Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội nhỏ bé là gia đình mình, chúng ta phải cố gắng cứu lấy con cái, cứu lấy giới trẻ, bằng cách cứu lấy chính gia đình của mình. Tính bi quan, tính diễu cợt, và tính hoài nghi không thể ngự trị trong tâm hồn chúng ta, mà phải là sự tự tin và hy vọng để chúng ta có thể xây dựng thế giới tốt đẹp hơn bằng cách cố gắng làm cho gia đình thánh thiện hơn.

Chúng ta có Mười Vitamin để tăng sức sống cho gia đình. Bằng cách này, chúng ta có thể giúp nhau thanh lọc, cải thiện, và làm cho gia đình hoàn hảo hơn. Thánh GH Gioan Phaolô II diễn tả sự thật này rất rõ ràng: “Gia đình là tòa nhà nền tảng của xã hội… Gia đình tiến bộ thì xã hội cũng tiến bộ”. Hy vọng rằng các gợi ý dưới đây thực sự tạo sự khác biệt trong cuộc chiến làm cho gia đình tốt đẹp. Đừng bao giờ quên những lời an ủi của Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

  1. CẦU NGUYỆN CHUNG

Một trong các lý do đầu tiên để xung khắc, cãi nhau, cay đắng, lạnh nhạt và chia tay là thiếu cầu nguyện trong gia đình. Ôxy cần cho phổi, cầu nguyện cần cho linh hồn. Cầu nguyện là trung tâm và là trái tim của gia đình. Hãy nhớ lời của một linh mục mệnh danh là linh mục của Kinh Mân Côi – Lm Patrick Peyton: “Gia đình nào cầu nguyện với nhau thì hài hòa với nhau”.

  1. NGƯỜI CHA VÀ NGƯỜI MẸ

Người cha phải là đầu của gia đình, người mẹ phải là trái tim của gia đình. Gia đình không có đầu thì giống như quái vật Frankenstein; gia đình không có trái tim là gia đình chết. Mong sao người cha là người lãnh đạo tinh thần của gia đình!

Người cha cũng phải là người bảo vệ sự sống, luôn yêu thương vợ con. Là người lãnh đạo tinh thần của gia đình, nghĩa là người cha dẫn đầu trong cuộc sống cầu nguyện của gia đình. Người cha nên noi gương sáng của Đức Thánh Giuse.

  1. THA THỨ VÀ THƯƠNG XÓT

Trong nhiều gia đình, sự lạnh nhạt, sự hờ hững, và thậm chí là sự cay đắng thâm nhập vào cơ cấu gia đình. Tại sao? Một trong các lý do là thiếu sự tha thứ. Các thành viên gia đình phải có lòng thương xót và tha thứ, không chỉ 7 lần mà 70 lần 7 – nghĩa là tha thứ luôn luôn! Nếu chúng ta muốn được tha thứ thì chúng ta phải thật lòng tha thứ cho người khác. Lời Kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

  1. LỜI HAY Ý ĐẸP

Thi sĩ Alexander Pope, người Anh, viết: “To err is human, to forgive is divine” (Sai lầm là phàm nhân, tha thứ là siêu phàm). Các thành viên gia đình phải học cách nói những lời hay ý đẹp: Xin lỗi, cảm ơn,… Lời này rất quan trọng: “Thôi, bỏ qua!”. Những lời tốt lành như vậy được thường xuyên sử dụng sẽ có thể cứu được gia đình!

  1. THÁI ĐỘ PHỤC VỤ

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, đã rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Mỗi thành viên gia đình không chỉ mong được phục vụ, mà còn phải luôn luôn sẵn sàng phục vụ mọi người trong gia đình. Yêu thương và phục vụ luôn đồng nghĩa với nhau.

  1. BÀY TỎ BIẾT ƠN

Mặc dù có thể là điều nhỏ và không quan trọng, nhưng lời cảm ơn là loại gia vị nên thêm vào “thực đơn sống” của gia đình. Thánh Inhaxio Loyola nói: “Bản chất của tội lỗi là sự vô ơn”. Hãy nuôi dưỡng lòng biết ơn trong gia đình! Có điều gì chúng ta có mà không nhận từ Thiên Chúa? Chỉ có một điều: Tội lỗi của chúng ta – chúng ta tự chọn cho chính mình. Thiên Chúa yêu thương những tâm hồn khiêm hạ và biết ơn!

  1. HOẠT ĐỘNG DỨT KHOÁT

Thời gian quan trọng trong đời sống gia đình là giờ ăn. Đó là lúc gia đình nối kết, chia sẻ kinh nghiệm, dành thời gian cho nhau, và là lúc phát triển tình yêu thương dành cho nhau. Mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13:34).

Có truyện khôi hài về gia đình: Cùng ngồi bên nhau nhưng người cha xem ti-vi, người mẹ dùng điện thoại thông minh, các con thì đứa này chơi game, đứa kia lướt weg, đứa nọ chat qua zalo, viber, twitter, hoặc gắn tai nghe… Một cảnh tượng bình thường ngày nay mà lại rất ư là bất thường. Họ ngồi gần nhau nhưng lại rất xa nhau. Vấn đề cần làm ngay để cứu lấy gia đình là phải dẹp bỏ hết mọi thứ để cùng nhau ăn cơm và chia sẻ với nhau trong khoảng 30 phút. Đặc biệt là hãy cùng nhau cầu nguyện, ít là một chục Kinh Mân Côi, trước khi đi ngủ. Tùy thuộc vào mỗi chúng ta mà hòa bình có hay không đối với thế giới và chính đất nước mình. Đức Mẹ vẫn luôn chờ đợi chúng ta!

  1. HỌC CÁCH LẮNG NGHE

Lắng nghe là nghệ thuật khó, nhất là đối với các thành viên gia đình. Chúng ta có xu hướng tránh né nhau, và không muốn lắng nghe nhau, thế nhưng lại dễ nghe người ngoài – mà rồi họ chỉ xúi dại chứ đâu có thật lòng. Hãy cảnh giác, và hãy nghe Kinh Thánh dạy: “Trước mặt người lạ, chớ làm điều phải giữ kín, vì con chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Đừng tâm sự với bất cứ người nào, đừng tưởng làm như vậy là người ta thích” (Hc 8:18-19).

  1. KỶ NIỆM

Các dịp lễ, tết, sinh nhật, giỗ chạp,… hoặc ngày rửa tội, thêm sức,… Đó là những cơ hội tốt để thể hiện tình cảm gia đình. Chúng ta nên có thói quen tốt đẹp đó. Thánh Phaolô đã động viên:“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4)

  1. TẬN HIẾN CHO ĐỨC MẸ

Khi hiện ra tại Fátima, một trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ nhắn nhủ là “tôn sùng Mẫu Tâm”. Có nhiều cách yêu mến Đức Mẹ, một cách phổ biến và đơn giản là đọc Kinh Mân Côi – và cũng là một mệnh lệnh khác trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ đưa ra tại Fátima. Với 20 mầu nhiệm Mân Côi, chúng ta “đi tắt” suốt Tân Ước và “trải qua” các chặng đời của Đức Kitô. Như Đức Mẹ đã hứa, lòng sùng kính Đức Mẹ sinh nhiều hoa trái trong gia đình: bình an, vui mừng, yêu thương, hạnh phúc, chia sẻ, hiểu nhau, kiên nhẫn, thanh khiết, khiêm nhường, tử tế,… Tóm lại, tận hiến cho Đức Mẹ là nhờ Mẹ mà tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, gia đình sẽ trở nên nơi thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

  1. ED BROOM, OMV

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Chiều 13-6-2019

LỜI NÓI DỐI GIÁ TRỊ

LỜI NÓI DỐI GIÁ TRỊ

Chắc chắn ai cũng biết rằng nói dối là điều không thể chấp – dù trong chuyện nhỏ, và lời chân thật luôn được đề cao. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã minh định: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:37). Cái “gian” nhỏ sẽ dẫn tới cái “dối” lớn, và người ta ngụy biện đủ kiểu, hóa thành vô cảm mà “miễn nhiễm” với cái xấu. Rất nguy hiểm, lỗ nhỏ làm đắm thuyền!

Tuy nhiên, khi vì lợi ích của người khác, nhất là vì lợi ích cho trẻ em, không làm “hoen ố” tâm trí trắng trong của trẻ em, lúc đó lời nói dối lại cần thiết và thực sự có giá trị cao.

