Một Kiếp Người – Khánh Giao BS Phùng Văn Hạnh

Khánh Giao

BS Phùng Văn Hạnh

Cách mạng Mùa Thu 1945, tiếp theo là Toàn quốc kháng chiến 1946, là những thời điểm mà thế hệ lưu vong trên 70 tuổi nhớ đến với nhiều nỗi đau thương, ngậm ngùi. Riêng tôi kỷ niệm tản cư những năm kháng chiến chống Pháp thật khó quên. Gia đình tôi bỏ làng ở tỉnh Quảng Nam, chạy vào tận Bình Định. Lúc đầu sống ở Bồng Sơn sau dời lên Hội Yên, và sống ở đó cho đến ngày hồi cư về làng cũ. Một kỷ niệm khó quên là sông Lại Giang. Sông xuất phát từ thung lũng An Lão, chảy ra cửa biển Bàu Tượng, xuyên qua các cánh đồng phì nhiêu quận Hoài Ân, Hoài Nhơn. Về mùa đông, con sông thu hẹp, cạn dòng, trừ khi lũ lụt. Trái lại mùa nắng, mức nước sông lên cao, chảy chậm lại vì cứ độ một cây số thì có hệ thống dẫn thủy nhập điền gọi là “bờ xe gió” hay “dàn xe gió”(noria): Vào đầu Xuân, các làng ven sông bắt đầu đóng cừ ngang sông, ghép vỉ tre vào cừ, làm thành đập chắn, dồn nước vào một lạch chảy xiết sát bờ. Một giàn chừng 5 đến 10 bánh xe đặt ngang qua lạch. Giàn là một kiến trúc giống như sườn một căn lầu hai từng gồm những cột gỗ đóng sâu vào lòng lạch, và những xà ngang dọc, nối kết vào cột, bằng dây mây. Giàn có nhiều ngăn, và trong mỗi ngăn là một bánh xe. Xà ngang nâng bánh xe có khấc lót sắt cho trục tựa vào. Mỗi bánh xe, có trục gỗ bịt sắt hai đầu, từ đó các nan gỗ dài 3m tỏa ra nâng vành có bề ngang 1m. Tất cả đều ghép lại bằng những sợi mây, do những thợ chuyên nghiệp làm. Những tấm vỉ tre cản nước 1m X 1m, được cột, cách khoảng đều đặn, vào đầu mút nan, sát vành. Nước đẩy những tấm vỉ làm bánh xe quay trên trục. Các ống tre lồ ô, có đáy là mắt tre, và có miệng hướng lên cao khi vành xe được nâng lên khỏi mặt nước sông, cột nghiêng 45 độ trên vành, múc nước. Lên đến đỉnh, ống tre nằm ngang, trút nước vào các máng xối dẫn nước vào ruộng. Giữa các bờ xe gió, là những hồ nước xanh biếc, phẳng lặng. Bờ cừ cũng chừa một lối hẹp ở giữa dòng sông cho đò dọc đi lại. Hội Yên là một làng nông nghiệp ven sông Lại Giang, có xưởng dệt vải Ba-ta (của dân tản cư từ Phú bông, Quảng Nam vào), có xưởng giấy sản xuất loại giấy màu vàng sẫm (vì thiếu hóa chất tẩy bột giấy), có Ủy Ban Kháng Chiến Miền Nam (UBKCMN) trấn đóng, nên cuộc sống ở đây có phần náo nhiệt. Với tôi, Lại Giang thay thế Thu Bồn nơi quê cũ, cũng đầy ắp kỷ niệm thiếu thời: tắm sông, chèo thuyền…

Kháng chiến chống Pháp bước vào năm thứ sáu. Liên khu 5 từ Đèo Hải Vân vào đến Bình Thuận, gồm cả Cao Nguyên Trung Phần là một quân khu lớn. Từ Đèo Cả vào Nam, toàn bộ Cao Nguyên, và hơn nửa tỉnh Quảng Nam mạn Bắc, là vùng xôi đậu hoặc hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, và chính quyền Quốc gia thời Bảo Đại, nhất là các thị xã, quận lỵ, và thành phố. Vùng hoàn toàn do UBKC Liên khu 5 kiểm soát gồm nửa tỉnh Quảng Nam mạn Nam, tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên. Năm 1952 Liên quân Pháp và Bảo an Đoàn, trong chiến dịch Atlante, đổ bộ lên Qui-Nhơn, và Tuy hòa, (thành phố bỏ ngỏ do tiêu thổ kháng chiến), rồi lan tỏa ra các vùng phụ cận, thu hẹp phạm vi kiểm soát của UBKC. Vợ chồng Bác sĩ Hoa, làm việc ở Bệnh viện Song Thanh, gần Qui-Nhơn, phải di tản ra làng Hội Yên. Họ tá túc trong nhà ông Chánh Bích, một địa chủ giàu có trong làng. Trang trại ông Bích là một khu vườn rộng lớn gần một mẫu tây, có hàng rào xương rồng dày, kín, vây bọc bốn phía. Cổng vào là một ngôi nhà nhỏ, lợp ngói, khép lại bằng hai cánh cửa lim. Tiếp theo cổng là lối đi vào nhà, giữa hai hàng dâm bụt cắt xén đẹp mắt, và những chậu hoa lớn, trồng đủ thứ hoa nhiều màu, thơm ngát. Bóng mát những cây ăn quả làm lối đi mát rượi. Rời lối đi rợp mát, khách bước vào sân gạch rộng lớn, chan hòa ánh sáng, mà vào mùa gặt dùng để phơi lúa. Một dãy nhà dài, lợp ngói đỏ, có hàng hiên rộng, làm thành chữ U, bọc hai bên và chính diện sân. Vườn sau dãy nhà là thế giới êm mát, rợp bóng cây ăn quả. Gia đình tôi đã thuê một góc vườn, dựng một mái nhà tranh để ở. Chính vì thế mà tôi có dịp gần gũi hai ông bà Bác sĩ Hoa.

BS Hoa đã tốt nghiệp Y khoa, đại Học Paris năm 1942. Vợ ông, bà Khương Băng Tuyết, tốt nghiệp viện Quốc gia Âm Nhạc Paris khoa Dương cầm cùng năm ấy. Ông, quê Đà Nẵng, con một phú thương. Cha ông có tàu buôn lớn, chở hàng đi về các cảng Sài gòn, Hải Phòng,Vinh, và là chủ nhân những dãy phố cho thuê, dày đặc ở Đà Nẵng. Bà quê Sài gòn cũng con một đại phú gia. Hai người đã quen biết nhau ở Paris, trong một buổi họp mặt sinh viên du học, và một tình yêu lớn đã nảy nở, trong khung cảnh lãng mạn của kinh đô hoa lệ nhất Châu Âu. Sau ba năm say đắm, tràn đầy hạnh phúc, cộng với nỗi mừng vui đỗ đạt, công thành, danh toại, họ hối hả về Việt Nam để thành hôn cuối năm 1942. Lễ cưới được cử hành ở Sài gòn thật linh đình. Rước dâu về Đà Nẵng phải thuê bao cả hai toa tàu hạng nhất. Lễ ra mắt cô dâu ở họ nhà trai cũng linh đình không kém. Đám cưới xong, đôi tân hôn đi hưởng tuần trăng mật ở Ý, rồi ghé Paris để sống lại kỷ niệm thân thương. Ba tháng sau họ trở về Đà Nẵng. Nhưng không phải là để mở phòng mạch hành nghề. Cả hai ông bà đều là con một, và cùng kế thừa một sản nghiệp đồ sộ của đôi bên phụ mẫu đã qua đời vài năm sau. Các nghiệp vụ doanh thương đã có những gia nhân thân tín đứng cai quản, và hàng tuần báo cáo thu nhập. Vì thế BS Hoa thấy không phải hành nghề chi cho mệt, mà cùng vợ hưởng thụ cuộc sống thư nhàn, đi du lịch khắp nước, từ Bắc, chí Nam. Họ giao du rộng rãi và như Mạnh thường Quân, trong nhà lúc nào cũng đầy thực khách, và cả ba, bốn bàn mạt chược. Nhưng biến cố năm 1945 dồn dập đến: Cách mạng Mùa Thu rồi Toàn quốc kháng chiến. Pháp trở lại tái chiếm Đà Nẵng. Ông Cử Diện, cha BS Hoa, xưa kia đã từ quan thời Pháp để xoay qua kinh doanh. Ông đã giúp đỡ rộng rãi phong trào yêu nước Đông du, cấp học bổng cho học sinh giỏi và có chí hướng du học Pháp. Vì thế BS Hoa, cũng chẳng ưa gì chế độ thực dân, đã chọn lựa đi tản cư, khi thành phố lọt vào tay Pháp. Hai ông bà đã gói ghém vàng bạc, nữ trang đi vào tận Quảng Ngãi rồi Bình Định. Bà không quên mang theo đàn dương cầm, mà sự chuyên chở kềnh càng tốn tiền không ít. Ngày mà bà chở dương cầm về Hội Yên, ít nhất phải sáu người lực lưỡng mới đem được đàn xuyên qua cổng nhà ông Chánh Bích.

Ở lứa tuổi 16, lối sống của ông bà BS Hoa thu hút trí tò mò của tôi. Ông lúc ấy độ 30 tuổi, nét mặt nghiêm nghị, thanh tú, trí thức. Bà khoảng 25, với vẻ đẹp quý phái, cân đối, khỏe mạnh, đúng như lời thơ ông tặng bà lúc mới quen nhau:

…Xinh xinh sao thân nở đặn đầy

Xinh xinh sao đôi má hồng hồng

Xinh xinh sao nụ cười êm ái

Xinh xinh sao dáng đi quý phái

Xinh xinh sao vầng trán phẳng phiu

Xinh xinh sao mái tóc mỹ miều

Mái tóc xõa của tuổi xanh ngăn ngắt

Và đôi mắt, ồ đôi mắt

Là một trời tình tứ, ngây thơ..

Ngước nhìn, anh những thẫn thờ,

Nàng tiên tiền kiếp, trong mơ đây rồi…

Trong khi mọi người ăn mặc xuềnh xoàng với vải ta sần sùi, ông bà với áo quần vải vóc ngoại mượt mà, trắng tinh hoặc màu sắc óng ả. Ban ngày khi ông đi làm ở bệnh viện Liên khu cách Hội Yên một cánh đồng, bà ở nhà, làm bếp, trồng hoa, và nhất là đàn dương cầm cả giờ. Bà không đi chợ mua đồ ăn, mà gửi tiền, nhờ người khác mua. Để tránh con mắt tò mò, ông bà ít ra ngoài. Thảng hoặc có đi dạo trong làng thì lựa ban đêm, trên những hẻm mờ tối. Thấy tôi nghe lén bà đàn, bà nẩy ý dạy tôi đánh đàn. Nhờ cách dạy tận tâm và có phương pháp, tôi tiến bộ nhanh. Tôi bước vào thế giới huyền diệu của âm thanh qua các bài menuet đơn giản nhưng réo rắt, những bài Songe d’été, Princesse Czardas, La prière d’une vierge, La chapelle au clair de lune, Lettre à Élise, v.v… dịu dàng thơ mộng. Những bài bà đàn thì rất khó và dài dặc của những nhạc sĩ cổ điển nổi danh, như Beethoven, Bach, Mozart, Chopin, Mendelssohn, Brahms, cùng rất nhiều nhà soạn nhạc khác mà tôi không nhớ hết. Tôi nghe tâm tình bà qua bài “sonate au clair de lune” của Beethoven, lúc xao xuyến, lúc hối tiếc, giận dỗi và sự thanh thản cuối cùng. Bà kể tôi nghe Beethoven lúc nhỏ đã bị cha xiềng chân vào đàn, để tập đánh đàn cả ngày cho giỏi. Bà cũng kể uy lực của âm nhạc qua chuyện nhạc sĩ nầy có cô học trò cũ đến thăm, thổ lộ ông nghe nỗi buồn vô vọng vì đứa con mới chết. Ông không nói gì, ngồi trước dương cầm, dạo những khúc nhạc êm ái đến nỗi một giờ sau, người học trò thấy lòng thanh thản trở lại, vơi đi nỗi buồn mất con… Bà cũng kể khi mới về làm dâu, cha mẹ chồng nghe bà tốt nghiệp dương cầm, bèn bảo bà đánh đàn cho nghe. Ngồi trước phím đàn, bà e lệ hỏi:

-Thưa ba mẹ muốn con đàn bài gì?

Bà mẹ chồng âu yếm bảo:

-Con đàn sáu câu vọng cổ cho ba mẹ nghe.

Bà đã khóc thầm, trong bụng thấy tủi, vì công phu mình học thật quá thừa để đàn 6 câu vọng cổ đơn giản. Phải chi nói mình đàn sonate của Beethoven hay mazurkas của Chopin cho thỏa chí.

Qua những chuyện bà kể, qua đối thoại tâm tình của hai ông bà, tôi biết mối tình họ được xây đắp trong sự hài hòa, quên mình, lắng nghe nguyện vọng của nhau để đem lại niềm vui cho người mình yêu. Tôi biết được Paris có sông Seine chảy về hướng Tây (nước ta phần lớn sông đều chảy về Đông) và chia Paris thành hai phần Nam (tả ngạn), Bắc (hữu ngạn). Trung tâm thành phố là nhà thờ Notre Dame nằm trên cù lao giữa dòng sông Seine. Từ trung tâm ấy, Montmartre với đền thờ Sacré Coeur ở hướng Bắc. Hướng Nam là Montparnasse. Quảng trường Bastille ỏ hướng Đông. Tháp Eiffel cao vọi ở hướng Tây. Vì những cuộc hẹn hò trên các nẻo đường Paris, mà họ thuộc thành phố rộng lớn nầy như trong lòng bàn tay, chỗ nào có cà-phê ngon, chỗ nào có tiệm ăn Việt Nam, tiệm Mandarin bán tới con vịt số mấy. Họ tìm kỷ niệm nhiệt đới ở đường Cherche Midi. Họ đi trên “bâteau mouche” để nhớ lại kỷ niệm chuyến đi trước. Họ lang thang trên những nẻo đường ngoại ô, tay cầm tay, nói không bao giờ hết chuyện như: -“trời hôm nay đẹp”õ, -“ừ, trời hôm nay đẹp thật” –“anh có nhớ mình quen nhau lúc nào?”, -“Em có biết tối qua, nhớ em không ngủ được” v.v…

Ông Chánh Bích có một thuyền gỗ dài độ 10m. Giữa thuyền là một căn nhà nhỏ 3m X 4m có mái lợp cót che mưa nắng, có cửa sổ treo rèm hai bên, có cửa ra vào, đằng lái và đằng mũi. Trong nhà nhỏ có một bộ bàn ghế tiếp khách. Thời trước ông hay đi lại trên Lại giang, hoặc tiếp đãi bạn bè trên thuyền nầy. Nhưng từ ngày Cách mạng Mùa Thu, ông biết chính quyền không ưa gì lối sống tư sản, nên ông không dùng thuyền nữa, mà chỉ cho mượn đãi khách. Ông bà BS Hoa đã mượn thuyền để thưởng thức vẻ đẹp đêm trăng trên Lại giang, nhân kỷ niệm 10 năm thành hôn. Vì biết chèo thuyền nên tôi được tháp tùng hai ông bà. Hôm ấy cũng có BS Đồi, đi xe đạp trên 100km, từ Quảng ngãi vào thăm. Chúng tôi 4 người, đợi hoàng hôn xuống, mới rời nhà ra bến xưởng giấy, mang theo đèn cầy, trà, bếp cồn cùng đồ ăn. Trăng rằm đã lên ở chân trời, tròn, sáng. Hàng dừa hai bên bờ sông, lá đung đưa theo gió, lấp lánh ánh trăng. Mặt nước phẳng lặng in trăng xuống đáy, lan tỏa những vòng vàng rực.