Có câu truyện kể rằng, tại một thị trấn nhỏ của Anh quốc đã xảy ra một vụ cướp ngân hàng. Tên cướp đã không thể cướp được tiền mà lại bị bảo vệ bao vây trong ngân hàng.

Hắn bắt có một cậu bé 5 tuổi rồi yêu cầu phía cảnh sát phải chuẩn bị cho hắn 500.000 USD và một chiếc xe ô-tô, nếu không sẽ nổ súng giết chết con tin.

Phía cảnh sát đã cử chuyên gia đàm phán Nelson tới hiện trường. Sau thời gian lâu đàm phán mà không đạt kết quả, ông đành phải tận lực kéo dài thời gian để phía cảnh sát vào vị trí.

Khi thấy tên cướp muốn giết con tin, phía cảnh sát đã nổ súng bắn tỉa, tên cướp kêu lên một tiếng rồi lăn xuống đất. Cậu bé nhìn những vết máu bắn tung tóe trên người tên cướp và trên mặt đất mà sợ hãi khóc thất thanh. Ông Nelson tranh thủ cơ hội chạy tới ôm cậu bé vào lòng.

Giờ phút ấy, bên ngoài, các hãng truyền thông ùn ùn kéo đến. Chợt mọi người nghe tiếng ông Nelson hô to:

– Diễn tập đến đây là kết thúc!

Cậu bé nghe xong câu nói ấy liền ngừng khóc, và cậu hỏi mẹ xem có đúng không. Mẹ cậu ngậm nước mắt và gật đầu. Một viên cảnh sát khác cũng đi đến bên cạnh cậu an ủi và nói:

– Cháu diễn tốt lắm, xứng đáng đạt huy chương khen thưởng.

Ngày hôm sau, truyền thông cả thị trấn đều im lặng, không ai nói một lời về vụ cướp bởi vì họ tự hiểu ngầm với nhau rằng, đó là cách tốt nhất để bảo vệ tâm hồn cậu bé.

Nhiều năm sau, có một người đàn ông trung niên tới gặp và hỏi Nelson:

– Khi ấy, tại sao ông lại hô lên câu nói đó?

Ông Nelson cười và trả lời:

– Khi tiếng súng vang lên, tôi nghĩ rất có thể cậu bé sẽ bị ám ảnh cả đời vì chuyện này. Nhưng khi tôi tới gần cậu bé hơn thì hình như Thượng Đế đã gợi ý cho tôi và tôi nói ra câu “Diễn tập kết thúc!”.

Lúc này, người đàn ông trung niên với vẻ mặt xúc động bỗng ôm chầm lấy ông Nelson và nói:

– Con đã bị nói dối suốt 30 năm qua, mãi cho tới gần đây, mẹ của con mới nói rõ sự thật cho con biết. Con cảm ơn cha Nelson. Cha đã cho con có được một cuộc đời lành mạnh!

Nelson mở to mắt nhìn người đàn ông trung niên rồi cười nói:

– Con đừng cảm ơn ta! Nếu con muốn cảm ơn thì hãy cảm ơn tất cả những người đã biết chuyện đó mà vẫn sẵn lòng “lừa gạt” con!

SUY TƯ: Cuộc sống luôn nhiêu khê, thế nên rất cần khôn ngoan để phân định chính xác. Giáo dục là vấn đề quan trọng, có thể biến đổi một con người. Nhìn vào nền giáo dục của một quốc gia, người ta có thể biết được tương lai của dân tộc đó.

Lời nói cần cẩn trọng, “đừng tâm sự với bất cứ người nào, đừng tưởng làm như vậy là người ta thích” (Hc 8:19). Về cuộc sống, đôi khi phải biết buông bỏ tư lợi để hành động vì công ích. Buông bỏ mọi thứ – hữu hình và vô hình, nhất là “cái tôi” – để có thể nhẹ bước.

Về đời thường, một người mang nhiều hành lý trên mình không thể đi nhanh bằng một người có ít hành lý hoặc không có hành lý gì. Về tâm linh, chắc chắn không thể mang bất cứ thứ hành lý gì khi qua “cửa khẩu” Sinh – Tử, nhân viên kiểm soát Tử Thần sẽ bắt bỏ mọi thứ mới được qua.

Giáo dục là một cách yêu thương, không thể giáo dục hận thù, ghen ghét, căm thù,… Giáo dục những điều sai lầm là giết chết cả một thế hệ. Thánh Gioan nói: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3:15).

TRẦM THIÊN THU

BÀI HỌC VỀ LỄ NGŨ TUẦN

BÀI HỌC VỀ LỄ NGŨ TUẦN

Khi suy nghĩ về lịch sử và phụng vụ của Lễ Ngũ Tuần, chúng ta có 7 bài học sau đây.

  1. Chúng ta không thể “có đủ” Thiên Chúa

Cân nhắc: các tông đồ trải qua 3 năm sống với Chúa Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể.  Họ nghe Ngài giáo huấn, thấy Ngài làm phép lạ, thấy Ngài bị đóng đinh.  Rồi họ nhận biết Đức Kitô phục sinh và tin Ngài thật là Con Thiên Chúa.  Nhưng sau khi trải nghiệm biến đổi với Thiên Chúa, có điều khác chờ đợi họ: Chúa Thánh Thần hiện xuống.  Chúng ta không bao giờ “có đủ” Thiên Chúa.  Chúng ta có thể đầy ắp nhưng vẫn muốn lại được có Ngài tràn đầy.

  1. Ngôi này dẫn tới Ngôi khác trong Ba Ngôi

Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu “không đủ” đối với các tông đồ.  Hơn nữa, mỗi Ngôi trong Ba Ngôi cho chúng ta biết các Ngôi khác.  Chúng ta càng gần một Ngôi thì càng muốn các Ngôi khác.  Điển hình về điều này là diễn từ về cây nho thật và cành nho trong Ga 15:1-17.

  1. Thiên Chúa đến với chúng ta qua nhiều cách

Thời Tân Ước, trước tiên Chúa Giêsu đến với chúng ta qua việc hóa thành nhục thể – Thiên Chúa nhập thể.  Rồi Ngài hứa ở với chúng ta qua Bí tích Thánh Thể với hình bánh và rượu.  Chúa Thánh Thần nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau.  Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, đó là gió thổi đến từ trời và hình lưỡi lửa.

  1. Cảm nghiệm Thiên Chúa – riêng tư và cộng đồng

Lễ Ngũ Tuần vừa mang tính riêng tư vừa mang tính cộng đồng.  Lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ: mỗi lưỡi lửa đầy Chúa Thánh Thần.  Nhưng đó cũng là cảm nghiệm cộng đồng với ý nghĩa rộng lớn hết sức có thể.

Như Thánh Luca nói trong Cv 2:1-13, tại Giêrusalem “có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về.  Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.”  Họ đã từng vô tổ chức trong cộng đồng Do Thái mà nay trở thành cộng đồng toàn cầu và Giáo Hội được khai sinh.

  1. Chuẩn bị cho Thiên Chúa

Trong những ngày gần tới Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ tích cực chuẩn bị, mặc dù họ không biết phải chuẩn bị thứ gì.  Theo Cv 1, các tông đồ làm ba việc chính: [1] thành lập cộng đoàn, [2] chuyên cần cầu nguyện, và [3] chọn một tông đồ mới cho đủ số mười hai – vì Giuđa đã chết.  Mặc dù chúng ta chuẩn bị lãnh nhận Thiên Chúa bằng những cách khác nhau, chúng ta có thể noi gương họ về mức độ cơ bản trong việc yêu thương người lân cận, yêu mến Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, và vẫn vững vàng trong Nhiệm Thể Đức Kitô – Giáo Hội.

  1. Mong chờ Thiên Chúa

Lúc này, sự chuẩn bị có vẻ dẫn tới sự trái ngược: mong chờ.  Ngay cả sau khi Thiên Chúa can thiệp mạnh mẽ vào cuộc sống của chúng ta, các tông đồ vẫn phải phục vụ Thiên Chúa.  Về phương diện này của Nước Trời, chúng ta cũng không ngừng làm điều đó.

  1. Thiên Chúa không đến thế gian mà không có Đức Mẹ

Chúa Giêsu không đến thế gian này mà không có Đức Mẹ, và Chúa Thánh Thần cũng vậy.  Tác giả sách Công Vụ rất cẩn thận cho biết rằng Đức Mẹ ở với họ và cùng cầu nguyện chuẩn bị Lễ Ngũ Tuần: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1:14).  Dĩ nhiên cũng các phụ nữ khác cũng ở đó, nhưng Đức Mẹ là người duy nhất được nhắc tới cùng với 11 tông đồ.  Sự hiện diện của Đức Mẹ vô cùng quan trọng khi chúng ta nhớ lại rằng Đức Mẹ sống từng thời điểm trong sứ vụ của Chúa Giêsu – từ tiệc cưới Cana tới đồi Canvê.  Trên thế gian, nơi nào có Đức Mẹ thì nơi đó có Thiên Chúa làm công việc của Ngài.

Stephen Beale

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim

HÀNH ĐỘNG MÙA CHAY 

HÀNH ĐỘNG MÙA CHAY 

Kinh Thánh nhắn nhủ: “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để ĐÓN CHỊU THỬ THÁCH.  Hãy giữ lòng cho ngay thẳng và cứ kiên trì, đừng bấn loạn khi con gặp khốn khổ” (Hc 2:1-2).  Thử thách đó không chỉ là những nỗi khổ niềm đau, mà còn là những cơn cám dỗ như sóng xô không ngừng.

Phàm nhân là cát bụi, tro bụi, vì được Thiên Chúa tạo nên từ đất, thế nên rất yếu đuối, dễ dàng sa ngã, nhưng khốn nạn là vẫn kiêu căng, và tất nhiên cũng luôn cần nhận diện mình mà ăn năn sám hối.  Thánh Louis Marie de Montfort nói: “Thiên Chúa thường xuyên và thực sự rất thường xuyên để cho các tôi trung cao cả của Người vấp phải những sai lỗi nhục nhã nhất.  Điều ấy hạ thấp họ trước mắt họ và trước mắt những người đồng sự của họ.  Điều ấy giữ cho họ khỏi nhìn thấy và không kiêu hãnh về những ân sủng Thiên Chúa đã ban cho họ.”

Sám hối liên quan cầu nguyện và ăn chay.  Ăn chay không chỉ là nhịn đói và từ khước thói quen vui thú nào đó, mà còn liên quan thực tế đời sống.  Kinh Thánh đặt ra vấn đề thực tế: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (Is 58:9b-10).  Còn thời gian để ăn chay và đền tội là còn diễm phúc lắm.

Mùa Chay – dịp tốt ăn năn

Bụi tro nhắc nhớ chớ quên phận mình!

Ăn chay, sám hối, hy sinh

Yêu thương, bác ái, công bình, thứ tha

Mùa Chay là thời điểm hành động cụ thể – làm thật chứ không chỉ mong ước hoặc nói suông.  Mùa Chay nhắc nhớ về thân phận bụi tro, yếu đuối và tội lỗi, chắc chắn như vậy, nhưng quan trọng là nhớ đến cái chết: Memento Mori – Hãy nhớ mình sẽ chết.  Màu Tím phủ đầy: Tím cõi lòng, tím ăn năn, tím sám hối, tím khiêm nhường, tím yêu thương, tím chia sẻ, tím cầu nguyện, tím nghĩ suy, tím tin kính, tím thú tội…  Màu tím tươi đẹp sắc thánh đức chứ không buồn sầu thảm não.

Ai cũng sa ngã, nhưng quan trọng hơn là can đảm đứng dậy.  Thánh François de Sales động viên: “Sau khi đã sa ngã, hãy hướng tâm hồn lên một cách dịu dàng và êm đềm.  Hãy sấp mình trước thánh nhan Thiên Chúa trong sự ý thức về nỗi khốn cùng của mình.  Đừng ngạc nhiên trước sự yếu đuối của mình, bởi vì chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, sự yếu đuối thì phải yếu đuối thôi.”  Đừng bao giờ ỷ lại hoặc tuyệt vọng, bởi vì như thế là động thái cố chấp và kiêu ngạo!

Cần Thiết Trở Về

Trở về không chỉ cần thiết mà còn cấp bách, vì đó là bước khởi đầu để được Thiên Chúa xót thương.  Vả lại, chính Đức Kitô đã khuyến cáo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2; Mt 4:17).

Biết ăn năn sám hối là điều tốt, nhưng coi chừng thói hợm mình và ỷ lại, rồi tự nhủ: “Tôi đã phạm tội nhưng nào có sao?  Bởi vì Đức Chúa nhẫn nại!  Đừng ỷ được tha thứ mà khinh thường, rồi cứ chồng chất tội này lên tội khác” (Hc 5:4-5).  Đừng lần lữa hoặc chần chừ, mà hãy nghe lời nhắn nhủ của Đức Chúa: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”(Ge 2:12).  Tuy nhiên, vấn đề là “ĐỪNG xé áo, nhưng HÃY xé lòng” và “TRỞ VỀ cùng Đức Chúa là Thiên Chúa, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2:13).  Vì thế, nếu chúng ta thành tâm sám hối, nhận biết sự khốn nạn của mình, Thiên Chúa sẽ “nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu chúng ta có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” (Ge 2:14).  Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân ăn năn.

Từ xưa, qua miệng ngôn sứ Giô-en, Thiên Chúa đã tuyên ngôn: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú.  Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!” (Ge 2:16).  Ai cũng đã từng phạm tội nên cũng phải sám hối: “Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và thân thưa: Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài!  Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại!” (Ge 2:17).  Quả thật, “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Người.  Tai ương chấm dứt và dân được giải thoát” (Ge 2:18).  Thiên Chúa không muốn ai phải hư mất, bởi vì ai cũng là tác phẩm do Ngài tạo nên, ai cũng là con cái của Ngài.

Mới được hình thành, chưa được sinh ra, chúng ta đã mắc tội rồi: Tội Tổ Tông.  Rồi lớn khôn, càng sống lâu càng nhiều tội.  Như vậy, không ai lại không có tội, cho nên không ai lại không phải khẩn khoản cầu xin Lòng Chúa Thương Xót: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.  Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).  Phạm tội là lầm đường lạc lối, vì lầm lạc mà phải trở về.

Trở về là từ bỏ con đường cũ, là sám hối, là ăn năn.  Nhưng để có thể trở về thì phải khiêm nhường nhận ra sự đốn hèn của mình: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.  Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.  Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51:5-6).  Và rồi lại phải tiếp tục van xin: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.  Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.  Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51:12-14).  Chắc chắn Thiên Chúa sẽ mủi lòng mà động lòng trắc ẩn.

Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy RỬA cho sạch, TẨY cho hết, và VỨT BỎ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta.  ĐỪNG làm điều ác nữa!” (Is 1:16). S ám hối và cầu nguyện không chỉ phải thực hiện trong Mùa Chay, mà phải thực hiện suốt đời – bao lâu còn thở, như Giáo Hội vẫn cầu xin hằng ngày: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17).  Đời sống tâm linh lúc nào cũng cấp bách: “Đừng trì hoãn, hãy trở về với Đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong” (Hc 5:7).

Chân thành khuyên nhủ, Thánh Phaolô cho biết: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.  Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.  Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:20-21).  Chúng ta không thể hiểu thấu và không thể dùng trí thông minh của phàm nhân mà lý luận về cách hành động “ngược đời” như vậy của Chúa Giêsu.  Chúng ta chỉ có thể cúi đầu mà cảm phục và tạ ơn Ngài mà thôi, đồng thời tín nhân chúng ta cũng phải không ngừng cố gắng sống “ngược đời” như Ngài.

Và rồi Thánh Phaolô còn cho biết thêm: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa thì đừng để trở nên vô hiệu.  Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ.  Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2).  Sám hối lúc nào cũng cần đối với loài người chúng ta, nhưng sám hối càng cần hơn vào các thời điểm đặc biệt như cuối ngày, đặc biệt là Mùa Chay.

Mục Đích Trở Về

Làm gì cũng đều có mục đích.  Học hỏi để thành nhân.  Kiêng cữ để giảm cân hoặc chữa bệnh.  Ăn chay để kiềm chế xác thịt – vì “ăn no rửng mỡ.”  Trở về để gặp gỡ Thiên Chúa, để được Ngài xót thương, tha thứ và cứu độ.  Thế nhưng trở về cũng phải biết cách: Ăn chay đúng cách, sám hối đúng cách, làm việc lành đúng cách.  Chúa Giêsu hướng dẫn cụ thể: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy.  Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng”(Mt 6:1).  Chúa Giêsu sống khiêm nhường nên Ngài rất thích những người khiêm nhường.  Và Ngài tiếp tục khuyến cáo: “Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen.  Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6:2).  Những mệnh lệnh phủ định mang thông điệp mạnh mẽ về cách thực hiện: Đừng và Chớ.