Chúng tôi xuống thuyền. Tôi mở dây buộc thuyền và ra sau lái khua chèo, nhẹ nhàng đẩy thuyền ra giữa sông. Đến nơi tôi thả neo, giữ thuyền đứng yên một chỗ. Tôi giúp khiêng bàn ra đằng mũi, chúng tôi ngồi vào bàn, im lặng ngắm vẻ đẹp chung quanh: Bầu trời có ít vẩn mây, sâu thẳm. Trăng lên cao một ngọn sào trên chóp hàng dừa, tỏa ánh sáng bàng bạc trên sông. Dàn xe gió lấp lánh dưới trăng, nước đổ ra trên máng xối như những dòng bạc sáng lung linh. Tiếng nước đổ rào rào, tiếng trục xe gió mài trên đà nâng, rên rỉ kéo dài nghe thật buồn. Tình tự xa quê nhà vì tản cư, nỗi khổ chiến tranh, làm chùng lòng mọi người. Bà BS Hoa lên tiếng trước phá tan im lặng: “Tôi vào trong pha trà, nấu chè và sửa soạn thức ăn.” Tôi vào giúp bà và để hai bác sĩ ngồi tâm sự với nhau. BS Đồi có mang theo một hộp phó mát Canembert và hai ổ bánh mì dài. Ông có người bà con, là gián điệp nhị trùng, đã lén mang những thức ấy từ Đà Nẵng vào cho ông. Vì muốn chia với bạn thân, ông phải giấu của “quốc cấm” ấy vào xách tay, và lặn lội đường xa. Tối hôm ấy, sau khi chúc vợ chồng BS Hoa tràn đầy hạnh phúc, chúng tôi bắt đầu ăn bánh mì với phó mát, mà gần 7 năm không được ăn, một món ăn không có gì đặc biệt ở Paris hoặc Đà Nẵng, song trong hoàn cảnh tản cư hiện tại, quả là ngon tuyệt, mặc dù bánh mì đã lâu ngày, không còn giòn và ngọt. Hai ông bác sĩ còn uống thêm rượu đế, để giải sầu. Sau đó tráng miệng với chè đậu xanh đánh, mùi vị rất ngon, mà bà BS Hoa đã nấu từ chiều với một “recette” đặc biệt. Cuối cùng là uống trà Bắc Thái, mà một cán bộ miền Bắc vào, tạ ơn BS Hoa đã chữa trị cho anh ta bệnh sốt rét. Trà ngon thơm, và làm mọi người tỉnh ngủ. Hai bác sĩ, ngồi giữa sông, không sợ tai vách, mạch rừng, đã phê bình những mưu toan UBKCMN che đậy dã tâm xích hóa cuộc kháng chiến, dành công đầu cho đảng Lao động, một đảng Cộng sản trá hình. Sự bất mãn của họ giải nghĩa vì sao họ trốn về thành, chừng sáu tháng sau cuộc gặp gỡ trên. Trăng đã xế về Tây lạnh lùng, xa vắng. Chúng tôi đi nghỉ. Hai vợ chồng BS Hoa trải chiếu nằm trong phòng nhỏ. Tôi và BS Đồi nằm dưới trăng ở mũi thuyền. Vì uống trà, tôi trằn trọc, khó ngủ, và nghe vợ chồng BS Hoa to nhỏ, âu yếm. Đến gần sáng thì tôi chợp mắt ngủ.

Cũng nhờ có tiền, ông bà BS Hoa đã móc nối với ngư dân ở Tam Quan. Một ngày cuối tuần họ giả đi tắm biển. Trong đêm tối họ xuống thuyền buồm, ra khơi. Chuyến đi trót lọt, và hai ngày sau họ đã về đến bãi biển Sơn Chà. Trình diện với cơ quan an ninh thành phố xong, ông bà được bạn bè cũ đến bảo lãnh. Vì ngôi nhà cũ bị lính Pháp trấn đóng, ông bà phải lang thang sống nhờ người quen, đồng thời mướn luật sư, tìm cách lấy lại tài sản cũ. Lúc ra đi tản cư vội vã, không mang theo giấy tờ sở hữu nhà đất. Giấy tờ của sở nhà đất chính phủ cũng bị cháy rụi, lúc giao tranh trong thành phố. Các nhà cho thuê nay có chủ mới. Riêng những tàu buôn thì phần bị phá hoại, lúc Pháp tái chiếm cảng Đà Nẵng, phần bị trôi dạt mất tăm. Tài sản bên bà BS Hoa ở Sài gòn lại càng khó thu hồi lại được, vì không tìm lại được gia nhân cũ, và những chứng từ sở hữu. Vì cứ đinh ninh sẽ trở về lối sống nhàn nhã trước kia, hai ông bà theo đuổi kiện tụng, cả ở Sài gòn và Đà Nẵng. Rốt cuộc chỉ đòi lại được hai căn nhà nhỏ, nhưng phải bán đi để lo luật sư. Thế là phải lang thang sống nhờ bạn bè. Nhưng tình bác ái lâu ngày rồi cũng mệt mỏi. Bạn bè xa lánh, và có người nói xúc phạm. Hai ông bà thấy tủi nhục, ôm nhau khóc lóc cho tình đời đen bạc. Ông bà bàn định sẽ cùng nhau tự tử. Thuốc ngủ đã mua hai liều mạnh. Trong tuyệt vọng não nề, bỗng ông sực tỉnh:

-“A quên mình còn cái bằng Bác sĩ.”

Thế là hai ông bà đứng lên, hăng hái kiến tạo cuộc đời mới. Họ vay mượn bạn bè ít vốn để mở phòng mạch. Ba năm sau họ đã trang trải được nợ nần, mua xe, mua nhà, có đời sống ổn định và tìm lại hạnh phúc ngày xưa. Gia đình có thêm hai đứa con, một trai, một gái. Ông không quên mua cho bà một đàn dương cầm mới. Trong nhà lại dập dìu tiếng nhạc rộn vui, thanh thản. Thời đệ nhất Cộng hòa ông làm ty trưởng y tế Đà Nẵng, đồng thời là giám đốc bệnh viện thành phố. Khi Mỹ ồ ạt đổ quân vào Việt Nam và leo thang chiến tranh, có những đoàn văn nghệ từ Mỹ sang, đi khắp chiến trường, biểu diễn cho lính Mỹ xem, để nâng cao tinh thần chiến đấu của họ. Có một đoàn văn nghệ biểu diễn quanh Đà Nẵng trong nhiều tháng, trong ấy có một nhạc sĩ dương cầm Mỹ trẻ, tên gọi là Bill, tốt nghiệp âm nhạc viện Nữu Ước. Anh chỉ là Trung sĩ, chắc là để thi hành nghĩa vụ quân sự. Đoàn văn nghệ ấy, gồm nhiều ca sĩ nổi danh, có lần giúp vui cho bệnh nhân Bệnh viện Đà Nẵng trong dịp Giáng sinh. Phần lớn họ hát các bài thánh ca như Jingle Bell, Silent Night, v.v… Cảm động nhất là các ca sĩ ngoại đã hát những bài thánh ca Việt như bản “Đêm đông” của nhạc sĩ Hải Linh. Bill và bà Băng Tuyết đệm đàn, rồi không biết vì sao, hai người lại cho hội trường thưởng thức độc tấu dương cầm , bà với bản Rhapsodie Hongroise của Litz, Bill với bản Lieder của Brahms. Họ âm thầm so tài và mọi người đều bị lôi cuốn bởi dòng nhạc êm ái, điêu luyện. Sau đêm biểu diễn ông bà BS Hoa mời Bill đến tư gia ăn những món đặc sản Việt. Bà Tuyết và Bill lại có dịp bàn luận về âm nhạc. Bill xuất thân gia đình vọng tộc, nói tiếng Pháp thạo, vì đã từng qua Paris học hỏi dương cầm. Chàng lại đẹp trai, khiêm nhường, ăn nói có duyên và nhiệt tình. Bà Tuyết được trời ưu đãi, trẻ lâu, lúc ấy tuy gần 40, song da dẻ vẫn mịn màng, đẹp mà không cần son phấn. Hai người phục tài nhau, và cùng một mê say: nhạc dương cầm cổ điển. Từ đó, Bill thường đến nhà bà Tuyết và hai tâm hồn đa cảm làm giàu cho nhau bằng những khám phá lý thú bên đàn dương cầm, thâm nhập vào sự tinh anh, tài ba, xuất thần của các nhạc sĩ thiên tài.

Sở dĩ tôi biết được các chi tiết trên về gia đình BS Hoa vì sau khi ông bà về thành, gia đình tôi cũng hồi cư về làng cũ. Tôi ra Huế tiếp tục học, rồi vào trường Y Sài gòn. Khi đi học cũng như khi ra trường, tôi vẫn thường xuyên đến thăm ông bà. Lúc về Tổng Y Viện Duy Tân, cuối tuần tôi thường chơi mạt chược ở tư thất ông bà. Kết thúc bi thảm sau đây tôi đã cố tìm hiểu, và cho đến nay nghĩ đến tôi vẫn còn bàng hoàng:

Sự đi lại thân thiết giữa bà Tuyết và Bill đi vào một ngã rẽ định mệnh. Không hề nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, bỗng một hôm, sau một ca mổ căn thẳng, BS Hoa đột nhiên muốn về nhà nghỉ ngơi. Mở khóa vào nhà, phòng khách không có ai, trong nhà im ắng. Ông đoán là vợ đi phố và các con đều đến trường. Ông lặng lẽ đi vào phòng ngủ và thấy Bill ôm vợ mình, hai người say sưa trong giấc ngủ. Ông choáng váng, lặng người, song cũng vẫn bình tĩnh, không làm ồn ào. Khóa cửa nhà lại như cũ, ông trở lại nhà thương làm việc. Chiều đến ông về nhà, xem như không có gì xảy ra. Trong bữa ăn tối ông vẫn vui vẻ trò chuyện với vợ và con. Nhưng tối đó ông không vào phòng ngủ như thường lệ. Bà Tuyết có trực giác là có điều gì nghiêm trọng. Bà trăn trở, và cuối cùng ra phòng làm việc của chồng. Đèn vẫn sáng. Đồng hồ phòng khách ngân nga điểm hai giờ. Chồng bà gục đầu trên bàn viết, thân thể bất động, chùng xuống trên ghế bành rộng. Hai cánh tay xoải trên bàn, đè một lá thư. Như cái máy, bà rút lá thư xem:

“Em thân yêu. Em hãy xem cái chết của anh như một tai nạn xuất huyết não cấp tính, và làm ma chay bình thường, để khỏi gây những lời dị nghị, có hại cho em và cho con cái chúng ta. Anh vẫn yêu em như thuở ban đầu, và cầu mong em thanh thản, yên vui trong hạnh phúc mới. Riêng anh đã ích kỷ chọn sự yên lặng của nấm mồ.”

Trong hốt hoảng bà điện thoại cho tôi đến gấp. Năm phút sau tôi đã có mặt ở nhà bà. Khám xác và nhìn lọ thuốc ngủ trên bàn, tôi biết BS Hoa đã dùng một liều cực mạnh, và đã tắt thở từ lâu. Thể theo lời người quá cố, tôi đứng ra lo việc ma chay long trọng, mà hầu hết những nhân vật tai mắt của thị xã đều đến phúng điếu, song không mảy may hay biết sự tình, chỉ thương tiếc BS Hoa đã sớm ra đi vì bạo bệnh.

Chừng ba tháng sau tang lễ, bà BS Hoa xuống tóc, vào tu ở một ngôi chùa gần nhà. Bà từ biệt thế giới dương cầm, âm nhạc. Bà buộc vợ chồng tôi dọn về ở nhà bà, tiếp tục coi sóc phòng mạch của chồng bà, và theo dõi hai con bà nay đã vào Đại học ở Sài gòn.

Vì sao BS Hoa đã chọn cái chết? Có lẽ vì quen sống trong tiện nghi, cuộc đời không có những thử thách, lao đao, nên sự thích nghi, đối đầu với biến cố rất yếu. Ông đã có một tình yêu lớn, ông trân quý, xây đắp, và là nơi trú ẩn an toàn cho ông . Ông đã tìm thấy ở đó hạnh phúc lớn nhất của mình. Nhưng biến cố xảy đến, làm cho lâu đài tình ái của ông sụp đổ tan tành. Những điều đẹp đẽ ông trân quý trở nên xấu xa, đen tối không phương cứu vãn. Ông thất vọng não nề. Ông quan niệm cuộc đời quá đẹp. Ông không chấp nhận sự yếu đuối, bội phản. Thật ra vợ ông chỉ là yếu đuối, mà không bội phản. Thiên chúa Giáo khác Phật Giáo ở điểm căn bản. Phật giáo hoàn toàn đặt sự giải thoát khỏi thất tình, lục dục bằng sự tự chủ bản thân, nghĩa là chỉ ta cứu lấy ta. Trái lại Chúa Jesus đã nói: “Linh hồn, thì siêu thoát, nhưng xác thịt yếu đuối.” Sai lầm là nhân bản (to err is human). Biết con người yếu đuối tội lỗi nên Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc nâng đỡ, và sẵn sàng thứ lỗi, khi con người biết hối lỗi và trở về với đường ngay, lẽ thẳng. Sự cứu rỗi con người không thể tự người làm được, mà phải nhờ vào sự cộng tác, dẫn dắt của Thượng Đế. Bởi người là người, không phải là thần thánh. Tự biết mình yếu đuối, và thấy sự yếu đuối của người khác là sự cao cả của con người. (la grandeur de l’homme est grande en ce qu’il se connait misérable, et aussi en ce qu’il a vu la misère d’autrui). BS Hoa phải rộng lượng thứ lỗi cho sự yếu đuối của vợ. Sự im lặng của ông thật đáng ca ngợi, để tránh những đổ vỡ to lớn hơn nữa. Nhưng ông đã ích kỷ tìm sự im lặng của nấm mồ. Ông không biết như thế là làm tan nát tấm lòng yêu thương chân thật của vợ ông, và mối tình lớn mà hai người un đúc sẽ đứt đoạn. Ông phải chấp nhận đau thương, để tình yêu thêm sâu sắc và biết hy sinh hơn nữa. Ông đã làm vợ ông từ bỏ một sự phong phú, giàu có tâm hồn là âm nhạc, vì bà cho đam mê nầy là đầu mối của sự sa đọa.

Một tục ngữ Đức có nói:“Khi người ta đưa quỷ nắm ngón tay, nó sẽ chụp luôn cả cánh tay.” Một cách tránh xa quyến rũ tội lỗi, là đừng bao giờ thử xem một tí. Đây cũng là bài học quá muộn cho bà Tuyết. Trong thâm sâu tâm hồn, bà đau khổ biết bao, khi thấy chính lỗi lầm mình đã đưa chồng vào tuyệt vọng. Tôi thường hay đến chùa thăm bà và đàm đạo với bà về triết lý nhà Phật. Bà đã tìm lại được sự thanh thản tâm hồn ở cửa thiền, và sự tương thông với người chồng quá cố thân yêu. Bà tận tâm trong công việc từ thiện của Chùa. Nhưng điều làm tôi vui mừng nhất là bà đã cho mang đàn dương cầm của bà vào chùa. Bà đã trở lại với âm nhạc để tìm lại sự an bình mới. Bà đã sáng tác nhiều ca khúc thâm trầm siêu thoát, mà mỗi khi tôi vào thăm, bà đàn cho tôi nghe. Đó là những truyền cảm linh thiêng của người mẹ thứ hai trong đời tôi. Tôi ra về với tâm hồn thơ thới và những quyết tâm mới. Tôi đã cùng nhà chùa tổ chức các buổi trình diễn dương cầm của bà cho mục đích từ thiện. Chắc nhiều thính giả lúc ra về cũng thấy cõi lòng hân hoan thơ thới, ít nhất là vì dư âm của những dòng nhạc bất tận, huyễn hoặc, thâm trầm, và cũng có những tâm hồn đồng điệu nhập vào sự huyền nhiệm của tình yêu, sự sống và tài ba, qua sự sắp xếp thần kỳ của tiết tấu và âm thanh, thoát ra dưới ngón tay huyền diệu của ni-cô Băng Tuyết.

Riêng với Bill, tôi đã báo tin cho anh ta về cái chết của BS Hoa. Anh ta có gửi vòng hoa phúng điếu, và không dự đám tang theo lời khuyên của tôi. Sự có mặt một ngoại nhân có thể gây dị nghị. Thư anh gửi cho bà Tuyết sau đó, tôi đã hủy đi hết và dặn anh nên chỉ liên lạc với tôi. Anh có trao đổi với tôi nhiều ý kiến hay. Anh nói là những năm cuối trung học Loyola, tại thị trấn quê anh, do các linh mục dòng Tên (jesuites) cai quản, anh đã học qua nhiều khóa giáo lý. Khi nói đến hôn nhân, các linh mục giảng dạy nhấn mạnh, là phải giữ thanh khiết trước ngày thành hôn. Ở Mỹ hiện nay trong các trường trung học, có những hội đoàn thanh niên nam nữ, thệ giữ đồng trinh (virgin) trước khi lập gia đình. Giáo lý đưa ra nguyên tắc là không được tách rời tình yêu ra khỏi nhục dục (sex). Chỉ tìm thú vui xác thịt là tội lỗi. Anh nói:

-“Tôi đã xem thường điều giảng dạy trên, và hậu quả là đổ vỡ và hối tiếc không nguôi. Trong 10 giới răn mà Moise nhận lãnh từ Thượng Đế có điều: chớ lấy vợ chồng người. Tôi đã phạm tội trọng (péché mortel)”

Sau nầy khi tôi qua Mỹ, tôi có đến nhà anh chơi. Anh đã 60 tuổi. Anh kể là sau khi giải ngũ, anh trở về dạy âm nhạc tại trường trung học Loyola, ở Wichita, quê anh. Anh đổi qua chơi phong cầm cho các nhà thờ. Anh rất mộ đạo và đã yên vui xây dựng gia đình gương mẫu trong giáo xứ. Anh khoe với tôi, các con và cháu của anh đều là hội viên hội “Thệ giữ đồng trinh trước ngày thành hôn.” Trên góc bàn thờ Chúa trong nhà có để ảnh bà Tuyết ngồi trước dương cầm lúc ở Đà Nẵng. “Như thế để nhắc nhở gia đình tôi cầu nguyện cho bà”, anh nói. Trầm ngâm giây lát anh thêm: “Những tình cảm sôi nổi, những thị hiếu nhất thời, những say mê của trào lưu mới, những thú vui thân xác, theo thời gian sẽ qua đi, nhưng đạo đức, luân lý, bổn phận, trách nhiệm, tự chế, khắc kỷ, là trường cửu, và là những yếu tố tạo nên giá trị của con người.

Khánh Giao BS Phùng văn Hạnh

From: KimTrong Lam

CÁM ƠN CUỘC SỐNG

    CÁM  ƠN  CUỘC  SỐNG

Tác giả:  BS Phùng văn Hạnh

Nếu khó ngủ, bạn nên nghĩ đén

kẻ không  nhà, không nệm, không chăn

Găp tồi tệ nơi việc làm

nghĩ kẻ thất nghiệp, lo toan đêm ngày

Quan hệ bạn xấu đi, chán nãn

Hãy nghĩ kẻ không bạn, cô đơn

Buồn phiền, vô vị cuối tuần

Nghĩ nàng quần quật, lo ăn cả nhà

Hư xe đi bộ xa, mỏi mệt

Hãy nghĩ kẻ tê liệt đôi chân

Nhiều mất mát, lắm băn khoăn

cám ơn cuộc sống trui rèn thân tâm

Nghĩ đên kẻ không làm nên chuyện

để tuổi trẻ bình lặng trôi qua

không  trải nghiệm, phí tài hoa

Nếu đời đem lại xót xa đau buồn,

nạn nhân  những ghen tuông, đố kỵ

của những kẻ cạn nghĩ, nhỏ nhen 

Bạn tự an ủi nghĩ rằng

lắm chuyện tệ hại gấp trăm trên đời

Bạn hãy nhớ chuyển lời nhắn nhũ

đến người bạn ấp ủ, mến yêu

Lời khuyên sẽ giúp họ nhiều

để lòng thanh thản, phiêu diêu thoát trần

 

NẾU KHÔNG CÓ TÌNH YÊU

Trách nhiệm không có tình yêu

hành xử bất nhã, gây nhiều tổn thương

Công bằng mà lại không bác ái

hóa tàn nhẫn, gây hại mục tiêu

Ngôn luận không có tình yêu

hóa ra xoi mói, đặt điều, ghét ganh

Hiểu biết sẽ biến anh láu cá

nếu chủ đích không có tình yêu

Đon đả mời đón có chiều

giả dối, nếu vắng tình yêu mặn nồng

Tình yêu không đi cùng học tập

bạn sẽ thành cố chấp, hẹp hòi

Quyền lực hóa áp bức thôi

nếu yêu thương vắng tim người quyền năng

Không tình yêu biến anh kiêu ngạo

khi danh tiếng đang thổi anh lên

Anh sẽ tham lam, ham tiền,

nếu yêu thương không đi kèm giàu sang

Lòng tin sẽ biến thành cuồng tín

nếu yêu thương không chiếm cõi lòng

Nói chung đời không yêu thương

Bạn chỉ sẽ là số không khổng lồ

BS Phùng văn Hạnh

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:

“Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?”

Người thanh niên xấc xược trả lời:

“Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi Ông sẽ thấy rằng những gì Ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:

“Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?”

Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời:

“Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”

Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi:

Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris.

Scientific Identity, Portrait of Louis Pasteur

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – 

Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

 Trên tuyến xe lửa đi Ba Lê

có sinh viên ngồi bên cụ già

cụ lấy ra, khi tàu chuyển bánh

cổ tràng hạt chìm đắm nguyện cầu

Sinh viên quan sát cụ già

cử chỉ bực bội, xoay qua, xoay về

Sau một hồi, im re không nổi

anh mạnh dạn gặn hỏi cụ già:

“-Thưa ông sao còn thiết tha

“tin chuyện nhảm nhí, nguyện cầu đọc kinh?

Cụ thản nhiên: -“tôi tin cầu nguyện”

“còn anh không tin chuyện tôi làm?”

Sinh viên xấc xược nói :- “vâng

“tôi tin lúc bé, nhưng sang trang rồi

“khoa học mở mắt tôi nhìn thấy

“chuyện nguyện cầu nhảm nhí ngày xưa

“Khám phá khoa học dẫn đưa

“cho thấy tôn giáo phỉnh lừa dân gian

“Ông sẽ thấy rõ ràng chứng cớ”

Cụ già liền nói nhỏ nhẹ rằng:

-“Khám phá khoa học mà anh

“vừa nói đến tôi rất cần biết qua

“để tôi hiểu đâu là sự thật”

Sinh viên liền thân mật trả lời:

-“Ông viết địa chỉ cho tôi

“ tôi sẽ gửi sách sáng soi vấn đề

“rồi ông sẽ say mê tìm được

“thế gìới của khoa học văn minh”

Cụ già rút danh thiếp mình

từ tốn trao cho anh sinh viên nầy

Đọc danh thiếp tía tai, anh lủi

Qua toa khác vì bởi thiệp danh

ghi: Louis Pasteur rành rành

Viện nghiên cứu khoa học thành Ba-Lê

BS Phùng Văn Hạnh cảm tác

CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Ở Colombie có cô học sinh

Nhà trường cho quyển Thánh Kinh dặn rằng

Mỗi ngày nhớ đọc siêng năng

Và cô thích thú chuyên cần sớm trưa

Nhưng cha cô bất ngờ thấy được

Bảo con rằng : ‘’chớ đọc sách nầy

Dạy điều gian dối trái sai”

Khuyên con nghe lấy lời cha dặn dò’’

Tuần sau cũng bất ngờ ông thấy

Con gái đoc mê mãi Phúc âm

Muốn con từ bỏ quyết tâm

Ông tịch thu sách, nhẹ nhàng trách con

rồi nhét sách vào trong túi áo.

Ông lên xe đến sở mỏ than

Ngày ấy ông phải xuống hầm

Kiểm tra khai thác ở tầng dưới sâu

Một giờ sau bỗng đâu báo động

Hơi than nổ chôn sống công nhân

Cứu cấp gặp phải khó khăn

5 ngày sau mới đến tầng hầm sâu

Nhưng đã trễ, thương đau đến trước

31 người chết ngột thảm thay

Ông kỷ sư cầm trong tay

Quyển thánh kinh ông lấy ngày ra đi

Cuối sách ông có ghi hàng chữ:

“Con ơi hãy gìn giữ sách nầy

Những lời dạy dỗ trong đây

Sự thật vĩnh cửu tràn đầy yêu thương

Cha tìm lại Thiên đường đánh mất

Vì đam mê vật chất, kiêu căng

Trước mặt Thiên Chúa từ nhân

Cha đã sám hối ăn năn thật lòng.

Con nhớ đọc những dòng cha viết

Và không ngừng đọc tiếp Phúc âm

Lạ thay 30 công nhân

Cùng ký vào sách tâm thành tuyên xưng:

Thánh kinh là tin mừng mạc khải

Vì yêu thương nhân loại lạc loài

Thượng đế xuống thế làm người

Nối kết giao hảo giữa Trời, thế gian

Trong ta Chúa ẩn tàng cùng sống

Dìu đắt ta vào chốn vĩnh hằng

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở trong nhà chăn ấm nệm êm sẽ chẳng bao giờ thấy được cảnh nghèo người khổ quanh ta. Cứ bước chân ra đường, ta sẽ bắt gặp biết bao nhiêu hình ảnh của những người nghèo.

Người nghèo đó chẳng phải là ai xa lạ. Người nghèo đó có thể là chính người thân ruột thịt của ta, người bà con của ta, người hàng xóm của ta và ắt hẳn họ cùng dòng máu đỏ da vàng của ta.

Nơi chốn đô thị ồn ào và sầm uất, ta ít nhận ra những người nghèo bởi lẽ ra đường nơi phố thị ai cũng mặc đẹp, đi xe sang và làm những công việc mang tính đầu óc, trí tuệ. Có chăng ta bắt gặp được số ít người bán vé số, bán hàng rong … Họ là ai ? Họ là những người xa quê, họ là những người phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để tìm về những đô thị lớn để sống phận “di dân”.

Cũng không khó hiểu lắm khi những thành phố lớn, đặc biệt là Thủ Đô và Sài Thành phải đón nhận số lượng di dân đến mức báo động. Vì sao họ phải bỏ quê để đi lên thành thị sống ? Bởi lẽ họ không còn cách nào khác để tìm kế sinh nhai.

Thời gian không dài nhưng cũng không quá ngắn để sống ở vùng Phú Thọ – Hưng Hóa còn in đậm trong trí của tôi khi dân ở đó không tìm ra đâu công ăn việc làm. Một số người lên rừng để cạo dầu chai. Công việc phải thức thật sớm bởi lẽ khi nắng lên thì không làm được nữa. Nhìn những bàn tay nứt nẻ vì bị dầu chai ăn khi họ lên chịu Lễ mà nhói lòng.

Hỏi ra thì thu nhập của họ đổi ra không đủ mua được một đô la.

Những người có hoàn cảnh thì đành phải ở lại nhà quê để sống với mức sống như thế. Những người khá hơn thì họ tìm cách để thoát khỏi quê nghèo tìm hướng sống. Cái nghèo đã bám víu mảnh đất Phù Lao – Phú Thọ – Hưng Hóa này.

Mới đây, trên quãng đường ngắn từ Huế ra La Vang, tôi lại chứng kiến hình ảnh của những con người nghèo. Những ngày mưa phụn lạnh giá nhưng người làm nông ở vùng này phải tìm cách quấn áo mưa hay những mảnh ni-lông tự chế sao cho ấm người để kịp ra đồng cày cấy. Không còn cách nào khác họ phải dầm sương như thế để kiếm sống qua ngày. Cái nghèo như ôm chầm cuộc đời của họ.

Nhìn thoáng qua với những tòa nhà cao ngất, với những chiếc xế hộp trị giá đến chục tỷ chạy bon bon trên đường và những nhà hàng cửa hiệu lộng lẫy thì thấy vui với một đất nước đang trên đà phát triển. Đúng thật là phát triển nhưng khi nhìn lại những con số thống kê thì thật đau lòng và choáng !

Cuối năm 2013 này, GDP bình quân đầu người tính bằng USD ước đạt 1.900 USD.

Nhìn con số này, thoạt tiên là mừng vì thấy thu nhập đầu người bình quân đến cả ngàn đô la. Thế nhưng, một sự thật phủ phàng và đau đớn là hiện nay ở Việt Nam có tới 17 triệu lao động vẫn nằm ở mức thu nhập dưới cận nghèo và chỉ đạt chưa đến 2 USD/ngày.

Đang khi đó thì Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra mục tiêu GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đến năm 2015 đạt 2.000 USD.

Với những thành quả như thế, dĩ nhiên người ta hết sức lạc quan khi dự đoán rằng mục tiêu này dễ đạt vì lẽ GDP bình quân đầu người tính bằng USD trong năm 2013 đang tiến tới mốc 1.900 USD.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ngày 12/12 cho biết, hiện còn khoảng 17 triệu lao động Việt Nam có thu nhập quá thấp, không vượt lên trên chuẩn nghèo 2 USD/ngày (khoảng hơn 40 ngàn đồng/ngày).

Dân số Việt Nam như hiện nay, có khoảng 23 triệu người khác đang sống mấp mé trên ngưỡng chuẩn nghèo và rất dễ tái nghèo khi xảy ra khủng hoảng kinh tế.

Nhìn thấy con số biết nói 40 ngàn đồng thu nhập của mỗi ngày, chẳng lẽ ta không quặn lòng sao ?

40 ngàn đồng, ở mảnh đất Sài Thành, chắc có lẽ được 1 tô phở Anh ở đường Kỳ Đồng. Ở những tiệm khác có thể giá còn cao hơn nữa chứ không dừng lại ở cái giá 40 ngàn.

40 ngàn đồng hiện nay làm được gì ? Và con số những người thu nhập như thế này không chỉ ở con số một vài hay chục nhưng lên đến 23 triệu người nghèo.

Mỗi ngày, người dân kiếm được thu nhập như thế thì thử hỏi đời sống của họ sẽ như thế nào và đi về đâu. Ăn không đủ ăn nữa chứ đừng nói gì đến mặc, học hành, y tế … Có nằm mơ chắc họ cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện giải trí.

Nhìn vào cuộc sống, khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách biệt rõ nét.

Có những ngôi biệt thự giá từ chục tỷ đến hàng trăm tỷ.

Có những chiếc xe sang từ vài tỷ đến chục tỷ.

Và, có những người chỉ mơ có cuộc sống bình dị với mức thu nhập đủ sống nhưng nào giấc mơ đó có thực.

Không phủ nhận chuyện đất nước phát triển nhưng số người nghèo và quá nghèo sao còn nhiều quá. Làm sao cho họ có lối thoát để họ sống đúng mức là một người bình thường đây ?

Những ngày cận Tết đang đến. Có những gia đình đang, đã và sẽ tìm cho mình những kỳ nghỉ xa và dài, thậm chí ở ngoài nước nhưng ngược lại cũng còn đó nhiều và rất nhiều gia đình đang chạy ăn từng bữa và lo lắng cho cuộc sống.

Và, hình ảnh những người xa quê lại phải lao đao vất vả cho hành trình về thăm quê lại hiện ra. Người xa quê có tiền về thăm quê cũng là diễm phúc bởi lẽ có nhiều người ngậm ngùi ở lại đất khách vì không đủ khả năng về quê.

Hình ảnh của những người nghèo, những người di dân xa quê lại cứ hiện về rõ nét hơn trong những ngày tháng cuối năm.

Làm sao cho họ thoát nghèo, làm sao cho họ được sống với mức sống bình quân với tư cách là người hơn đây ?

Anmai, CSsR

MẠNH SỨC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NƯỚC TRỜI

MẠNH SỨC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NƯỚC TRỜI

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Is 35, 1-6a.10; Gc 5, 7-10; Mt 11, 2-11

Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí cầu khẩn “ơn trên” để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui khôn tả được bày tỏ.

Trong tâm tình chờ đợi mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa :

Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,

vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,

hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,

và hân hoan múa nhảy reo hò.

Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,

vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.

Niềm vui mà Isaia nói đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính – Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa.

Isaia nói tiếp :

Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa,

và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.

Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,

cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.

Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!

Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,

ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.

Chính Người sẽ đến cứu anh em.”

Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.

Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,

miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.

Vì có nước vọt lên trong sa mạc,

khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.

Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về,

tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,

mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.

Họ sẽ được hớn hở tươi cười,

đau khổ và khóc than sẽ biến mất.

Cũng dễ hiểu niềm vui mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế, niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.

Và, như Gioan đã loan báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.

Đấng Cứu Độ trần gian đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay : “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.

Trong chờ đợi, có những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn trong thư của Ngài : “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa”.

Phận con người mỏng dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.

Thật sự thì Chúa đã đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ “công lực” để đón Chúa nữa.