Cách thức của Chúa Giêsu luôn khác cách thức của chúng ta, chắc hẳn đôi khi chúng ta cũng thực sự cảm thấy “khó chịu”, bởi vì những gì mình làm không được ai biết đến – nhất là những điều hay, điều tốt.  Chỉ trong một đám tiệc nhỏ, chẳng nhiều người, vậy mà người ta cũng muốn thể hiện “tài năng” của mình bằng cách giành nhau hát, giành nhau nói.  Thế nhưng Chúa Giêsu lại bảo chúng ta phải âm thầm và kín đáo, không được phô trương hoặc khoe khoang.  Thật vậy, chính Ngài kề tai nhắn nhủ mỗi chúng ta: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí được kín đáo.  Và Cha của bạn, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho bạn” (Mt 6:3-4).  

Để chúng ta có thể nhận thức rõ ràng hơn, Chúa Giêsu đưa ra ví dụ rất cụ thể: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy.  Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi.  Còn bạn, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của bạn, Đấng hiện diện nơi kín đáo.  Và Cha của bạn, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho bạn” (Mt 6:5-6).  Im lặng là khôn ngoan, im lặng là mạnh mẽ, không phải ai cũng có thể làm được như vậy!

Mùa Chay có một chuỗi hoạt động liên kết chặt chẽ với nhau: sám hối – ăn chay – cầu nguyện – bác ái. Đó là quy trình cần thiết trong Hành Trình Mùa Chay.  Hành trình đó không là 40 ngày hoặc 40 năm, mà là hành trình cả đời, không được lơ đãng bất kỳ một giây phút nào.  Tịnh tâm rất cần để hồi phục, cả về thể lý lẫn tinh thần.  Trai tịnh nghĩa là ăn chay cả thể lý lẫn tinh thần.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin biến đổi chúng con, xin giúp chúng con biết chân thành trở về với Ngài và trở về với tha nhân bằng hành động cụ thể là yêu thương và tha thứ cho nhau, để chúng con xứng đáng được thông phần đau khổ với Con Một Ngài, tràn trề hy vọng được sống lại với Đấng-Tử-Nạn-và-Phục-Sinh.  Xin biến đổi các tội nhân và nâng đỡ những người đau khổ.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.  Amen!

Trầm Thiên Thu

From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu

CHUYỆN CỦA BIỂN 

CHUYỆN CỦA BIỂN 

Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939 –2001) nổi tiếng từ lúc còn sinh thời, cả quốc nội và quốc ngoại.  Ông là một trong ba “cây lạ” của làng nhạc Việt Nam – hai “cây” đàn anh kia là nhạc sĩ Văn Cao ( 1923–1995) và Phạm Duy (một “phù thủy” âm nhạc, 1921–2013).

Các ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không cầu kỳ về tiết tấu và giai điệu, nhưng ca từ như thơ và chứa đầy triết lý sống của kiếp người, có gì đó “bí ẩn.”  Khi sinh thời, cuộc sống đời thường của ông cũng thâm trầm, ít nói.  Hầu như những người có tư tưởng “khác người” thì thường có phong cách như vậy, có lẽ họ “bận” suy tư nhiều.

Thật vậy, văn sĩ William Hazlitt (1778-1830, Anh quốc) vừa so sánh vừa định nghĩa: “Bản chất giản dị là kết quả tự nhiên của tư tưởng sâu sắc.”  Còn ngạn ngữ Hy Lạp nói: “Bình dị là nhịp cầu nối nhân ái và cái đẹp.”

Một trong số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là bài “Biển Nghìn Thu Ở Lại.”  Bài này rất ngắn, chỉ 40 chữ, hiếm có bài ngắn như vậy, nhưng nó lại có thể “chở nặng” loại triết lý sống tích cực: Yêu thương và tha thứ.  Ca khúc này được viết ở âm thể LA thứ (Am), nhịp 4/4, tiết tấu cũng hoàn toàn đơn giản.

Ông dùng hình ảnh biển để mô tả, với những mệnh lệnh cách ở thể phủ định:“Biển đánh bờ, xôn xao bờ đánh biển.  Đừng đánh nhau, ơi biển sẽ tàn phai!  Đừng gạch tên, vì yêu đừng xé nát!  Biển là em ngọt đắng trùng khơi.”

Biển luôn có gì đó rất đặc biệt, rất tĩnh mà cũng rất động, rất hiền dịu mà cũng rất dữ dội, rất mềm mà cũng rất cứng, rất yếu mà cũng rất mạnh…  Đặc biệt là biển luôn bao la và sâu thẳm, khôn dò, bí ẩn.  Có lẽ vì vậy mà người ta gọi là biển cả.  Chỉ vì yêu thương mà biển luôn nôn nao, luôn xao xuyến, luôn nổi sóng, lúc thì lăn tăn, lúc thì cồn cào, có lúc vỗ về bờ cát và vách đá, nhưng cũng có lúc biển biết ghen nên xô bờ dữ dội.  Thủy triều cũng biến động theo con trăng, lúc thì nước ròng, lúc thì nước lớn.  Biển rất kỳ lạ!  Và con người cũng vậy…

“Đừng đánh nhau” vì đánh nhau là tự làm hại mình, tự làm mình tàn phai; “đừng gạch tên” bất kỳ ai và “đừng xé nát” mối quan hệ nào, thế mới là “vì yêu thương.”  Chữ “em” ở đây không có nghĩa là một cô gái hoặc một phụ nữ, mà là những người lân cận, những người ở bên mình, những người mà mình gặp gỡ và nhìn thấy hằng ngày – dù người đó cao hay thấp, đẹp hay xấu, dở hay giỏi, dại hay khôn, mập hay gầy, bình thường hay khuyết tật, già hay trẻ, giàu hay nghèo, thông minh hay chậm hiểu, nam hay nữ, quen hay lạ, ưa hay ghét…  Chỉ cần biết một điều: Họ là con người.  Họ có đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền cũng như mình.  Thế thôi!

Câu cuối được chuyển sang LA trưởng (A) như một điệp khúc, với 9 chữ được lặp lại 2 lần: “Biển nghìn thu ở lại, nghìn thu ngậm ngùi.”  Chỉ vài chữ nhưng khiến lòng lắng đọng, trầm tư, buồn riêng cho phận mình, vừa chịu đựng vừa chấp nhận thiệt thòi chứ không trách cứ ai khác.

Thật tốt đẹp thay những người có “tấm lòng của biển”, biết quên mình, biết nhịn nhục và chịu đựng như vậy!

Đức mến rất quan trọng.  Đức mến không chỉ là mến Chúa, mà còn là yêu thương nhau, là thương xót nhau.  Tại sao đức mến quan trọng?  Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.  Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.  Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” 1 Cr 13:1-3).

Và rồi Thánh Phaolô giải thích tường tận: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.  Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.  Đức mến không bao giờ mất được.  Ơn nói tiên tri ư?  Cũng chỉ nhất thời.  Nói các tiếng lạ chăng?  Có ngày sẽ hết.  Ơn hiểu biết ư?  Rồi cũng chẳng còn.  Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn” (1 Cr 13:4-9).

Còn Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20).

Lạy Thiên Chúa Cha, xin giúp chúng con “thuộc lòng” Bài Học Yêu của Chúa Con đã dạy, và quyết tâm thực hiện bằng mọi giá.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ chúng con. Amen.

Trầm Thiên Thu

TẠI SAO ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI?

TẠI SAO ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI?

Vô Nhiễm Nguyên Tội là đặc ân Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ.  Nhưng tại sao là Đức Maria mà không là người khác?  Tại sao chúng ta phải chịu hệ lụy của Tội Nguyên Tổ?  Tại sao Áp-ra-ham, Mô-sê hoặc Đa-vít được tuyển chọn mà không là người khác?

Theo Kinh Thánh, người được tuyển chọn luôn được chọn vì người không được chọn.  Như vậy, Áp-ra-ham được chọn để các quốc gia không được chọn trên trái đất sẽ được chúc lành qua ông.  Cũng vậy, Mô-sê và dân Ít-ra-en được chọn để họ có thể là dân tư tế vì các dân-tộc-không-được-chọn trên thế giới.  Đa-vít được chọn để con trai của ông có thể dẫn đưa các dân-tộc-không-được-chọn đến với Vương Quốc của Thiên Chúa.

Với Đức Maria cũng vậy.  Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa hoàn tất qua Mẹ.  Ơn Cứu Độ hoàn toàn mang tính ngăn ngừa chứ không mang tính chữa trị, không là dấu chỉ loại trừ.  Đó là dấu chỉ về quyền năng cứu độ nơi Chúa Giêsu, dành cho chúng ta theo sự quan phòng mầu nhiệm của Thiên Chúa, để chúng ta chiến đấu với Tội Nguyên Tổ.  Vì Đức Mẹ là biểu tượng của Giáo hội và là thụ tạo đặc biệt trong các thụ tạo của Thiên Chúa, chính Đức Mẹ có thể đưa ra một ước lệ đối với sự kiêu ngạo và lời hứa giải thoát qua cuộc nổi loạn bằng cách cho chúng ta thấy rằng:

Con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

Con người phát xuất từ Thiên Chúa và được tạo nên để kết hiệp với Ngài.

Quyền tha tội của Chúa Giêsu được biểu hiện trọn vẹn nơi Đức Mẹ, chúng ta có thể biết chắc rằng Ngài cũng có quyền tha tội của chúng ta, dù tội nặng tới mức nào.

Con người là sản phẩm tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Tội lỗi không là sự thật nền tảng, cũng không là nền tảng cuối cùng của con người.  Chính Chúa Giêsu mới là nền tảng.

Con người được xác định bởi tình yêu, chứ không bởi sự hận thù.

Con người được mời gọi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

Con người phản ánh lý lẽ, trật tự và tình yêu của Thiên Chúa.

Con người tìm thấy sự sống khi mất sự sống và tiếp nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Con người chỉ trở nên “người” hơn qua tình yêu, lòng khiêm nhường và lòng thương xót.

Con người lớn lên trong tình yêu bằng cách quan tâm “những người bé mọn” vì họ quý giá đối với Đức Kitô, Đấng đã tự hạ tới mức sinh nơi hang đá.

Con người nên tìm kiếm tình yêu tự dâng hiến ngay trên thế gian và phần thưởng trên trời, vì cuộc đời này không tồn tại mãi.

Chúng ta nên khiêm nhường vì chúng ta “được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa”, và sự thật là thế. Khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình cần có ơn Chúa.

Bản chất Thiên Chúa là tình yêu.  Chúng ta chỉ là thụ tạo, chúng ta không tìm thấy mình bằng cách tôn thờ bản chất đó mà bằng cách tôn thờ chính Thiên Chúa, Đấng tạo nên chúng ta và cứu độ chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.

Tóm lại, khi nhân loại tạo nên văn hóa sự chết, Chúa Thánh Thần đã đưa Giáo hội đến với Đức Mẹ, Đấng trung gian cầu xin Thiên Chúa cứu độ chúng ta.  Đức Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nhân chứng duy nhất về ơn cứu độ của Đức Kitô.  Là người che chở nhân loại, Đức Mẹ như hàng rào bao quanh sự thật về Ơn Cứu Độ của Đức Kitô.  Là Tông Đồ mẫu mực, Đức Mẹ cho chúng ta biết Ơn Cứu Độ vô biên của Đức Kitô có thể tẩy sạch tội lỗi của chúng ta và cho chúng ta biết sự xứng đáng về nguồn gốc của chúng ta từ Thiên Chúa.  Đức Mẹ là “máng chuyển” ơn Chúa, như Thánh Irênê nói: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống viên mãn.”

Mark Shea

Trầm Thiên Thu, chuyển ngữ từ http://www.ncregister.com/

BÍ QUYẾT YÊU MẾN KINH THÁNH

BÍ QUYẾT YÊU MẾN KINH THÁNH

Cuối tháng Chín hàng năm, Giáo hội kính nhớ Thánh tiến sĩ Giêrônimô, bổn mạng các dịch giả.  Ngài sinh ra không là thánh ngay, ngài có tính nóng này và gay gắt nên nhiều người không ưa, ngài còn bị cám dỗ dữ dội về đức khiết tịnh nên ngài chiến đấu bằng cách cầu nguyện và ăn chay nhiều.

Mặc dù khuyết điểm về tính khí và thường xuyên bị kẻ thù tấn công, ngài vẫn là người thông minh xuất chúng, đam mê nghiên cứu, nhất là say mê Lời Chúa.

Giáo Hội rất biết ơnThánh Giêrônimô, đặc biệt về lòng yêu mến Lời Chúa và tác phẩm nghiên cứu của ngài.  Có điều quan trọng là ngài đã hoàn tất bản dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin – chúng ta gọi là “Vulgate” (bản phổ thông), và từ bản phổ thông này, Kinh Thánh đã tiếp tục được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác – tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Việt Nam,…  Kinh Thánh là sách được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất, khoảng 2.500 ngôn ngữ.  Tất cả đều nhờ công việc khó nhọc của Thánh Giêrônimô.

Công Đồng Vatican II đã xuất bản bốn Hiến chế về Tín lý, bốn cột trụ của Giáo Hội trong thế giới ngày nay: Sacrosanctum Concilium (Hiến chế về Phụng Vụ Thánh), Gaudiumet Spes (Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội), Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) và Dei Verbum (Lời Thiên Chúa) – đề cập sự mặc khải và Lời Chúa. Thánh Giêrônimô nổi tiếng với câu nói này: “KHÔNG BIẾT Kinh Thánh là KHÔNG BIẾT Đức Kitô – IGNORANCE of Sacred Scripture is IGNORANCE of Christ.”

Đúng vậy!  Nếu chúng ta không đọc Kinh Thánh, đặc biệt là các Phúc Âm, chúng ta không thể biết Chúa Giêsu là ai, không biết Ngài thì không thể yêu mến Ngài, do đó mà khó có thể đi theo Ngài và làm môn đệ của Ngài được.  Vì thế, chúng ta phải dành cho Chúa tâm hồn mình, yêu mến và quý trọng Lời Chúa, bằng cách thực hiện ít nhất vài điều trong số các điều này:

  1. SỞ HỮU KINH THÁNH – Kinh Thánh có nhiều cuốn và đa dạng, nhưng bạn nên có được cuốn Kinh Thánh của Giáo Hội Công giáo.  Với điện thoại thông minh, bạn có thể sử dụng các Apps liên quan Kinh Thánh, nhưng phải cẩn trọng và chọn đúng Kinh Thánh Công giáo!
  2. TRAO TẶNG KINH THÁNH – Các dịp đám cưới, sinh nhật, kỷ niệm ngày rửa tội, thêm sức, ngân khánh, kim khánh,…  Thật là rất ý nghĩa nếu chúng ta tặng nhau một cuốn Kinh Thánh.
  3. YÊU MẾN KINH THÁNH – Hãy đặt cuốn Kinh Thánh ở nơi trang trọng, đừng bao giờ bất kính.  Điều đó có nghĩa là đừng bao giờ để sách Kinh Thánh ở nơi bất xứng – để trên nền nhà, ghế ngồi,… Kinh Thánh là Lời Chúa, chúng ta phải nâng niu, trân quý.
  4. ĐỌC VÀ SUY NIỆM – Kinh Thánh không là phần trang trí hoặc bộ sưu tập của lễ Giáng Sinh, cũng chẳng là vật kỷ niệm.  Kinh Thánh là để đọc và suy niệm không ngừng.  Hãy khắc dạ ghi tâm lời Thánh Vịnh: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày”(Tv 1:1-2).  Ước gì chúng ta cũng thích đọc Kinh Thánh và suy niệm Lời Chúa suốt ngày đêm!
  5. GHI NHỚ NHỮNG CÂU QUAN TRỌNG– Chúa Giêsu là gương mẫu của chúng ta!  Ngài ăn chay 40 đêm ngày, ma quỷ cám dỗ Ngài.  Cơn cám dỗ thứ nhất nó xúi giục Chúa Giêsu biến đá thành bánh mà ăn.  Ngài nói thẳng với nó: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4:4).
  6. BẢO VỆ ĐỨC TIN BẰNG LỜI CHÚA – Thánh Phaolô nói rằng Lời Chúa như gươm hai lưỡi tách xương và tủy.  Ngài có ý nói rằng Lời Chúa mạnh mẽ, nên được dùng làm linh khí để chiến đấu với Satan và đồng bọn của nó – những kẻ dối trá.  Hãy đọc Thánh Thomas Aquinô với Tổng Luận Thần Học (Summa Theologica) và cách ngài bảo vệ tín lý dựa vào Lời Chúa.
  7. THÁNH LỄ VÀ LỜI CHÚA – Hãy tham dự Thánh Lễ hằng ngày – cách cầu nguyện tuyệt vời nhất trên thế gian này!  Hiến chế Sacrosanctum Concilium giải thích về Thánh Lễ và Phụng Vụ, cho biết rằng có hai bàn tiệc nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh Lễ: Bàn Tiệc Lời Chúa với Bàn Tiệc Thánh Thể.  Hãy tham dự Thánh Lễ – thực sự là Bàn Tiệc Nước Trời!
  8. LINH THAO VÀ LỜI CHÚA – Khi có cơ hội, cố gắng sống theo cách Linh Thao (Spiritual Exercises) của Thánh Inhaxiô Loyola.  Có thể đó là cuộc tĩnh tâm một tháng, tám ngày, hoặc một tuần, hoặc ngay hôm nay, tĩnh tâm giữa đời thường, có thể kéo dài sáu tháng hoặc một năm, cùng với một vị linh hướng.  Phương pháp Linh Thao của Thánh Inhaxiô Loyola là cách suy niệm hoặc chiêm niệm Lời Chúa.  Hãy thử và bạn sẽ không bao giờ hối tiếc!
  9. ĐỨC MẸ VÀ LỜI CHÚA – Khi cố gắng phát triển lòng yêu mến đối với Lời Chúa,đừng quên đến với Đức Trinh Nữ Maria, vì chính Đức Mẹ đã cưu mang Ngôi-Lời-hóa-thành-nhục-thể trong cung lòng 9 tháng.  Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Mẹ đã suy niệm Lời Chúa trong Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ.  Sau khi các mục đồng đến kính viếng Hài Nhi, Đức Mẹ hoàn toàn im lặng: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”(Lc 2:19).  Cầu xin Đức Mẹ thêm sức cho chúng ta làm được như vậy – suy niệm Lời Chúa bằng cách đọc Kinh Thánh, cầu nguyện bằng Kinh Thánh, thấm nhuần Kinh Thánh và noi gương Đức Mẹ sống Lời Chúa!

Lm Ed Broom, OMV

– Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ Catholic

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Lá thư của người mẹ gởi đứa-con-trai-chống-Công-giáo

 

Tác giả Kimberly Scott cho biết: Tôi có người bạn thân, người mẹ của 6 đứa con đã khôn lớn, nói rằng định nghĩa sự khôn ngoan có nhiều điều để nói – và đừng nói về nó. Tôi luôn phá vỡ quy luật này, điều mà tôi cho rằng sẽ khiến tôi ngớ ngẩn. Nhưng đôi khi chúng ta phải nói ra từ đáy lòng, ngay cả khi chúng ta có nguy cơ bị hiểu lầm.

Một số vị thánh được gọi làm “những người ngớ ngẩn vì Đức Kitô”. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ vui mừng được kể vào số những người đó. Và đây là lá thư của một người mẹ viết cho con trai vào đúng ngày lễ Chúa Phục Sinh. Thư viết như sau…
Con trai yêu dấu của mẹ,

Mẹ muốn chia sẻ với con về tất cả ánh sáng, vẻ đẹp và niềm vui mà mẹ phát hiện từ khi mẹ gia nhập Giáo hội Công giáo. Mẹ biết con miễn cưỡng tin “Thiên Chúa ở với chúng ta” vì một vấn đề chung: Nếu Ngài ở với chúng ta, tại sao vẫn có đau khổ trên đời này? 

Đó là điều mầu nhiệm lớn lao. Chắc chắn rằng đau khổ mà là kết thúc như chính nó thì thật là kinh khủng. Nhưng khi đau khổ vượt qua chính nó – như khi đau khổ hướng về Đức Kitô trên Thánh Giá, nó trở nên có giá trị cứu độ và thánh hóa. Mẹ đã cầm tay cha con khi ông qua đời, thế nên mẹ biết rằng nước mắt và đau khổ có thể trở nên “ngọt ngào” nếu đau khổ đó được kết hiệp với đau khổ của Đức Kitô trên Thánh Giá. Nếu con sống trong tình yêu thương của cha con thì con nhận ra rằng chẳng có gì có thể làm mẹ tổn thương – không đau đớn, bệnh tật hoặc già nua, thậm chí cả cái chết. Vì Thiên Chúa ở với chúng ta, không ở xa trên những đám mây trên trời kia. NGÀI Ở GẦN CHÚNG TA NHẤT KHI CHÚNG TA ĐAU KHỔ. Mẹ biết đó là sự thật, vì mẹ đã gặp Ngài trong những đêm tăm tối nhất của cuộc đời.

Từ khi Đức Kitô phục sinh, tử thần bị tước quyền, chúng ta còn sợ gì nữa? Bệnh tật, bạo lực, hỏa hoạn, lụt lội và các tai họa khác có thể giết chết chúng ta. Vậy thì sao? Với cái chết trên Thập Giá và phục sinh vào ngày thứ ba, Đức Kitô đã đánh bại tử thần vĩnh viễn và trao ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Điều đó thực sự là TIN VUI MỪNG – tin tốt lành như thế mà đầu óc thời đại mới của chúng ta khó có thể tin được, vì “bị mắc kẹt” trong sự rối loạn của tiếng ồn ào, u uẩn và thất vọng! Nghe có vẻ như chuyện thần thoại vậy. Hãy nhìn vào những người nằm lặng lẽ nơi nghĩa địa mà xem. Họ chết rồi, phải không? 

 
TÌNH MẪU TỬ

Đúng và không đúng. Bề ngoài có thể đánh lừa chúng ta. Thật khó tin, ánh sao trên bầu trời đêm đã rời bỏ những ngôi sao đó từ hằng trăm hoặc hằng ngàn năm trước. Các nhà vật lý cho chúng ta biết rằng mọi vật thể trên thế giới này có vẻ rắn theo cách nhìn của chúng ta – đá sỏi, cây cối, trái đất – lại được tạo nên từ những phân tử vô hình luôn chuyển động không ngừng.

Cuộc sống là điều mầu nhiệm. Ngay cả các phát hiện khoa học mới nhất khiến chúng ta kinh hãi. Tin các phần tử đó đang chuyển động không ngừng là chấp nhận tin vào sự sống và thấy vẻ đẹp kỳ diệu của sự sống. Tin những người nằm im trong mộ đã chết (trong thế giới hữu hình) và vẫn sống (trong tầm nhìn của Thiên Chúa) cũng là chấp nhận tin.

Ngay cả trọng lực cũng phải chấp nhận tin. Mẹ muốn nói với con rằng có một lực vô hình neo giữ chúng ta trên trái đất này, không có nó thì chúng ta có rơi vào không gian? Điều này cũng giống như thần thoại vậy. Nhưng dù muốn hay không thì con vẫn tin vào trọng lực, con vẫn là người thừa hưởng sự tốt lành của nó. Con không thể trốn khỏi sự tốt lành của trọng lực, cũng không thể trốn khỏi sự tốt lành của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa nắm giữ chúng ta an toàn trong bàn tay của Ngài, giống như tọng lực neo giữ chúng ta an toàn trên trái đất vậy. Cả ngàn cách từ chối thực tế cũng chẳng bao giờ làm cho nó hóa thành điều không thật.