Cuộc sống, nhất là ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.

Gioan Tẩy Giả cũng là người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém đầu.

Cuộc chiến đấu mà Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.

Ngày mỗi ngày, chúng ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và lời Chúa mời gọi.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

TẬT THƯƠNG NGUYỀN

TẬT THƯƠNG NGUYỀN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Lâu ngày anh em mới có dịp gặp nhau hàn huyên tâm sự. Đang miên man kể về công việc, Anh chợt nhớ ra câu chuyện vừa xảy ra và Anh kể luôn. Câu chuyện mà Anh kể câu chuyện nóng hổi Anh vừa gặp hôm qua. Không chỉ là gặp nhưng Anh cũng là người dính dự trong câu chuyện mà Anh muốn kể.

Chuyện là có một em sinh viên nghèo mắc bệnh tim nhờ Anh trợ giúp để kiểm tra về tim mạch. Biết là ngày thứ Hai thường bận rộn nên Anh nói với bên kia điện thoại rằng đi khám sao cũng giúp được nhưng tránh ngày thứ Hai vì thứ Hai đầu tuần bận lắm. Lát sau, bên kia báo lại là bệnh nhân chỉ được nghỉ học ngày thứ Hai thôi và không dám phiền Anh để bệnh nhân tự đi. Anh nghe xong áy náy làm sao đó và Anh vẫn hẹn đển giúp cho bệnh nhân khám vào sáng thứ Hai.

Sáng thứ Hai đầu tuần, quả thật là công việc ngổn ngang tứ phía nhưng vì hẹn giúp nên Anh tranh thủ giúp. Anh kể lại là tối Chúa Nhật chỉ hẹn nhau qua điện thoại, sáng thứ Hai mới biết được cô bé hẹn trong điện thoại là người đưa đi chứ cô bé bệnh nhân là bé khác. Khi gặp, Anh nhận ra cô bé hẹn là cô bé bị tật nguyền ở chân, cô bé di chuyển một cách khó khăn chứ không như bao người bình thường khác.

Anh kể lại là khi nghe hẹn phải giúp vào sáng thứ Hai thì cũng hơi khó chịu một chút nhưng khi thấy cô bé đưa cô bé đi khám tim lại là cô bé tật nguyền nên sự khó chịu cũng qua đi. Thay vì khó chịu thì Anh cảm thấy vui vì làm được điều gì đó giúp cho người bệnh.

Vừa kể xong câu chuyện, điện thoại của Anh đổ chuông và Anh chào đi công việc vì có hẹn.

Anh dắt xe quay đi nhưng câu chuyện mà Anh kể còn ở lại.

Câu chuyện còn ở lại đó là hình ảnh của cô bé tật đưa cô bé nguyền đi khám bệnh. Như Anh chia sẻ, ban đầu Anh cũng ngại giúp vì là ngày đầu tuần nhưng khi tiếp xúc Anh cảm thấy vui vì Anh chia sẻ một chút gì đó cho bệnh nhân nghèo vùng đảo xa.

Quả thật hình ảnh của cô bé có tật ở chân thương cô bé mang chứng bệnh ở tim thật đẹp. Hình ảnh quá đẹp giữa chợ đời, giữa cuộc sống bon chen và đặc biệt ở cuộc sống mà người nghèo, người tật nguyền bị bỏ rơi, bị kỳ thị.

Nhìn người, nghĩ đến ta ! Cô bé có tật đã không quản ngại sự di chuyển thật khó khăn của mình để dìu bước một cô bé bệnh tim đi khám bệnh. Còn tôi, tôi may mắn hơn nhiều người, tôi may mắn hơn cô bé dị tật ở chân, tôi may mắn hơn cô bé bị bệnh tim kia nhưng liệu rằng tôi có mở lòng ra để chia sẻ hay tôi cứ mãi khư khư ôm vào.

Đến tối, giờ kinh được cất lên, một cha đứng cạnh tôi ghé tai nói nhỏ : “Nhìn hủ cốt kia mà chẳng muốn đọc kinh nữa ! Phận người là như thế ! Mới hôm nao đó còn sống, còn đầy những vinh hoa phú quý của cuộc đời nay chỉ nằm trong cái hủ !”. Nghe cha nói tôi mỉnh cười và ngẫm nghĩ : “Phận người sớm muộn gì cũng chỉ có thế thôi ! Cũng chỉ ở trong cái hủ con con bé bé đó thôi chứ có mang theo được gì sau khi chết”

Trước đó, buổi sáng khi đưa tiễn người cha thân yêu vừa qua đời tại trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Cách riêng, sáng nay khi đưa tiển một đoàn xe tang dài nối đuôi nhau chờ đến lượt xe mình chuyển quan tài người quá cố đi thiêu. Không hiểu lý do nào đó mà sao sáng nay đông quá để rồi dường như trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa như quá tải. Nhìn dòng người ngược xuôi sụt xùi sau khi tiễn đưa người thân của mình về với cát bụi.

Hình ảnh cô bé tật nguyền giúp bạn khám bệnh, hình ảnh của đoàn xe tang như muốn nói với tôi rằng hãy làm điều gì đó khi còn sống, khi còn thở và khi có thể được kẻo lỡ qua đi rồi ta không làm được gì nữa. Nhất là khi ta may mắn hơn người khác, ta được lành lặn, đầy đủ hơn người khác.

Nói như thế, nghĩ như thế nhưng trong thực tế vẫn là sự giằng co của kiếp người. Trong suy nghĩ, ta cũng muốn cho đi nhưng trong thực tế ta cứ muốn khư khư giữ chặt lấy những gì ta đang có. Thế nhưng thực tế hơn là khi ta nằm xuống ta chẳng còn gì và chẳng có gì để mang theo cả. Có chăng là thân phận mỏng dòn yếu đuối mong manh của phận người và nắm tro tàn còn lại.

Những dịp ra nghĩa trang, những dịp đến trung tâm hỏa táng, những dịp nhìn người này người kia biết sẻ chia trong hoàn cảnh khó khăn của họ cũng là những dịp nhắc nhớ về lối sống của ta. Hãy yêu thương, hãy chia sẻ cho người khác khi có dịp kẻo lỡ qua rồi ta muốn chia cũng không thể nào chia được.

Ta không bị tật, ta không bị nguyền, ta may mắn hơn nhiều người khác nhưng ta cứ khư khư giữ lấy và khép lòng lại thì quả thật : thật là chán cho lòng người của ta !

Anmai, CSsR

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

Anmai, CSsR

Thánh vịnh 24 được chọn làm Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ các Thánh Nam Nữ. Linh mục nhạc sĩ Phêrô Thành Tâm DCCT viết nhạc và lời của Thánh Vịnh này dựa trên ý của Thánh Vịnh thật hay :

Này là dòng dõi những người tìm Chúa,

đây là những người mong bệ kiến Ngài,

một đời lòng ngay không hề gian dối,

giữa bao hận thù luôn sống mến yêu

Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài

làm chủ địa cầu cùng toàn thể dân cư

còn nền trái trất Ngài dựng trên biển cả

và đặt vững vàng trên mặt nước bao la …

Dòng dõi những người tìm Chúa mà Thánh Vịnh mô tả sao mà hay quá ! Họ là những người cả cuộc đời đi tìm một mình Thiên Chúa là Chúa, là Cha, là Chủ cuộc đời của họ. Cha, Chúa, Chủ cuộc đời của họ là Tình Yêu và là Chân Lý. Nét đặc trưng hay nói đúng hơn là căn cốt của đời những người này là “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”.

Người ta vẫn thường ví von thế gian là cái thế giới mà đầy sự gian dối. Nói như thế cũng có cái lý của họ bởi lẽ giữa cái thế gian này, hình như nhìn đâu đâu cũng thấy sự gian dối, sự gian tà. Gian dối, gian tà đó xuất phát tự ma quỷ.

Thuở ban đầu, lòng con người đẹp tinh tuyền tựa đóa hoa tươi thắm mà Thiên Chúa dệt nên nhưng rồi theo thời gian và với thời gian lòng con người thay đổi bởi ma quỷ và đã chống lại Thiên Chúa. Chính sự gian tà đã làm thay đổi lòng người. Và, từ ngày đó, từ ngày mà Ađam – Eva phạm tội thì tội lỗi đã đi vào trong thế gian, sự gian dối đã đi vào trong cõi đất này. Cũng từ ngày đó, bóng tối tìm cách che lấp ánh sáng và sự hận thù muốn tiêu diệt tình yêu.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian như thánh Tông Đồ Gioan cảm nghiệm. Tình Yêu Thiên Chúa đã đến thế gian, Thần Chân Lý của Thiên Chúa cũng đã đến trong thế gian để gửi vào thế gian luồng gió mới của tình yêu, của sự thật.

Những người mà cả đời canh cánh đi tìm Thiên Chúa không đi con đường nào khác của con đường chân lý và con đường tình yêu. Những người đó như những người lội ngược dòng của thế giới, của xã hội, của con người trống vắng tình yêu Thiên Chúa và Chân Lý.

Tưởng chừng bóng tối, sự gian ác đè bẹp được ánh sáng và chân lý nhưng vẫn còn đó những con người, những tấm lòng can đảm và kiên trung để sống giữa thế gian này. Số người này không chỉ dừng lại ở một người, một nhóm người như các môn đệ tiên khởi hay của một dân tộc nào đó mà lan rộng khắp toàn cõi đất này. Sách Khải Huyền đã mô tả đoàn người đông đảo đó ở chương 7, câu 9 : “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”

Đoàn người đông vô kể mà sách Khải Huyền nói đó chính là những người đi tìm Con Chiên, đã theo Con Chiên, đã giặt áo mình trong máu của Con Chiên. Đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi đó là các thánh nam nữ của Thiên Chúa. Trong đoàn người đó có thể có ông bà cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Những người đó là những người hết sức bình thường nhưng đã sống cái bình thường đó gói gọn trong chân lý và tình yêu.

Nhìn lại một chút của cuộc đời các thánh, chúng ta thấy đậm nét của đoàn người đi tìm Chúa.

Một Stêphanô bị người ta ném đá nhưng đã ngước cao lên Trời và xin Chúa tha cho những người giết hại mình.

Một Maximilianô Kônbê đã can đảm chết thay cho người bạn tù của mình.

Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã yêu thương đến cùng trong hoàn cảnh cay nghiệt của người đời cách riêng qua những người sống chung với chị Thánh.

Một Têrêsa Calcutta đã bồng ẵm trên tay những con người nghèo, những con người bị đẩy ra ngoài lề của xã hội để chỉ mong cho họ chết với tư cách là người hơn mà thôi.

Và, một dòng dõi người đông đảo tử đạo trên mảnh đất hình chữ S thân thương này vẫn còn in dấu trong tâm thức của người dân Việt. Dòng người đông đảo này đã “hân hoan khi lao tù, mừng rỡ lúc gươm vung dù thịt tan xương nát” để minh chứng lòng tin và tình yêu của mình vào Thiên Chúa. Triều Thiên Vinh Hiển được gắn trên đầu những con người đã mến yêu trước đau khổ tột cùng của đòn roi, của gươm giáo, của máy chém, của thú dữ. Nếu như họ căm thù, họ oán hận chắc chắn họ sẽ không được triều thiên Tử Đạo mà Thiên Chúa ban cho họ.

Trong dòng người tử đạo đó, họ có khi là quan chức, có khi là thương gia nhưng cũng có khi họ là những người nông dân chân lấm tay bùn hay là những bà mẹ mỏng dòn và non yếu. Họ sống hết sức thường trong cuộc đời nhưng họ đã minh chứng sự thật, minh chứng tình yêu với Đấng mà họ tin theo. Họ là những người cũng mang trong mình cái phận người yếu đuối của mình nhưng khi minh chứng họ đã minh chứng bằng cả cuộc đời của họ, bằng chính thân xác của họ.

Cuộc đời vẫn là một cuộc giằng co giữa thiện và ác, dữ và lành, yêu và hận thù. Khi còn sống, còn thở ta luôn phải đấu tranh mãnh liệt giữa hai ranh giới đó. Không giản đơn để sống sự thật trước mặt nhan nhản những điều gian dối và cũng không đơn giản để sống yêu thương giữa một thế giới còn quá nhiều hận thù bất công.

Khi và chỉ khi sống chân thật và yêu thương như Thầy Chí Thánh thì mới được thừa hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thật khó để sống bởi lẽ khoảng cách giữa miệng đến tay tuy gần nhưng thật xa. Thật khó sống bởi lẽ khoảng cách giữa nói và làm là một khoảng cách coi chừng trở nên bất tận.

Chợt nhớ đến tâm tình của nhạc sĩ nào đó gởi đến trong tâm tình bài hát : Tình thương nhiệm mầu :

Xin cho con lòng mến thương để dù đời đắng cay trăm chiều,

cho con yêu một Chúa thôi, để đời sẽ hết nỗi đìu hiu.

Cho con mê say tình Ngài, để tình đời chẳng còn vương vấn.

Dâng mạng sống con cho Ngài, luôn sẵn sàng minh chứng cho tình yêu.

Yêu thương là thế đấy, tình yêu ôi đắm đuối nhiệm mầu.

Yêu con, chính vì yêu con, Chúa đã chết trên đồi vắng.

Con xin hy sinh cuộc tình nguyện theo tiếng Chúa mời gọi.

Dầu có lúc sầu héo hon, xin trung kiên theo Chúa suốt cuộc đời.

Vâng ! Tình yêu thật nhiệm mầu ! Nhiệm mầu hơn nữa đó là chính Tình Yêu chết cho người mình yêu mà người mình yêu là người tội lỗi.

Chỉ khi nào ta chận chân ra rằng ta tội lỗi mà ta được tha thứ, ta được yêu thương thì ta mới có thể tha thứ và yêu thương anh chị em thật lòng ta được.

Giữa những nổi trôi của cuộc đời, giữa một xã hội đầy gian ác và hận thù, chỉ xin Chúa nung nấu tình yêu thương và lòng mến trong lòng ta để ta luôn sống : “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”. Có như thế thì sau cõi đời này ta cũng có một chỗ trong hàng ngũ của dòng dõi những người tìm Chúa được.

Anmai, CSsR

CHẾT KHÔNG ĐỢI TUỔI

CHẾT KHÔNG ĐỢI TUỔI

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Đời người ! Nghĩ cũng lạ ! Có ngày bước vào trần đời ắt có ngày phải ra đi hay gọi là ngày chết. Ngày sinh ra, ngày bước vào đời có đó nhưng ngày chấm hết cuộc đời này không ai biết trước được. Chuyện sống chuyện chết là chuyện của Đấng tạo hóa, thụ tạo chỉ việc vui vẻ sống ngày nào hưởng ngày đó tùy vào đấng nhào nắn ra mình thôi.

Đứa trẻ con của hai vợ chồng thân quen được sinh ra, sống và lớn lên được 5 tuổi. Bỗng một ngày kia cháu sốt, nhập viện được vài tuần và cháu ra đi mãi mãi. Gia đình ngậm ngùi chào từ biệt em …

Người cha kể lại cho tôi hoàn cảnh bi đát của gia đình anh gặp phải đó là chuyện cô con gái 15 tuổi của gia đình. Bé đang đi học bình thường, bỗng dưng đến ngày kia bé sốt và đưa bé nhập viện. 2 tuần lễ chống chọi với cơn sốt và bé ra đi mãi mãi. Gia đình anh sốc đến cực độ nhưng rồi đúng 1 năm sau đó, Chúa lại ban cho anh chị một cháu nữa tạm gọi là thay vào nỗi đau cũng như trống vắng của gia đình.

Bé cháu ở nhà năm nay mới vừa bước vào cái tuổi thần tiên. Vì hoàn cảnh cha mẹ là nhà giáo, cháu cắm đầu cắm cổ học để cho mọi người khỏi cười chê. Ham học như thế, có những hôm chẳng nhớ là mình đã ăn chưa và mình đã đến giờ ngủ chưa … Và rồi những cơn đau đầu ập đến. Bé kể lại là cứ nghĩ là vì học nhiều nên đau đầu chứ cũng chẳng là gì đáng ngại để không cần phải đi kiểm tra sức khỏe. Cứ lướt qua, lướt qua và rồi một ngày kia đi bác sĩ kiểm tra thì kết quả thật đau lòng : bé bị ung thư não.