Điều mà con coi mẹ là “liều lĩnh” (vì mẹ làm nhiều việc hèn mọn và không lương cho Giáo hội, trong khi mẹ có thể kiếm nhiều tiền) phát xuất từ sự bình an nội tâm và vì mẹ trút bỏ mọi lo lắng. Trước khi mẹ tìm thấy Thiên Chúa (hoặc có thể là trức khi Ngài tìm thấy mẹ, bởi vì Ngài luôn đi bước trước), mẹ thường lo lắng nhiều thứ trên thế gian này. Mẹ thường lo sợ, một điều nguy hiểm, về bạo lực không đến từ Thiên Chúa, mà đến từ sự sợ hãi của con người. Khi chúng ta nhận biết và yêu mến Thiên Chúa (mẹ nói về Thiên Chúa đích thực chứ không nói về ảo giác mà chúng ta có trong đầu), nỗi sợ hãi được biến thành niềm tin. Có lẽ con cho rằng mẹ lẩn thẩn và khổ sở với tuổi già. Điều con hiểu sai mà cho rằng mẹ “quá liều lĩnh” lại chính là cách mẹ trút bỏ nỗi sợ hãi. TÌNH YÊU HOÀN HẢO CỦA NGÀI LOẠI BỎ SỰ SỢ HÃI.

Con ơi, tình yêu thương của mẹ dành cho con chưa trọn vẹn, thế nên con buồn vì điều đó. Nhưng như Chúa Giêsu và Đức Mẹ cho chúng ta biết, mối quan hệ giữa mẹ và con thiêng liêng lắm, và không thể dễ dàng rạn nứt, cả trong đời này và đời sau. Mẹ con mình hãy bỏ qua những khác biệt và hãy đơn giản là yêu thương nhau thật lòng, luôn tin rằng Thiên Chúa quan phòng và định liệu mọi sự. Con trai ơi, ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH!

Yêu con nhiều,

Mẹ của con

TRẦM THIÊN THU 

(chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Hằng ngày, càng ngày càng có nhiều người lưu tâm con người lịch sử là Giêsu Nadarét. Với một người bị người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết mà tại sao ngày nay người ta vẫn quan tâm tới cuộc đời và các giáo huấn của Ngài như vậy?

ĐIỀU PHÁT HIỆN
Mọi điều về Ngài đều xảy ra chính xác: Các lời tiên tri về việc Ngài đến, sinh ra, cuộc sống, giáo huấn, phép lạ, sự chết, và nhất là sự sống lại của Ngài. Đó là các sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.

Hiệu quả chính xác về chính Ngài đối với sự Phục Sinh – dù Ngài đã sống lại từ cõi chết hay vẫn còn trong mộ đá. Nhiều người đa nghi nói rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không gì hơn chỉ là “bước nhảy mù quáng của niềm tin vô căn cứ” (sic!).

Tuy nhiên, khi đối diện với các sự kiện này, những người chân thật một cách thông minh đã phải chân nhận rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử dựa trên các chứng cớ không thể bác bỏ.

Trên hành trình tâm linh từ không biết gì tới lúc tin vào Đức Kitô, người ta có vấn đề về sự phục sinh. Nhưng xét kỹ thì chúng ta thấy sức thuyết phục rằng sự sống lại về thể lý là lời giải thích duy nhất về ngôi mộ trống, nơi đã mai táng thi hài Đức Kitô.

Đây là vài chứng cớ lịch sử khiến tâm phục khẩu phục:

CHỨNG CỚ PHỤC SINH

• Đức Kitô đã báo trước việc Ngài phục sinh. Kinh thánh nói: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Mặc dù những người theo Ngài không hiểu Ngài nói gì với họ lúc đó, nhưng họ vẫn ghi nhớ lời Ngài.

  • Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với những người theo Ngài. Ngài an ủi những người than khóc bên ngoài mộ vào sáng Chúa Nhật. Trên đường đi Emmaus, Ngài đã giải thích những điều nói về chính Ngài từ Cựu Ước. Sau đó, Ngài ăn uống trước mặt họ và mời họ chạm vào Ngài. Kinh thánh nói rằng Chúa Giêsu được hơn 500 người thấy một lúc. Một số người có thể cho rằng chỉ có một số ít người đồng ý với sự dối trá đó, nhưng làm sao người ta có thể giải thích về sự cộng tác của 500 người đó?
  • Đức tin kiên cường của các Tông đồ đủ thuyết phục chúng ta về việc Chúa Giêsu phục sinh. Các Tông đồ này đã từng sợ hãi mà bỏ trốn và chối bỏ Thầy, nhưng nay họ can đảm công bố tin vui này, rao truyền mà không sợ chết. Hành động kiên cường và can đảm của họ sẽ vô nghĩa nếu họ không biết với sự chắc chắn tuyệt đối rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
  • Sự phát triển của Kitô giáo đủ xác minh Chúa Giêsu phục sinh. Bài giảng đầu tiên của ông Phêrô, nói về sự phục sinh của Chúa Giêsu, đã khiến người ta tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ hằng sống của họ. Thánh Luca cho biết một con số kỷ lục: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn ngườitheo đạo” (Cv 2:41). Cho tới nay, số người tin đó càng ngày càng tăng thêm trên khắp thế giời. Ngày nay, có hàng tỷ người tin.
  • Chứng cớ của hàng tỷ người đã thay đổi đời sống qua các thế kỷ qua cho thấy sức mạnh của Đức Kitô phục sinh. Nhiều người đã bỏ được các chứng nghiện. Những người nghèo khổ và những người thất vọng đã tìm được niềm hy vọng. Những cuộc hôn nhân đổ vỡ đã được hàn gắn. Chứng cớ thuyết phục nhất về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là ngày nay Ngài vẫn đang sống giữa những người tin vào sự sống lại và sức mạnh hoán cải.

Sự Phục Sinh làm cho Kitô giáo trở nên đặc biệt. Chưa có một vị lãnh đạo tôn giáo nào đập tan sức mạnh của Tử thần và chiến thắng tội lỗi như Đức Giêsu Kitô.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỤC SINH

Sự Phục Sinh xác nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố. Chúng ta hãy cân nhắc tầm quan trọng của sự kiện này:

  • Sự Phục Sinh chứng tỏ rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ thần tính của Ngài bằng việc hoàn tất các lời tiên tri về cái chết của Ngài và bằng việc Ngài trỗi dậy từ trong mộ. Kinh thánh tuyên bó: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:4).
  • Sự Phục Sinh chứng tỏ quyền năng của Đức Kitô trong việc tha tội. Kinh thánh quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17). Qua việc sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng và quyền lực phá vỡ mối ràng buộc của tội lỗi, bảo đảm ơn tha thứ và sự sống đời đời cho những ai tin vào Ơn Cứu Độ của Ngài.
  • Sự Phục Sinh mặc khải quyền lực của Đức Kitô đối với sự chết. Kinh thánh cho biết: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6:9). Sự Phục Sinh bảo đảm chúng ta cũng chiến thắng sự chết: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6).
  • Sự Phục Sinh đánh bại kẻ thù của Thiên Chúa. Từ cuộc nổi loạn đầu tiên cho đến Thập Giá, ma quỷ đã nham hiểm đấu tranh và xảo quyệt muốn lật đổ Thiên Quốc. Satan phải biết rằng nó đã bị một đòn chí tử trong cuộc chiến xưa kia. Nhưng cuộc chiến này là sự tính toán sai lầm của ma quỷ. Thập Giá là chiến thắng của Nước Trời. Khi Đức Kitô sống lại, quyền lực của tội lỗi và Tử thần đã bị đập tan vĩnh viễn. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, các Kitô hữu không còn sợ Satan hoặc Tử thần nữa!

    HOÀN TẤT ƠN CỨU ĐỘ

    40 ngày sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Có lần Ngài quy tụ 11 môn đệ (không còn Giuđa) trên núi tại Galilê và trao cho họ sứ vụ quan trọng. Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20).

Rồi sau đó, sách Công vụ nói: “Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:4-5, 7-8).

Ngay sau đó, Ngài lên trời và biến vào trong đám mây, để các môn đệ ngơ ngẩn nhìn theo, mắt chữ O mà miệng chữ A. Chúa Giêsu lên trời là hành động cuối cùng trong công cuộc cứu độ. Sứ vụ của Ngài hoàn tất, Đức Giêsu Kitô được tán dương và vinh quang. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sự kiện cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại.

Người ta không thể từ chối rằng Ngài đã làm rung động thế giới khi Ngài làm người trên thế gian. Nhưng cuộc đời Ngài đã hình thành lịch sử cả trong thời đại chúng ta. Sự Phục Sinh là minh chứng cuối cùng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.