Với kết quả như vậy, bác sĩ bảo bây giờ không mổ cũng không được và mổ cũng không có khả năng lắm bởi lẽ chứng bệnh này hết sức đặc biệt. Cách đây vài tuần, bé đã mê man 3 ngày không biết gì nữa. Trong tiếng nấc nghẹn ngào, cháu bảo mạng sống của cháu giờ chỉ tính tháng tính ngày thôi chứ không còn tính năm nữa …

Buồn và đau khi nghe tin dữ ấy nhưng đành chịu bởi lẽ ngoài tầm tay với của cả gia đình, của đội ngũ bác sĩ giỏi trong một đất nước tiến bộ … Thế là cứ chờ và cứ đợi đến ngày cuối đời của cháu trong đau buồn của phận ngườ.

Mới đây thôi, một vị bác sĩ chuyên môn khá giỏi của một bệnh viện cũng lớn cũng đã qua đi vì chứng ung thư não. Khi phát hiện ra bệnh tình của mình, vị bác sĩ này nghiên cứu tỉ mỉ và thu thập tất cả các thông tin về bệnh của mình và gửi sang Pháp để nhờ các bác sĩ quen biết hỗ trợ nhưng vẫn không tìm ra giải pháp nào cho căn bệnh mà vị bác sĩ khá trẻ này đang mang. Sau một thời gian vắn, vị bác sĩ 41 tuổi đời này đã ra đi để lại niềm thương nỗi nhớ của gia đình, của bạn bè, của đồng nghiệp và cả những bệnh nhân mà bác sĩ đã tận tình chăm sóc khi còn sinh thời. Đặc biệt, cả bệnh viện gần như mọi người cảm thấy tiếc nuối cho một vị bác sĩ vừa giỏi vừa có tấm lòng đặc biệt với những bệnh nhân nghèo …

Có lẽ đây cũng là vài ba trường hợp mà tôi có dịp tiếp xúc, có dịp gặp gỡ, có dịp quen biết mà nay đã qua đi hay đang đón chờ cái chết đến mỗi ngày trong họ.

Thật ra chẳng có gì là lạ cả bởi lẽ sinh tử là chuyện của Đấng tạo hóa. Điều này chẳng có gì lạ và cũng chẳng có gì mới nơi thân phận con người.

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.

(Tv 89, 10)

Ở Thánh Vịnh 144, câu 4 nhắc ta :

Ấy con người khác chi hơi thở,

vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.

Không chỉ vài đoạn Thánh Vịnh như thế này nhắc ta về sự sống, về cái chết của con người nhưng phản phất và trải dài trong Thánh Kinh và ngay trong những biến cố đời thường ta vẫn thấy hạn chế của con người trước sự sống. Cái chết đến vào lúc con người không ngờ và vào giờ con người cũng chẳng biết.

Nhìn những biến cố như thế để không phải là ta bi quan chán nản buông xuôi cuộc đời của ta nhưng nhìn đó để thấy cái phận người hạn hẹp và mong manh của ta. “Hôm nay người người vui cười rồi mai đây lệ rơi, đời là giấc điệp qua mau nuối tiếc chi bóng sầu …” Tâm tình bài hát tiễn đưa nhắc nhớ phận của con người là như vậy.

Khi nhìn về phận người, về sự sống, về sự chết như vậy để ta nhìn lại cái phận người nhỏ bé và mong manh để rồi kịp nhận ra rằng cuộc đời ta hết sức vắn vỏi và hãy sống đẹp với những ngày tháng mà mình đang có. Và, trong cái đẹp nhất của đời người vẫn là tình yêu thương, vẫn là lòng mến mà Thiên Chúa đã trao ban và mời gọi. Hãy yêu nhau đi khi còn có cơ hội để lỡ may cơ hội vụt mất mà ta không kịp yêu thương cũng là điều dáng tiếc.

Ta đâu biết được ta sẽ sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng, báo nhiêu ngày trên đời để rồi ta phải bận lòng và tính toán thiệt hơn. Biết đâu được ngày hôm nay là ngày cuối cùng của ta sống trên cõi tạm này thì sao ?

Anmai, CSsR

KHỔ ĐAU

KHỔ ĐAU

Tác giả: Anmai, CSsR

thanhlinh.net

Đời là bể khổ ! Đức Phật nói như thế về cuộc đời.

Nhìn về cuộc đời, đúng thật là ai cũng có những nỗi khổ đau của riêng mình, của tập thể và thật sự khó có thể nói trước, khó có thể nói hay hay cũng chẳng có thể biết được khi nào nỗi khổ đến trong cuộc đời. Chỉ giật mình nhận ra và thấy rằng sao cuộc đời của mình, người thân của mình và đồng loại của mình sao khổ thế !

Trong một đất nước mà khí hậu không được ôn hòa cho lắm thì con người phải nhận hậu quả nhất định nào đó. Ở cái dải đất hình chữ S thân yêu này thì những ai ở vào những vùng có thời tiết khắc nghiệt ắt mới hiểu được phần nào nỗi đau khi cơn bão chưa đi qua và cơn lũ đang gần đến.

Những ngày này, bão đang dần đi vào dĩ vãng nhưng những người dân ở miền Trung đang đối diện với những cơn lũ do hậu quả của bão. Hậu quả bão lũ đã làm cho hàng ngàn gia đình rơi vào cảnh khốn khó. Bao nhiêu năm trời chắt chiu một nắng hai sương và tằn tiện cho cuộc sống nhưng khi đối diện với bão dữ thì tất cả những lao nhọc tan biến cùng theo bão.

Những người ở xa vùng tâm bão hay ở những nơi mà bão chẳng bao giờ ghé được chắc có lẽ chẳng cảm được những nỗi đau, những nỗi mất mát về cả vật chất lẫn con người sau bão. Vài lần có việc để đi ra miền Trung rơi vào những ngày bão nhỏ hay chỉ với những cơn áp thấp nhiệt đới thôi tôi cảm được một chút gì đó của thời tiết khắc nghiệt. Thật ra, nó chẳng thấm tháp gì với những cơn siêu bão cứ ập đến với người nghèo. Tận mắt nhìn những người dân Quãng Trị trong trời giá rét phải mặc áo mưa để đi làm lúa thì phải biết rằng cái lạnh, cái buốt thấm vào xương thịt của họ là gì. Thế nhưng không còn việc gì khác ngoài cái việc phải bán lưng cho trời và bán mặt cho đất để đắp đổi cuộc sống qua ngày.

Ta chỉ nhìn thấy khổ đau của họ khi ta đi ngang qua được gặp họ trong hoàn cảnh trời rét mướt như thế mà phải cấy cày. Và khi nhìn thấy như thế ta chỉ cảm một chút gì đó chứ ta không rơi vào cảnh như thế nên ta không thể nào hiểu được nỗi đau mà ngày này tháng nọ và năm tới năm kia họ phải gánh chịu.

Hay trong những ngày này, cảnh tan thương trời đất sau bão ta cũng chỉ nhìn thấy qua hình ảnh hay có khi ta nhìn thấy tận mắt nhưng ta không thể nào thấu hiểu được nỗi đau như đang ôm chầm lấy họ. Nỗi đau của họ đang khốn cùng sau mưa lũ.

Có những đám táng phải dầm mình trong mưa lũ để đưa người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Có những gia đình những đứa trẻ phải cám cảnh mồ côi cha lẫn mẹ khi tuổi còn chưa khôn phải nương nhờ vào bà nội hay bà ngoại.

Có đứa trẻ mồ côi cha do cơn bão cách đây gần chục năm trước, mẹ phải đi làm xa và em ở nhà với ngoại. Cơn bão đến, em tìm cách trú ẩn dưới “hầm trú” đơn sơ xây bằng gạch với tôn xi măng và phên bằng tre. Trong “căn hầm” đó là gói mì và gọn đèn cầy gọi là tránh bão …

Và vừa mới đây, có gia đình ra đi trên chuyến bay định mệnh … nỗi đau không thể nào bù đắp được cho những người thân còn ở lại.

Cũng khá lâu không có dịp nói chuyện với đứa cháu ở xa. Trước đây thì chú cháu thi thoảng cũng hỏi thăm nhau về cuộc sống. Sáng nay, trong điện thoại, giọng của cháu cứ sụt sùi.

Trong nghẹn ngào nỗi đau, cháu nói rằng vì gia đình nhà giáo, sau khi qua bên kia thì cháu nỗ lực để học. Vì ham học và gắng học đến độ đôi khi không còn nhớ đến giờ ăn giấc ngủ. Đến một ngày kia bị đau đầu, cháu đi khám bác sĩ gia đình, họ không tìn ra bệnh và chuyển cháu vào viện. Tin dữ đến với bản thân cháu và gia đình là cháu đã bị ung thư não. Cách đây hai tuần, cháu mê sản 3 ngày không biết gì cả. Sau khi tỉnh dậy, bác sĩ tập dần tập dần để khơi lại trí nhớ cho cháu. Giờ đây mạng sống của cháu đang ở độ căng thẳng. Cháu nói là bác sĩ cho biết là mổ cũng không giải quyết được gì và không mổ cũng không được. Trong tiếng khóc, cháu nói cháu sẽ ra đi trước chú …

Đứng trước cảnh đau như thế, chỉ nhanh trí tìm cách nói chuyện bâng quơ cuộc sống để cháu qua đi cơn đau đang âm ĩ trong đầu của cháu cũng như để cháu qua đi những suy nghĩ quá đau của cuộc đời.

Mới vừa bước qua tuổi 20, tuổi đẹp nhất của cuộc đời. Với cơn đau nghiệt ngã như vậy, cháu phải dừng lại chương trình y khoa mà vài năm nữa cháu sẽ ra trường làm bác sĩ. Tất cả dừng lại bởi chứng bệnh khổ đau mà cháu phải chịu.

Nghe dòng tâm sự của cháu, biết được chứng bệnh cũng như cơn đau mà cháu đang mang trong mình. Dù có nghe và thậm chí nghe cả tiếng nấc nghẹn ngào đi chăng nữa nhưng làm sao tôi có thể hiểu và cảm được nỗi đau và cú sốc mà cháu và gia đình đang gánh chịu. Cũng chỉ biết sẻ chia với cháu đôi lời và hẹn dịp khác lại chia sẻ.

Nghe nhưng làm sao thấu và làm sao có đủ sức để gượng dậy với cuộc sống như hoàn cảnh của cháu được. Nghe nhưng đâu có hiểu được ngày sống của mình cứ cuốn dần cuốn dần không biết được bao lâu.

Quả thật là đau khổ đến với mỗi người, mỗi gia đình mỗi vẻ mỗi cách chẳng ai giống ai. Có khi ở một đất nước gọi là văn minh tiến bộ đó nhưng người ta vẫn khoanh tay trước những căn bệnh hiểm nghèo. Có khi ở trong một gia đình có thể là giàu sang phú quý đó nhưng khổ đau nó vẫn cứ đến bằng cách này hay cách khác qua mọi nẻo đường mà không ai ngờ đến. Có khi như gia đình kia vừa ky cóp sắm chiếc xe tìm kế sinh nhai lại bị bão lũ cuốn đi và đang chịu cảnh tù tội. Có khi là đang yên ổn trong căn nhà mà bấy lâu chắt chiu xây được nay lại tan tành sau cơn bão lũ …

Mỗi người, mỗi gia đình và có thể cả một tập thể đang có những nỗi đau của riêng mình, của gia đình đó.

Chỉ biết cầu xin cho mỗi người có đủ sức để vượt qua những nỗi đau mà mỗi người đang gặp phải. Và, cũng nguyện xin những ai có khả năng cũng như điều kiện có thể sẻ chia cách này cách khác cho anh chị em đồng loại của mình nhẹ đi phần khổ đau mà họ đang mang bởi lẽ khi nhìn người khác đau khổ thì làm sao lòng mình có thể an được.

Anmai, CSsR

BÀI HỌC CHIA SẺ

BÀI HỌC CHIA SẺ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31

Bài học người quản lý bị cho nghỉ việc, Chúa Giêsu nói nhè nhẹ về cuộc đời của người quản lý. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này như là khởi đầu cho nhiều bài học nói về đời sau cõi tạm này, cái chết sau cuộc sống này.

Ở đời, người ta vẫn thường nói : “cái gì nó cũng có cái giá của nó”. Quả không sai, nó như quy luật nhân quả của cuộc đời. Nếu như trong đời sống, mình gieo điều tốt thì ắt hẳn mình sẽ nhận được điều tốt và ngược lại.

Chúa Giêsu ví dụ hết sức cụ thế chứ không có nói bóng nói gió hay dùng dụ ngôn nữa. Đi vào thẳng vấn đề của cuộc sống luôn đó là câu chuyện về hai con người :một là giàu, ngược lại bên kia là nghèo.

Người giàu này được một cái là ngày ngày yến tiệc linh đình. Chuyện hết sức bình thường như những câu chuyện bình thường mà người ta vẫn thường nói : “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng, trong cái bình thường này có cái không bình thường đó là có anh ăn xin ngồi ngay trước cổng nhà ông ta. Người ăn xin ghẻ chốc đầy và rồi them được ăn những miếng dư thừa từ nhà của ông nhà giàu nhưng không được ăn.

Chuyện gì đến nó phải đến. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, ông nhà giàu kia cũng chết và người ăn xin cũng chết. Có điều là không biết ai chết trước hay chết sau nhưng bảo đảm là phải chết vì dù giàu dù nghèo thì cũng không thoát được cái chết.

Nhưng, đàng sau cái chết, màn hình được mở ra. Dưới âm phủ, người chủ lại van xin với Ápraham : “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Nghe sao mà thương dễ sợ.

Chúng ta nghe ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

Khi nghe tổ phụ nói như thế, nhớ lại những người thân và đặc biệt là anh em mình còn sống ở dương gian nên bèn thưa : “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!

Nghe thế, ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.

Nài nỉ thêm : “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Chuẩn hơn chỉnh luôn ! Không chỉ Môsê, các ngôn sứ mà nhiều và quá nhiều những chứng nhân cho những thực tại của đời này và gia tài vĩnh cửu ở đời sau rồi nhưng mấy ai chịu nghe. Hay, có chăng thì nghe đó nhưng thực hành được bao nhiêu với lời mà các vị tiền nhân đã nói, đã để lại.

Và, cũng chẳng cần phải nghe ai nói nữa, chỉ cần nhìn vào thực tại và thực tế cuộc sống thì thấy ngay vấn đề : Con người, ai cũng phải chết. Và, sau khi chết, có mang theo được cái gì đi theo mộ phần, mang theo bên kia thế giới hay không để rồi cứ phải ky cóp. cứ phải tham lam, cứ phải ích kỷ. Tham lam, ích kỷ để làm gì để rồi sau cái chết phải hưởng, phải đón nhận tất cả những gì mà mình đã hành xử khi còn sống.

Sống trên đời, chẳng ai mong mình nghèo và cũng chẳng ai có thể nghi rằng mình giàu cả. Giàu hay nghèo đến từ nhiều lý do. Có thể khách quan, có thể chủ quan, có thể có sự may mắn như người ta nói là thiên thời – địa lợi – nhân hòa nữa. Nếu như ai nào đó có tài nhưng rồi thời cơ không đến hay sự may mắn không đến thì cuộc sống của họ mãi mãi trong lam lũ nghèo khó. Có những người có tí tài năng cộng thêm với sự may mắn, sự thuận tiện để rồi sống trong cuộc sống dư giả giàu có.

Và, hết sức bình thường trong mọi thời, mọi nơi, mọi xã hội ta đều thấy những người giàu và người nghèo. Giàu không phải là cái tội và nghèo cũng chẳng phải là cái tội. Tội hay chăng đó là ta giàu mà ta không biết cách sống như thế nào cho đúng với lương tâm, đúng với luân thường đạo lý.

Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt là ta sống như thế nào khi ta giàu có, ta có nhiều của cải vật chất. Không phải những người giàu là xấu. Có những người giàu nhưng họ khôn ngoan sống theo cái nhìn, theo lối sống của con cái Thiên Chúa chú không theo lối sống của thế gian.

Sống khôn ngoan theo lối sống của Thiên Chúa thì giàu hay nghèo cũng chẳng là cái gì cả. Cách riêng với những người giàu thì phải biết dùng những của cải vật chất mà Chúa ban cho như thế nào có ý nghĩa và đặc biệt có hậu về sau sau khi đã chết.

Những bằng chứng hết sức sống động trong cuộc sống của ta. Có những người ta thấy họ hết sức quảng đại, không phân biệt tôn giáo.

Khi nghe trang Tin Mừng hôm nay, có thể ta bảo rằng ông chủ này thật quá quắt, ngay cái người đầy tớ ở trước của nhà mà ông không đoái hoài đến nhưng hình phạt cho ông như vậy cũng là đúng ! Nếu ta nghĩ như thế, ta xét đoán như thế, ta kết án như thế không chừng ta lại kết án chính bản thân ta.

Có khi nào đó, ngay trong gia đình của ta, người nghèo không ngồi ở ngoài cổng hay ngồi ở vệ đường như ta tưởng nhưng người nghèo đó lại ngồi ngay bên cạnh của ta. Họ thèm ta cho họ một chút gì đó, có khi không chỉ phải là cơm bánh, vật chất nhưng điều họ cần đó chính là tình cảm. Có thể những cái mà ta cho những người xung quanh ta đó chính lại là cái thừa thãi của ta nhưng ta lại nghĩ đó là ân phúc mà ta trao ban. Ta quên đi điều căn cốt là những cái mà ta có, nhất là cái thân xác, cái hơi thở, cái sự sống mà ta đang có chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban.

Nếu như Chúa lấy hơi thở, lấy sự sống của ta đi thì còn gì là giàu với nghèo, còn gì là sang với hèn. Chẳng còn là gì cả như người giàu có và kẻ ăn xin cùng chết. Chuyện quan trọng là sau cái chết đó, ta sẽ có gì trong tay. Ta sẽ được ơn cứu độ hay đánh mất ơn cứu độ mà cả đời ta ky cóp.

Sống sao đừng để một ngày kia khi sau cõi tạm này thì trên Thiên Đàng toàn là những người nghèo, những người trộm cắp, những người đĩ điếm, những người tội lỗi như Chúa Giêsu vẫn thường nhắc ta.

Luôn luôn ghi khắc trong tâm trí ta rằng cuộc đời ta có ngần có hạn và tất cả những gì ta có như là quà tặng từ nơi Thiên Chúa để ta biết san sẻ cho anh chị em đồng loại. Chúng ta, có kẻ giàu người hèn, kẻ sang người hèn nhưng ai ai cũng có tấm lòng, có trái tim. Tấm lòng và trái tim đó sẽ quý biết mấy khi nó san sẽ tình thương cảm, lòng mến cho những người đang sống ngay bên cạnh ta, trong mái ấm của ta, trong gia đình của ta.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN

TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Thường, sau giờ cơm, anh em chúng tôi có chút thời gian thư giãn, tếu táo với nhau một lát rồi đi nghỉ.

Trưa hôm nay, cảm hứng dậy lên trong lòng và người anh em kia ngêu ngao : “Hồng ân Chúa như mưa như mưa, rơi xuống đời con miên man miên man nâng đỡ tình con trong tay trong tay vòng tay thương mến …”. Nghe hát như thế, một người trêu lại : “… rơi xuống đời con te tua te tua …”.

Chắc có lẽ, dưới góc nhìn của người anh em về những kẻ thân phận phiêu bạt, trôi dạt vào một góc nào đó của cuộc đời nên trêu nhau tí cho đỡ buồn. Anh nói như thế như chia sẻ, cảm thông về phận của những kẻ bị gạt ra bên lề.

Hiểu lòng chạnh thương của anh và tôi nói với anh rằng biết là anh đùa nhưng mình không nên nghĩ như thế bởi lẽ trong cuộc sống, tất cả đều là hồng ân. Không phải sống trong cảnh khó khăn, bị bỏ rơi, bị gạt là hồng ân nhưng trong cảnh sống đó, ta có cơ may nắt gặp lòng “chạnh thương” thật sự của Thiên Chúa qua một số anh em.

Tôi nói, anh có nhớ hôm thứ Ba vừa rồi, trong bài chia sẻ của mình, cha giảng mời gọi anh em nhìn lại lòng chạnh thương của Chúa Giêsu khi Ngài thương cảnh mẹ góa phải chôn con côi. Cha nói rằng không phải lòng chạnh thương đó mình đặt ở đâu đó cách đây vài ba ngàn cây số hay ở đâu đâu. Lòng chạnh thương đó cần lắm ở những anh em đang nằm bệnh hay những anh em ở trên cao kia kìa, những anh em đang đang gặp khó khăn thử thách kìa …

Hóa ra rằng trong những giây phút khó khăn của cuộc đời, cũng có người chạnh thương đến anh em đang gặp khó khăn. Phải chăng đó là hồng ân mà Thiên Chúa đang trao gửi.

Và, tôi cũng nhắc với người anh em là mới hôm qua thôi. chẳng hiểu duyên cơ nào đến, cha giảng lại gợi lại hình ảnh của Phêrô và Giuđa. Cha giảng chia sẻ rằng có thể hôm nay con thấy mình thánh thiện nhưng biết đâu được đến một lúc nào đó con phản bội Chúa như Phêrô và Giuđa. Thế nhưng, chuyện quan trọng là trong lúc tăm tối của cuộc đời, ta có chạm đến ánh mắt chạnh thương của Chúa Giêsu hay không ? Ánh mắt của Chúa Giêsu đang bị trói ở góc sân Dinh Thượng Tế chứ không phải là ánh mắt khi làm phép lạ, khi hóa bánh ra nhiều, khi làm cho sóng gió yên lặng … Và, trong cuộc sống, ánh mắt của ta có chạm, có chạnh thương đến với những con người nghèo khổ đang ở ngay bên cạnh ta không ? …

Thế đó ! Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh như Thánh Phaolô mời gọi. Trong hoàn cảnh bi đát nhất của cuộc đời khi bị loại trừ, khi bị lên án, khi bị sỉ nhục đi chăng nữa thì ta vẫn còn một nơi để ta bám víu đó là chính ánh mắt, đó chính là lòng chạnh thương của Chúa Giêsu.

Trong cái thân phận bi đát tủi nhục của cuộc đời, ông Giob vẫn tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Cuối đời, Thiên Chúa đã phục hồi cho ông những gì ông bị mất mát, đau khổ.

Trong cái nhìn khinh khi của cuộc đời, Đavit đã cúi đầu nhận tội với Thiên Chúa và ông được Thiên Chúa tha thứ. Trong cảm thức đau khổ, Đavít luôn xin Chúa chạnh thương con người yếu hèn của mình. Hồng ân thương xót tha thứ của Thiên Chúa đã đổ tràn trên đời của vua Thánh Đavít.

Với cảm nhận thực tại của cuộc sống ta sẽ cảm nhận đời ta quả là hồng ân Chúa cứ miên man miên man. Không phải chỉ nhắm đến cái ăn cái mặc cho cái thân xác tạm bợ bảy tám chục ký này nhưng khi nhìn vào thực tại cuộc sống, ta hạnh phúc hơn rất nhiều người.

Nghĩ xa hơn một tí, ta có thể bị thế này thế kia trong cuộc đời nhưng ta chưa phải lâm vào cảnh thiếu trước hụt sau hay phải chạy ăn từng bữa.

Những ngày này, thời tiết không như ta nghĩ và cũng không như ta mong muốn bởi ảnh hưởng của giông bão. Có thể sáng nắng đó nhưng chiều đến thì những cơn mưa giông thật lớn trào xuống. Và, cũng có thể trước khi ta đi ngủ, bỗng dưng cơn mưa nặng hạt như trút nước xuống. Và, dù mưa to gió lớn như thế nào đi chăng nữa, ta vẫn ấm êm trong căn nhà kiên cố để rồi gió và bão cũng chẳng làm gì được ta.

Và, ta đang vẫn còn hạnh phúc vơi thân thể chưa phải lâm vào cảnh trọng bệnh. Khi nào ta rơi vào cảnh đó ta mới cảm được thấu nỗi đau của phận người. Phận người vẫn mong manh và thật nhỏ bé trong bàn tay của Đấng Tạo Thành.

Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, hãy chúc tụng Danh Chúa bởi vì muôn ơn lành Chúa vẫn ngày đêm tuôn đổ xuống trên đời ta và nhất là ánh mắt chạnh thương của một Giêsu giàu lòng thương xót luôn dõi nhìn ta dù cho ta có lỗi tội, dù ta phản bội Ngài.

Hãy xin cho có ơn như Phêrô và Giuđa để luôn dõi mắt nhìn ánh mắt chạnh thương của Chúa để được ơn cứu độ sau cõi tạm này.

Anmai, CSsR

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

THÁI ĐỘ TỪ BỎ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

THÁI ĐỘ TỪ BỎ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

Kn 9, 13-18b; Plm 9b-10.12-17; Lc 14, 25-33

Đời thường, trong cuộc sống, bất cứ cái gì cũng phải trả giá, phải có điều kiện. Ví dụ như muốn mua một món đồ gì đó thì chắc chắn là phải trả tiền cho người bán. Nếu không đủ tiền thì không thể nào mua được cả.

Ngày nay, chúng ta thấy có quá nhiều công trình, nhiều dự án cứ dang dở bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh nhưng không thể bỏ qua được yếu tố của tính toán xem công trình có hoàn tất được không và hoàn tất như thế nào. Vì làm liều, vì không có dự toán cẩn thận nên nhiều người rơi vào cảnh bỏ thì thương mà vương thì tội. Đó là những bài học hết sức bình thường và thực tế trong cuộc sống thường nhật của chúng ta.

Trang Tìn mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Ngài với những điều kiện của Ngài đưa ra. Những ai muốn thuộc về Chúa Giêsu, thì phải quyết định theo Chúa Giêsu toàn vẹn, theo trọn con đường của Người.

Trước trang tin mừng này là câu chuyện Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu. Thánh Luca hôm nay giúp độc giả để ý đến bước tiến của Chúa Giêsu lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Ngài. Tác giả cho thấy Chúa Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Các trình thuật trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho ta” (c. 23). Và, ở đây Chúa Giêsu thêm một điều kiện kiên quyết  điều kiện phải giữ để được làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn 14,15-24. Nhìn lại với ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Chúa Giêsu, bước đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, một dự án …

Đỉnh điểm của cuộc đời Chúa Giêsu đó chính là hành trình lên Giêrusalem. Trên hành trình này, nhiều người muôn đi theo Chúa, muốn ở lại với Chúa, muốn đồng hành với Chúa vì họ nghĩ rằng khi theo như vậy họ sẽ được quyền năng, được sức mạnh, được lợi lộc theo kiểu trần gian. Họ nghĩ như vậy vì trong hành trình này, họ chứng kiến được nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm, thấy được quyền năng thực tế của Chúa. Chúa nhìn thấy lòng của họ nhưng Chúa không muốn họ đi theo Chúa với những kiểu vinh quang của người đời.

Những ai gắn bó thật sự với Chúa Giêsu  thì phải hiểu rằng mình phải đáp ứng những yêu cầu nào của Chúa. Các điều kiện Chúa Giêsu nêu ra không được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất cả những ai đang đi với Người.

Chúng ta thấy, phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em là yêu cầu đầu tiên mà Chúa Giêsu đưa ra. Như vậy, điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây nhờ Mt 10,37 đã được làm sáng tỏ: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Chúa Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Chúa Giêsu hơn cả chính bản thân mình. Chúa Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Chính tương quan duy nhất với Chúa Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.

Trong thực tế, trở ngại lớn nhất của con người không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với bản thân mình. Cả cái tôi và cái lớn nhất đời ta đó là sự sống của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu.

Những ai muốn đi theo Chúa Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường thập giá. Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được sự vâng phục đến tột cùng với Chúa Cha.

Để theo Chúa đến cùng, Chúa Giêsu khuyên những người đang đi theo Ngài phải cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định làm môn đệ. Trước khi làm điều gì đó, người ta phải ngồi xuống để tính toán, để cứu xét đến không chỉ các đòi hỏi phải thực hiện mà còn nghĩ đến những hậu quả. Nếu bắt tay nhưng không chuẩn bị tính toán kỹ thì sẽ bỏ giở giang vì không có sức đi tới cùng. Những người đi theo Chúa phải xem lại là mình có những sức mạnh và nguồn lực nào.

Ta thấy sau hai điều kiện (cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba, một đòi hỏi triệt để. Chúa Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ Ngài.

Ai muốn đi theo Chúa Giêsu , phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Chúa Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Chúa Giêsu, thì phải quyết định theo Chúa Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Ngài.

Với tất cả những điều đó, chúng ta thấy những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Chúa Giêsu muốn người ta đi theo Ngài một cách cóý thức và phải có cân nhắc. Những điều kiện đưa ra là những điều kiện cho mọi người muốn bước theo Chúa chứ không dành riêng cho bất cứ một người hay một nhóm, một dân tộc nào Bước theo Chúa Giêsu có nghĩa là tuyệt đối không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo tâm tình của người quản lý chứ không phải là chủ.

Tâm tình từ bỏ không dính bén vào của cải vật chất phải ưu tiên hơn những điều khác. Tình yêu đối với Thiên Chúa không phải loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại Ngài buộc con người là phải yêu người như yêu Chúa. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được qui định bởi tương quan với Chúa Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và một người gần gũi với ta, ta phải chọn Chúa Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Chúa Giêsu.

Tiêu chuẩn tối hậu của đời sống chúng ta là thi hành ý của Thiên Chúa trên cuộc đời của ta. Người môn đệ của Chúa không được sống ngược lại với ý của Ngài.

Hoặc là đi theo Chúa, hoặc là không chứ không được nửa này nửa kia. Theo Chúa phải theo với thái độ dứt khoát. Đi theo Chúa đòi hỏi sự trung thành và vâng phục như Chúa Giêsu trung thành và vâng phục Cha của Ngài.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

CỦA ĐỜI PHÙ VÂN

CỦA ĐỜI PHÙ VÂN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Gv 1, 2 ; 2, 21-23; Cl 3, 1-5.9-11; Lc 12, 13-21

Hơn một lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần mỗi người trong chúng ta đã nhìn, thấy, chứng kiến những người thân thương của chúng ta qua đời. Họ có thể là ông, bà, cha, mẹ, anh chị em hay người thân thuộc, bạn bè, hàng xóm …

Nếu là thân nghĩa ruột thịt, chúng ta sẽ được tận mắt để nhìn nghi thức nhập quan của người đã qua đời.

Khi qua đời, người thân sẽ tắm xác và sẽ tìm một bộ đồ đẹp nhất mặc cho người quá cố. Kèm theo đó là những vật dụng thân thương mà người quá cố hay dùng khi còn sống để bỏ vào trong quan tài theo tâm niệm là để cho người quá cố “sử dụng” hay để “kỷ niệm”. Tất cả và tất cả những gì người qua đời cả cuộc đời lao nhọc khi nằm trong quan tài không được quá khổ cái quan tài. Nghĩa là những gì quý báu thì quý chứ không thể nào bỏ vào trong quan tài chiếc xe, căn nhà … cả. Những cái gì quý như vàng, hột xoàn hay đô la thì chẳng có người sống nào dại đển độ bỏ trong quan tài để vài ba bữa đem đi chôn hay đi thiêu.

Phận người là thế đó nhưng vật chất nó làm cho người ta phải điên đảo, phải tranh giành.

Hôm nay, chúng ta được nghe lại câu chuyện hài. Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, chắc có lẽ thấy Chúa Giêsu được ảnh hưởng nhiều trên dân nên có một người đến nhờ Chúa Giêsu chia gia tài cho gia đình của anh ta. Chúa Giêsu nghe như vậy và nói luôn : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh? “

Không dừng lại ở câu nói đó, Chúa Giêsu nói tiếp :  Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

Chúa Giêsu quả là dễ thương, sợ người ta chậm tiêu ít hiểu nên cho họ một dụ ngôn : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”

Nghe thì cũng khó nghe đó chứ ! Thế nhưng, khổ một nỗi là cái gì khó nghe thì nó là sự thật.

Chuyện vật chất phù vân chúng ta cũng đã nghe ông Cô-he-lét nói : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời ?”

Ông than thở tiếp : “Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền ! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân !”

Quá chính xác ! Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi nhắm mắt lìa đời.

Tâm thư của Thánh Phaolô hôm nay về những thú vui trần gian cũng quá hay : “Cứ đến đây, ta sẽ cho ngươi thử hưởng thú vui và nếm mùi hạnh phúc.” Thế nhưng cả cái đó cũng chỉ là phù vân. Tôi nói : “Cười là điên rồ. Vui là vô tích sự.”