Nhân chứng sống của chàng trai trẻ Gioan, người luôn kề cận Chúa Giêsu và chứng kiến từ đầu tới cuối, ngay cả khi đứng dưới chân Thập Giá, đã viết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ ccci.com)

KHÁT TÌNH

KHÁT TÌNH

(Thứ Sáu Tuần Thánh)

BỬU HUYẾT GIÊSU TƯƠI MÀU CỨU ĐỘ

OAN KHIÊN THẾ GIỚI HÓA SẮC TINH TUYỀN

Có nhiều dạng khát – bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng có lẽ mạnh mẽ và ray rứt nhất là dạng “khát tình”. Thật vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên trong những giây phút cuối cùng: “TÔI KHÁT!” (Ga 19:28) – khát cả thể lý lẫn tinh thần.

Tam Nhật Vượt Qua là“đỉnh cao” của Mùa Chay, còn gọi là Tam Nhật Thánh(Triduum). Trong đó,ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang, là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 15 giờ), giờ của Lòng Chúa Thương Xót.

Khoảnh khắc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc lắng đọng và xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội.Phút cuối là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong tích tắc, nhưng lại nặng nề trôi… Và phút cuối là lúc người ta bịn rịn nhất, cũng là lúc nói thật nhất của một con người.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài có 2 bản tính: Thần tính và nhân tính. Và theo nhân tính, Ngài nên giống chúng ta mọi sự – trừ tội lỗi. Tất nhiên Ngài cũng rất đau đớn và rời rã vì kiệt sức do đòn roi, phải tự vác Thập giá lên đồi, té lên té xuống nhiều lần, chịu đói khát, bị những gai nhọn đâm thấu đầu, bị đinh ghim chặt chân tay và lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn, không thể tưởng tượng nổi, đến nỗi thân xác Ngài chảy ra đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng. Thật thê thảm!

CHIÊN CON HIỀN LÀNH

Chiên con là “cừu nhỏ” –chỉ 1 năm trở xuống, còn cừu là “chiên lớn” (hơn 1 năm trở lên). Chiên con không chỉ nhỏ bé, ngây thơ, mà còn hiền lành. Khi nói về Chiên Thiên Chúa,Đức Chúa đã mô tả: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14 – Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung). Mặc dù vậy, mọi người vẫn phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn.Chính Người-Tôi-Trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15).Người-Tôi-Trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ,“như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).

Ngày nay, chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ trong cuộc khổ nạn tang thương của Ngài, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên cảm thấy… bình thường, và cũng cho đó là “chuyện nhỏ”.Có thể có người đặt vấn đề: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?”(Is 53:1). Đúng là khó tin thật, thế nhưng đó lại là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi!

Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia mô tả: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật là nghịch lý quá, có lẽ vì chúng ta ảo tưởng quá chăng?

Ngôn sứ Isaia đưa ra bảng đối chiếu và liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm VÌ chúng ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát VÌ chúng ta lỗi lầm,Ngài đã chịu sửa trị ĐỂ chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích ĐỂ chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Bốn “cặp đối” rất tuyệt vời, chứng tỏ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chắc chắn trí óc loài người chúng ta không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”.Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”,nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãimà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn“bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí“Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và“vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy bị hàm oan chỉ vì chúng ta quá khốn nạn!

Và cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy màÝ Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có nhiều tội của mỗi chúng ta!

Qua miệng lưỡi của Thánh Vịnh gia, Người Ấy đã nói lời cuối của Con Người hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín”(Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).

Dù cho thế nào thì Người Ấy vẫn chấp nhận mọi thiệt thòi, vui chịu chứ không cam chịu, và thành tâm cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18).

Lời minh định của Thánh Phaolô rất rạch ròi:“Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”(Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong tất cả các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chính Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta, những con người còn phải đối mặt với đủ loại “khổ não trần ai” của kiếp này.

Lúc còn sinh thời của kiếp phàm nhân, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào khi phải miệt mài chịu đau khổ như vậy!

Tuy nhiên, chính lúc đó lại là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi“Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang. Chúng ta không thể không “nhâm nhi chén đắng” để trải nghiệm đau khổ. Không có hạnh phúc nào không có đau khổ, thiếu vắng hy sinh. Chắc chắn không thể cứ tà tà mà được tận hưởng.

Thánh Gregorio Khandzta (759-861, người thành lập nhiều cộng đoàn tu trì tại Tao-Klarjeti, thuộc Tây Nam Georgia) đã tha thiết cầu nguyện:“Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã BỊ CÁM DỖ và CHỊU ĐAU KHỔ. Ngài là Đấng quyền năng đã đến để CỨU GIÚP những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Ngài luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài. Lạy Chúa, xin GÌN GIỮ những kẻ tin vào Danh Thánh Ngài trong cánh tay Ngài. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt”.

CHIÊN CON BỊ GIẾT

Trình thuật Phúc Âm hôm nay là tấn bi kịch, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo Hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng, quả thật là điều kỳ diệu!

Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong 12 môn đệ “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo. Người ta lục soát, tìm cách gài bẫy và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “ghế”, thế nên họ làm mọi cách để hạ nhục Ngài đủ kiểu. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!

Ngài hỏi: “Các anh tìm ai?”,thì họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói“chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Có lẽ lúc này Giuđa đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài!

Ngài lại hỏi họ muốn tìm ai. Họ vẫn cương quyết là tìm Giêsu Nadarét, họ không hề thấy tởn chút nào. Lì thật! Đức Giêsu thản nhiên xác nhận: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9).Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11).Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.

Cơn tức giận dâng cao, nỗi hận thù đầy ắp, họliền bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan – nhạc phụ ông Cai-pha. Năm đó ông Cai-pha làm thượng tế. Chính ông này đã nói với người Do Thái một đề nghị tồi tệ:“Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14).Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc.Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!

Thế nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Không phải đâu!”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng cộng 3 lần trước khi gà gáy.Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Thật tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay. Buồn thế đấy!

Tuy Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói chi cả, không tự biện minh cho mình là đúng, cũng chẳng một lời kêu oan hoặc oán trách. Chiên Con hiền lành lắm!

Mãi tới lúc bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn – nghĩa là liên quan người khác,Ngàimới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?”(Ga 18:22). Hỗn láo và ngang ngược thật! Ngày nay người ta cũng hống hách kiểu như vậy khi đối xử với đồng loại. Mặc dù bị xử tệ, Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá. Và tất nhiên họ phải câm họng thôi!

Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan”(Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không trả lời đúng hay sai, mà bình thản nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Ui da, thế mà lão Philatô vẫn không hiểu ất giáp chi cả, mà còn hỏi:“Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu ôn tồn: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô tỏ ra ngớ ngẩn nên hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Đúng là “dốt đặc cán mai” mà!

Vào dịp lễ Vượt Qua và theo tục lệ Do Thái, người ta thường ân xá cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ liền la to:“Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40).Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương và quý hơn là Chúa Giêsu – dù chính Philatô hai lần xác định là Chúa Giêsu “không có tội gì” (Lc 23:4 và 22).

Và rồi Philatô truyền đem Ngài đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài.Như vậy, nhân vị của Ngài bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, thì quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác.Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không đề cao nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?

Dù ai nói gì thì nói, Chúa Giêsu vẫn im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Bất nhân quá! Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt.Nhưng Ngài nói thẳng với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.

Cuối cùng, ông Philatô đành cho thi hành án tử đối với Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập giá lên đồi Gôn-gô-tha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Tấm bảng đó nhằm mỉa mai nhưng chính nó lại là lời xác nhận công khai rằng “Chúa Giêsu là Vua dân Do Thái”. Lão Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen. Hèn!

Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!”(Ga 19:28).Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Tetelestai! Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19:30). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí. Tang thương bao trùm, đất trời rung động!

Sự kiện bi thương hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế Giáo Hội không cử hành thánh lễ hôm nay mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ.

Thiên Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”,nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Thật vậy, khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử,chính Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Chính chúng ta mới là những kẻ đáng phải khóc thương!

Và có một điểm khác mà chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”.Kiểu này rất nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó. Cần chấn chỉnh và cần can đảm là chính mình, đặc biệt là phải biết khát và nhận ra cơn khát của người khác để cố gắng giúp họ thỏa cơn khát!

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chính con là kẻ khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, con đã hèn nhát khi a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Hôm nay, con chân thành nhận lỗi, xin lỗi Ngài và xin lỗi mọi người. Xin Ngài thương xót con mà đại lượng ban cho con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 Mạng Lưới Cầu Ngyện

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ & Mai gởi