Đúng như vậy ! Tất cả cũng sẽ chỉ là phù vân mà thôi.

Như đã nói, ngày mỗi ngày chúng ta thấy, chứng kiến cảnh ra đi của anh chị em đồng loại, của người thân. Thấy, chứng kiến nhưng những hình ảnh nấm mồ hay hủ tro có tác động gì đến ta hay không ? Chắc có lẽ là không bởi lẽ ngày mỗi ngày quanh ta và thậm chí ngay cả bản thân ta cũng vun vén, cũng tích lũy.

Có người thì tích lũy cho mình tiền, có người tích lũy cho mình danh vọng, có người tích lũy cho mình quyền lực, có người tích lũy cho mình chức vị … Tất cả những thứ đó thì ai ai cũng đi tìm và vun vén cả. Thật ra nó cũng là những nhu cầu và ước muốn bình thường của con người bởi lẽ con người vẫn mang trong mình phận người. Thế nhưng, một sự thật thật hơn những nhu cầu đó chính là khi nhắm mắt lìa đời tất cả những gì mà người ta vun vén.

Thi thoảng tôi nghe Trường Vũ hay Ngọc sơn ngân nga :

Sống trên đời này người giàu sang cũng như người nghèo khó.

Trời đã ban cho ta cám ơn trời dù sống thương đau

Mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu khó như nhau

Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao

Này nhà lớn lầu vàng son

Này lợi danh, chức quyền cao sang

Có nghĩa gì đâu…sao chắc bền lâu

Như nước trôi qua cầu

Này lời hứa… Này thủy chung

Này tình yêu…chót lưỡi đầu môi

Cũng thế mà thôi

Sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời

Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi lại mất.

Cuộc sống mong manh xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen

Nào người sang giàu đừng vì tham tiền bỏ nghĩa anh em

Người ơi xin nhớ cát bụi là ta…mai này chóng phai

Người nhớ cho ta là cát bụi trở về cát bụi

Xin người nhớ cho

Khánh Ly cũng diễn tả cái thân phận cát bụi của con người thật ngọt ngào tác phẩm “Cát Bụi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn :

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày

Mặt trời nào soi sáng tim tôi

Để tình yêu xay mòn thành đá cuội

Xin úp mặt bùi ngùi

Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui

Cụm rừng nào lá xác xơ cây

Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy

Ôi cát bụi phận này

Vết mực nào xóa bỏ không hay

Phận người là như thế nhưng tại sao ta cứ mãi bám theo những gì mà ta sẽ mất ngày mai.

Tại sao không đi tìm cái kho tàng mà mối mọt không đục khoét, trộm cắp không đào ngạch mà lại cứ mãi mê với cái trần gian hư vô mau qua chóng tàn này.

CHÚT TÌNH RIÊNG

CHÚT TÌNH RIÊNG

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở đời, có những chuyện riêng người ta giữ kín trong lòng chỉ để cho lòng mình biết. Thế nhưng cũng có những chuyện riêng như là kỷ niệm, như là niềm vui người ta muốn gửi đến cho những người thân quen khi có dịp. Kỷ niệm riêng, chút tình riêng ấy sẽ ở lại mãi trong lòng người cảm nhận.

Dăm ba năm trước, khi về chủ sự Lễ Hành Hương Minh Niên tại đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn, Đức Cha Phêrô phụ tá không ngần ngại nói lên tâm tình, nói lên tình riêng của mình. Đức Cha nói rằng Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng là nơi rất thân quen từ những ngày còn làm thầy và khi đã lãnh sứ vụ linh mục. Ngài thường lui tới nơi mảnh đất thiêng này và đặc biệt với Núi Đức Mẹ để thủ thỉ, để thỏ thẻ với Mẹ lòng của Ngài. Trở về Đền Đức Mẹ dâng Lễ lại nhớ lại hình ảnh ngày xưa và lại nhớ lại những ơn lành Mẹ trao ban cho Ngài.

Mới đây, Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên – giám mục giáo phận Cần Thơ – cũng trở về Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để dâng lễ mừng kính Thánh Anphongsô đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế.

Cảm xúc trào dâng, Đức Cha lại gửi đến tâm tình hết sức riêng và hết sức đặc biệt của Ngài : “Ngay từ nhỏ, lúc đó tôi khoảng chừng 8 tuổi. Mỗi lần đi Lễ tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, sau Lễ, mẹ tôi dẫn tôi ra núi Đức Mẹ đọc kinh rất lâu”. Còn nhỏ tôi chẳng hiểu gì nhưng tôi nghĩ rằng mẹ tôi nói với Đức Mẹ : “Mẹ ơi ! Con là người vợ góa, nhiều con thơ, một mình con không làm nổi gì đâu, Mẹ không tiếp sức thì con không làm gì được”.

Đức Cha ngừng lại một chút vì xúc động, tình thương của người con nhớ về mẹ của mình lại trào dâng, ngừng lại hơi nghẹn lời một chút rồi Ngài tiếp : “Mẹ tôi cầu nguyện với Mẹ và rồi Mẹ tôi nuôi các con ăn học. Tôi năm đó 8 tuổi, đứa út mới có 1 tuổi. Mẹ tôi nuôi chúng tôi và chúng tôi, anh em chúng tôi đứa nào cũng biết đọc biết viết. Mẹ tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Đó là bài học cho chính tôi, mỗi khi tôi gặp khó khăn thử thách thì chạy đến Đức Mẹ. Lúc tới đây, trước khi thăm các cha các thầy, tôi đã tới núi Đức Mẹ để cầu nguyện”.

Các đức cha có chút tình riêng với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nói như thế. Nếu có dịp được nói, tôi cũng sẽ nói như thế này :

Ngày còn bé, chắc cũng vào khoảng 8 tuổi, Dì ruột của tôi ở Gia Kiệm, cứ mỗi lần Dì về Sài Gòn là Dì lại dẫn tôi lên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Mỗi lần lên nhà thờ Dòng thì Dì lại dẫn tôi quỳ trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở cánh trái của nhà thờ. Chẳng biết Dì nòi gì nhưng chỉ thấy Dì cầu nguyện với Đức Mẹ thật lâu. Chưa hết, Dì còn dẫn tôi ra trước núi Đá của Mẹ để cầu nguyện thật lâu.

Khi xem lại hình kỷ niệm của gia đình, chỉ còn được vài tấm hiếm hoi. Có một tấm giá trị đó là hình cưới của ba mẹ tôi. Nhìn trong ảnh lại hình ảnh thân quen hiện ra đó là bức ảnh lưu niệm ngày cưới của ba mẹ tôi được chụp trước núi Đức Mẹ cùng với Cha Eugène Larouche Dòng Chúa Cứu Thế. Lại dính dáng đến Mẹ Hằng Cứu Giúp tại ngôi đền thiêng thánh này.

Không chỉ thế, ông bà ngoại tôi cũng là giáo dân của Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế do các cha Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách. Cha Gioan Nguyễn Văn Thính trước khi mất cũng đã cho tôi những kỷ niệm về ông bà ngoại.

Cả cuộc đời cứ ở trong bàn tay của Mẹ Hằng Cứu Giúp thì phải.

Ba mẹ cưới nhau cũng ở ngôi Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp này, tôi khấn dòng cũng tại ngôi Đền này, lãnh sứ vụ linh mục cũng tại ngôi Đền này và … hy vọng chết cũng được chết trong tay của Mẹ ở ngôi Đền này.

Chắc có lẽ không chỉ các đức cha, bản thân tôi nhưng rất, rất nhiều người hơn một lần đến đây với Mẹ và ít nhiều gì đó cũng đã nhận ơn lành của Chúa đến từ Mẹ. Và như thế, tình riêng của mỗi người, ngày mỗi ngày lại sâu lắng, lại trào tràn đến với những ai chạy đến Mẹ.

Ngày này đây, ngày mỗi ngày và hàng giờ, hàng phút mỗi khi cổng Đền Thờ mở, lúc nào cũng có người đến với Mẹ để thỏ thẻ, thủ thỉ tâm tình với Mẹ. Cứ nhìn vào quyển sổ tâm tình với Mẹ ta nhận ra tình riêng của con với Mẹ. Những quyển sổ dày đặc lời xin ơn, lời tạ ơn cũng chưa nói hết tình riêng của những người đến đây. Nhiều và nhiều ơn lành khác mà chỉ người nhận và người trao ban mới biết mà thôi.

Tình riêng với Mẹ là vậy. Con thưa với Mẹ, Mẹ nghe con, Mẹ hiểu con và con yêu Mẹ.

Chút tình riêng cộng lại thành tình yêu lớn tại ngôi Đền Thánh Thiêng này.

Những ai đến với Mẹ chắc chắn sẽ không phải về tay không bởi lẽ lòng Mẹ bao la như mây trời và mênh mông như biển lớn.

Lm. Anmai, C.Ss.R.

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở đời, ai cũng mong đi tìm và sống hạnh phúc. Khi tìm thấy và sống hạnh phúc rồi thì ai cũng mong cho mình được hạnh phúc tròn đầy. Mong vẫn là mong và trong ước mong có người đạt được nhưng có người vẫn chơi vơi khi hạnh phúc chưa trọn vẹn.

Bén duyên, tôi biết hai anh em nhà nọ từ gần hai chục năm nay ở Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Biết họ bởi lẽ cứ đến giờ hành hương kính Đức Mẹ thì hai anh em đã có đó trước tôi. Thời gian trôi cứ vẫn trôi, hai anh em vẫn ngày mỗi ngày đến với Mẹ và đặc biệt không bỏ ngày thứ Bảy kính Mẹ bao giờ cả.

Trước khi biết là anh em tôi cứ nghĩ là cặp đôi đạo đức nhưng khi hỏi ra mới biết họ là hai anh em ruột chứ không phải là vợ chồng như tôi nghĩ. Tôi vội vàng xin lỗi họ bởi sự nhầm lẫn và kém cõi của tôi.

Lễ xong, hai anh em cứ quấn quýt bên hang đá Mẹ ở góc nhà thờ. Từ khi Mẹ Sầu Bi được đặt ở phòng hài cốt thì hai anh em lại tiến sâu vào trong để cầu nguyện với Mẹ, cầu nguyện cho các linh hồn.

Bén duyên thêm tí nữa tôi biết gia cảnh của hai anh em.

Giọng trầm buồn của người anh trải lòng về gia đình.

Hai anh em đều mất cả cha lẫn mẹ. Giờ thì hai anh em sống đùm bọc nhau.

“Cha biết không ? Ba con ngày xưa đi học tập … ở trong trại đói khổ và bệnh tật … sau đó người ta đưa ba con về. Về nhà không được bao lâu thì ba con mất vì di chứng của bệnh tật ở trong trại cải tạo. Khi ba con đi học tập về, nhà con nghèo kinh khủng. Con không muốn nhớ lại những ngày đó vì quá khổ. Sau đó, bác con cho con mượn tiền và mua nhà. Lúc đó con mua được căn nhà mặt tiền ở quận I. Sau 3 tháng, con bán lại và được phần lãi rất cao. Con gửi lại phần vốn cho bác và phần lãi đó có thể giúp cho gia đình con sống ổn định cho đến ngày hôm nay. Gia đình con vừa ổn định một chút thì Mẹ con bị ung thư máu và cũng mất luôn. Hai anh em con buồn lắm. Nỗi buồn cứ day dứt mãi cho đến ngày hôm nay, nhất là mỗi khi đêm về, hai anh em chúng con nhớ ba mẹ lắm. Đến giờ ba con mất hai chục năm, mẹ con hơn mười năm nhưng vẫn còn buồn. Nỗi buồn cứ day dứt mãi với anh em chúng con cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết …

Giờ hai anh em chúng con dù có cuộc sống ổn định nhưng vẫn nhớ ba mẹ lắm. Phận mồ côi mà cha. Giờ thì đời sống kinh tế ổn định nên hai anh em chúng con ngày nào cũng đi nhà thờ. Tạ ơn Chúa đã cho anh em chúng con được như vậy …

Nhiều người nói cha mẹ mất sớm như vậy thì con cái cũng sẽ như thế … sẽ chết sớm như cha mẹ …”

Nghe xong tâm tình này, tôi nói ngay với anh rằng sống chết tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Chúa chứ chẳng ai có thể cũng như định được ngày sống của mình cả. Tất cả chỉ có Chúa biết mà thôi nên đừng bận tâm lo lắng làm chi.

Trong tâm sự của mình, anh không ngớt lời tạ ơn Chúa bởi vì nhờ ơn Chúa hai anh em của anh mới có được như ngày hôm nay. Và, cứ mãi day dứt nhớ đến ba mẹ của họ dù ba mẹ của họ khuất cũng đã khá lâu.

Nghe anh chia sẻ, tôi cũng chung chia với anh :

“Anh biết không, mình cũng thế ! May mắn cũng không đến với mình trọn vẹn. Khi gia đình tương đối ổn định thì Mẹ mất. Mẹ mình mất cách đây gần hai mươi năm cũng vì chứng bệnh ung thư. Giờ đây, mỗi khi nhớ đến thì không dám nhớ lâu bởi lẽ nhớ đến Mẹ là hai hàng nước mắt nó cứ trào ra. Bây giờ có chiếc xe tay ga để đi tới đi lui lại càng nhớ Mẹ. Ngày xưa chở Mẹ đi khám bệnh bằng con dame cà tàng. Giờ có xe ga nhưng không còn Mẹ để chở …”

Còn nhiều điều muốn chia sẻ thêm với anh nhưng đợi lần sau.

Cuộc trao đổi kết thúc, hình ảnh hai anh em mồ côi vẫn còn đâu đó bên tôi.

Cũng chẳng dám nói là tội nghiệp họ nhưng thấy cuộc sống hiện tại của hai anh em có cái gì đó. Tình yêu, nỗi nhớ da diết về đấng sinh thành của hai anh em đã làm cho hai anh em cứ hụt hẫng, cứ chênh vênh. Xét về đời sống vật chất, cơm áo gạo tiền thì hai anh em không phải bận tâm như nhiều người khác nhưng về tình yêu thương cha mẹ và một gia đình đầm ấm như bao nhiêu gia đình khác lại là mơ ước quá xa vời với hai anh em. Giờ họ có tất cả, họ đầy đủ tất cả, họ chỉ thiếu có một điều : thiếu cha thiếu mẹ.

Cha mẹ phải chăng là gia tài quý giá nhất và lớn nhất mà chẳng có gì thay thế được để rồi những ai dù giàu dù nghèo về vật chất nhưng còn cha đủ mẹ quả là hạnh phúc nhất của cuộc đời.

Cuộc đời vẫn còn đó những chênh vênh.

Những ai đang có hạnh phúc trong tay hãy nguyện xin hạnh phúc đó được mãi tròn đầy trên cuộc đời mình.

Những hai đang dở dang với hạnh phúc hãy chia sẻ, cảm thông với nhau để lấp đầy những khoảng trống trong cuộc đời đã bị mất hầu vơi đi một chút nào đó những mất mát của cuộc đời.

Anmai, CSsR

CÂU CHUYỆN NGƯỜI QUẢN LÝ

CÂU CHUYỆN NGƯỜI QUẢN LÝ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

Con người, khi bước ra khỏi cuộc đời này, đặc biệt trong giờ lâm tử, giờ hấp hối ai cũng muốn ra đi một cách thanh thản không vướng bận, không nợ nần ai để cho nhẹ cõi lòng. Nhẹ hay không nhẹ cũng do cách quản lý tài sản của mình khi còn sống. Nếu như ta biết cách vun vén, biết cách xử lý thì ắt hẳn ta sẽ không còn nợ nần ai và nếu hay hơn nữa thì người khác sẽ nợ ta chứ ta không nợ họ.

Câu chuyện người quản lý trong Tin Mừng theo Thánh Luca chương 16 từ câu 1 đến câu 8 mà người ta thường đặt tên cho đó là câu chuyện của “người quản lý bất lương”.

Những bài học về Nước Trời, Thầy Giêsu không chỉ dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Thầy còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Thầy Giêsu không cố ý cho các môn đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy.

Trong Mt 10,16 Thầy Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Thầy Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.

Thời của Thầy Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giàu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Trong dụ ngôn Thầy Giêsu kể, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. 

Và đây chính là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Ở câu cuối cùng của dụ ngôn: “Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng” nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Thầy Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.

Trong cuộc sống thường nhật, chẳng ai dám cho mình là hay trong chuyện quản lý tiền bạc và cả quyền lực. Có lúc đầy túi tiền và quyền lực hết sức mãnh liệt ở trong tay nhưng cũng có lúc thèm một bữa cơm đạm bạc cũng không có và muốn làm một người bình thường cũng chẳng ai cho. Những kinh nghiệm sống đó không còn ở trang Tin Mừng của Thầy Giêsu, trong lý thuyết nữa nhưng diễn ra mỗi ngày trong dòng chảy của cuộc đời.

Cách đây không lâu, chúng ta thấy một nghệ sĩ nổi tiếng đã rơi vào tình cảnh nợ nần. Anh chia sẻ : “Bất động sản đóng băng nên tôi bị đóng đinh”

Cũng vì muốn có tiền, anh đầu tư kinh doanh nhưng đáng tiếc rằng mọi việc không xảy ra như anh tưởng. Anh chia sẻ thêm : “Thời buổi kinh tế khó khăn, doanh nghiệp làm ăn nợ nần là bình thường. Hãy cảm thông, chia sẻ với chúng tôi”.

Và gần đây nhất, một ca sĩ cũng tên tuổi  “đã đi đến đường cùng” vì nợ. Chị thừa nhận do kinh doanh thua lỗ, số nợ đã lên tới hàng tỷ đồng. Tuy con số không quá lớn, nhưng đối với một người nghệ sỹ đang ở chặng cuối của sự nghiệp như chị và đúng vào giai đoạn “show diễn khan hiếm” như hiện tại thì đó cũng là điều đáng ngại.

Vẫn còn may mắn hơn bao nười khác, hai nghệ sĩ này đã được bạn bè có lòng tốt đứng ra thay lời muốn nói cho họ. Hơn thế nữa, có những người có lòng tốt đã bỏ tiền ra để cứu họ trong khi họ gặp bế tắt.

Những tấm lòng này hiển nhiên được mở ra vì lòng cảm thông của tình người. Để được bạn bè, người thân “giải vây” trong lúc rơi vào tình trạng bế tắt chắc có lẽ do cách sống của họ, do khi còn tiền, còn vật chất họ đã chia sẻ cho người khác chứ không khư khư giữ cho riêng mình. Chính vì hiểu lòng của những người này nên nhiều người đã chung ta góp sức gỡ khó khăn.

Những câu chuyện rất thực và quá thực trong đời thường.

Dù lớn, dù bé, dù là thường dân hay quyền cao chức trọng, ta cũng chỉ là những người quản lý nó mà thôi. Nói chính xác hơn ta cũng chỉ là người quản lý tạm bợ bởi vì đến một lúc nào đó ta cũng phải nhắm mắt xuôi tay để trả lại tất cả tài sản, quyền lực mà trước đây ta có trong tay.

Chẳng có ai lột da sống đời và chẳng có ai giữ mãi tiền bạc và quyền lực trong tay cả. Một ngày nào đó ta sẽ chẳng còn gì cả ngoài căn phòng quạnh hiu bên trong chỉ có chiếc giường đơn giản nằm đó chờ … chết. Cuối đời, ai cũng như ai, dù sang hay giàu. dù nghèo hay hèn, dù quyền lực hay là bần dân khổ ải cũng chỉ nằm trong chiếc quan tài mà thôi.

Bớt chút thời gian để đến những viện dưỡng lão, những nhà hưu dưỡng … ta sẽ thấy bộ mặt thật của cuộc đời. Có những người từng một thời vang bóng, có những người từng một thời cao sang quyền quý và quyền lực trong tay nhưng cuối cùng cũng gia tài chỉ còn lại chiếc xe lăng hay chiếc giường được thiết kế tiện dùng cho người nằm liệt.

Nhìn cuộc đời rất thực như thế để ta cũng biết cách dùng những của cải, vật chất, quyền lực mà ta đang có trong tay để khi ta mất nó, ta về già, ta về với đất bụi cho lòng ta được thanh thản.

Lời mời gọi, bài học mà Thầy Giêsu vẫn còn văng vẳng bên tai ta. Những bài học, những lời mời gọi này tưởng chừng là cũ nhưng nó vẫn mới và vẫn còn giá trị cho mọi lúc mọi thời. Chuyện quan trọng là ta có nhớ để ta niệm, ta suy và ta áp dụng vào trong đời thường của ta hay không mà thôi.

Đừng để cho những bài học mà Thầy Giêsu đi qua đời ta một cách vô nghĩa. Và, hơn tất cả là đừng để những của cải, quyền lực mà Chúa trao cho ta nó làm hại đời của ta, nó làm ta mất tình mất nghĩa với anh em đồng loại và nhất là mất tình mất nghĩa với Chúa.

Anmai, CSsR

NHỮNG NGƯỜI SAMARIA THỜI ĐẠI

NHỮNG NGƯỜI SAMARIA THỜI ĐẠI

Anmai, CSsR

Lời Chúa : một số người mang tâm trạng rằng “biết rồi ! Khổ lắm nói mãi !”.

Vâng ! Đúng là biết rồi khổ lắm nói mãi ! Nhưng nếu để tâm lắng đọng tâm hồn lại ta sẽ thấy Tin Mừng vẫn mới, mới mỗi ngày, mới mỗi giờ, mới mỗi phút, mới mỗi giây trong thực tại của cuộc sống.

Câu chuyện Chúa Giêsu đáp lời cho người thông luật trong trang Tin Mừng theo Thánh Luca chương 10, 25-37 thật hay. Câu chuyện đó vẫn mới, vẫn mới trong cuộc đời và câu chuyện đó vẫn chất vấn lòng, chất vấn lương tâm của chúng ta.

Thích thú, thấm thía và tâm đắc với câu chuyện mà người ta thường gọi là người Samaria nhân hậu này.

Thật khó để chia sẻ chứ không phải đơn giản. Đâu phải mình muốn nói gì thì nói bởi lẽ ngôn hành bất nhất và đôi khi suy nghĩ chưa tới nên cũng chẳng dám nói. Hôm nay, đụng chạm tới những gì rất thật trong đời thường nên chia sẻ.

Câu chuyện mà tôi thấy, tôi gặp, tôi chứng kiến ngày mỗi ngày đó là ngay cạnh bên tôi. Có nhiều người không phải là bị cướp như nạn nhân kia trong tin Mừng Luca. Họ cũng chẳng phải là những người đi từ Giêrusalem về Giêrikhô như nạn nhân kia. Họ là ai ? Xin thưa, họ là những người trở về từ khắp mọi miền của đất nước, thậm chí từ những vùng truyền giáo xa xăm ở ngoài nước trở về. Họ là những người dành cả cuộc đời dài để phục vụ anh chị em đồng loại, phục vụ anh chị em dân tộc thiểu số, phục vụ đồn điền, phục vụ những em học sinh … nay không phải bị cướp mà bị giới hạn của sức khỏe, của tinh thần nên cần băng bó, chữa lành, trợ giúp khi tuổi về chiều.

Họ là những người như thế, giờ đây đôi tay không còn vững để tự đưa cơm vào miệng nữa mà phải có bàn tay ai đó tay đỡ tay nâng. Có người giờ đây không còn khả năng ăn bằng miệng nữa mà phải cho thức ăn vào ống để đưa vào bao tử để sống những chuỗi ngày còn lại. Có người nằm đó sống đời sống thực vật gần hai chục năm trời … Họ nằm đó bất động hay đi lại một cách hết sức khó khăn thậm chí vệ sinh cá nhân cũng buông tay cho người khác giúp.

Bỗng dưng giữa những con người tàn hơi yếu sức đó lại có những người “samari” tự đâu Thiên Chúa gửi đến. Trong niềm tin, tôi tin là như vậy. Họ chẳng có họ hàng máu mủ gì với những tu sĩ linh mục thừa sai già yếu cả. Ấy vậy mà họ đã hy sinh sức khỏe, thời gian và nhất là cả tấm lòng để phục vụ những người đó.

Có những đêm về và nhất là những ngày này, thầy già nằm cạnh phòng thở gấp, thở vội, thở khó và những cơn ho kéo dài mệt mỏi nhưng những người đó vẫn sát bên với thầy. Có lẽ chẳng ai để ý và cũng chẳng ai muốn để ý đến đâu đó ở góc phòng của tu viện lại là những con người nằm đó tàn hơi yếu lực. Ở những căn phòng ấy, những người “samari” đâu đó đi ngang qua thấy thương và ở lại. Không chỉ đi công việc và hứa sẽ quay lại thanh toán nhưng họ ở lại, ở lại cho đến cuối cuộc đời.

Có những người “samari” thời đại quá nhân hậu. Nhân hậu đến mức ngoài sức tưởng tượng của ta. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân, họ để lại ở nhà cả vợ, cả con của họ để ở bên những người mà chẳng có họ hàng máu mủ gì với họ cả. Có về nhà chăng cũng chỉ là thăm vội người thân một tí rồi lại trở về chăm sóc người già lão bệnh tật. Có người chẳng dám rời cha “của mình” nửa bước vì sợ người khác chăm sóc không cẩn thận. Hay là chỉ cần cha già ho mạnh một tí là chạy cuống cuồng lên và cái miệng cứ oai oái lên làm như không ai lo cho cha già vậy. Cũng vì thương cha già nên đôi khi cáu gắt với những người chung quanh. Cũng dễ hiểu vì người “samari” đó đã hết lòng với cha già đau yếu.

Chuyện những người Samaria thời đại mà tôi gặp thường ngày không chỉ ở gần tôi nhưng còn ở nhiều nơi trong nhiều nẻo đường của cuộc sống.

Những người Samari nhân hậu đó tôi bắt gặp trong các bệnh viện như Phạm Ngọc Thạch, Ung Bướu, 115 và nhiều bệnh viện nữa.

Ở viện Phạm Ngọc Thạch, có nồi súp từ thiện cho những con người nghèo khổ đau bệnh. Trong đó cũng có nhóm người cứ chiều đến là tự nguyện đến tắm rửa, lau chùi cho những bệnh nhân vô gia cư và cũng không còn người thân cận. Ở trung tâm ung bướu thì có nồi súp ngày nào cũng được nấu lên để chia sẻ bữa no bữa đói cho những người nghèo … ở bệnh viện 115 cũng vậy, vẫn thấy những phần cơm, phần cháo chờ sẵn để chia cho những người nghèo cần đến.

Những người Samaria thời đại vẫn hiện diện và sống với những bà lão neo đơn tuổi giả cô quạnh ở nhà dưỡng lão Bình Lợi, Tân Thông, Phước Tỉnh … hay cưu mang người bệnh như Nhà Cỏ, Cầu Dừa … mà tôi có dịp thăm viếng …

Nhiều và nhiều người Samari khác ngày đêm chung chia với những người nghèo và bất hạnh. Họ không nói và họ chỉ làm và làm thôi.

Những người Samari này phải chăng là những người thực thụ đi tìm Nước Thiên Chúa, đi tìm sự sống đời đời một cách thiết thực nhất trong đời sống phục vụ yêu thương của họ.

Xin cho góp một lời cảm ơn những anh chị em Samaria thời đại mà tôi có một lần quen biết, nhờ cậy và đặc biệt là những anh chị em Samaria thời đại đang ngày đêm chăm sóc những anh em đau yếu bệnh tật tàn hơi của chúng tôi.

Cảm ơn anh chị em rất nhiều bởi lẽ không có sự hiện diện, sự trợ giúp của anh chị em thì chúng tôi và chính bản thân tôi cũng không làm được gì.

Chuyện người Samari hôm nay ta nghe, ta đọc có phần nào thức tỉnh lòng ta hay không ? Hay là cứ nghe cho có nghe, cứ đọc như cứ đọc như một cái máy vậy ?

Cõi lòng, hành động của chúng ta như thế nào chỉ mình Chúa biết mà thôi.

Ta có mặc lấy lòng của người Samaria hay là ta sống theo kiểu của thầy tư tế hay thầy Lêvi vẫn là lời mời gọi tự do Chúa mời chúng ta.

Anmai, CSsR

Tượng

Tượng

Tác giả: Anmai, CSsR

Nét đẹp văn hóa, nét đẹp của lòng người dành cho những người có công với tổ quốc, với dân tộc đó là tạc tượng của những người có công đó để như là ghi ơn, nhớ ơn của họ. Khi bức tượng được tạc xong người ta sẽ tìm vị trí đẹp để đưa bức tượng đó vào để cho mọi người đi qua chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, ghi ơn.

Ngày 9 tháng 7 vừa qua, trong khu vườn Vương Cung Thánh Đường Buenos Aires – nơi mà trước đây Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio đã cai quản trước khi trở thành vị Giáo hoàng của Mỹ Châu Latin đầu tiên trên thế giới – xuất hiện bức tượng chân dung ĐGH Phanxicô. Bức tượng chân dung này do nghệ sĩ Fernando Pugliese thiết kế. Khi hay tin như vậy, Đức Thánh Cha đã gọi điện thoại cho những vị cai quản Thánh Đường phải gỡ bỏ ngay lập tức bức tượng chân dung của Ngài ra khỏi khu vườn.

Dĩ nhiên những người có thành ý tạc tượng Đức Thánh Cha cũng do lòng thành kính và ngưỡng mộ của Ngài nhưng họ không ngờ rằng họ đã làm phật lòng của người được tạc. Họ quên rằng một Phanxicô khó nghèo thời đại đang sống giữa họ. Họ vì nhiệt thành quá nên quên tấm lòng của người thay mặt Chúa hướng dẫn Hội Thánh. Phần Đức Thánh Cha, chắc có lẽ Ngài rất khó chịu nên ra lệnh gỡ bỏ ngay bức tượng. Khó chịu bởi lẽ quan niệm sống của Ngài rất rõ ràng, lập trường sống của Ngài rất rõ ràng về Giáo Hội, và đặc biệt là một Giáo Hội của những con người nghèo.

Những bài học giản đơn từ Đức Thánh Cha Phanxicô đã, đang và sẽ được chuyển tải đến trong Giáo Hội bằng cách này cách khác, bằng những nẻo đường nhân sinh của cuộc đời.

Trong khi giữa cuộc đời này, người ta vẫn vội vàng, vẫn ganh đua nhau để làm điều gì đó được nổi tiếng, được thành công để nhân loại ghi ơn nhớ đời. Ấy vậy mà Phanxicô – một Giáo Hoàng của người nghèo – đã làm ngược lại. Không chỉ bằng lời nói nhưng cả một tinh thần mạnh mẽ, triệt để về lối sống khó nghèo và khiêm hạ ngày mỗi ngày được diễn tả trên cuộc đời của Đức Thánh Cha.

Một lần nữa, câu chuyện bức tượng Đức Thánh Cha bị tháo dỡ là bài học cho mỗi người chúng ta.

Trong cuộc sống, nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã quên đi thần tượng duy nhất và chỉ có một mà thôi đó chính là Thiên Chúa. Thế nhưng trong thực tại cuộc sống, ta có tôn sùng Thiên Chúa là Chúa, là Chủ cuộc đời của ta hay ta lại đi tìm cho mình những ông thần, những ông chúa của quyền lực, của vật chất, của địa vị, của danh vọng.

Và, đôi khi ta mong người khác tạc cho ta những bức tượng thật lớn, bia ghi công thật dài và những bài sớ ca tụng về những kỳ công ta đã thực hiện. Với tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta làm âu cũng là ân huệ nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ta. Thế nên, đừng để cho bất cứ ai tạc tượng hay ghi công cuộc đời của mình cả. Có chăng hãy tạc tượng, hãy ghi công Thiên Chúa là Đấng là Chúa, là Chủ cuộc đời của ta.

Có những người chưa chết nhưng đã được dựng lên bức tượng như đã dựng nên tượng của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Có những người chưa kịp chết nhưng người ta đã viết một tiểu sử thật dài để ca ngợi công ơn của những người đó.

Có những người chưa được chết mà người ta đã xây lăng tẩm và đã tạc bia đá thật lớn để ghi công.

Tất cả những điều đó sẽ rất đẹp, rất tốt với thế gian, với người đời nhưng với Thiên Chúa thì lại khác. Thiên Chúa biết rõ từng người một của chúng ta.

Chuyện quan trọng là ta có được một chỗ nào trong cung lòng của Thiên Chúa hay không mà thôi. Chuyện quan trọng là ta có được Thiên Chúa ghi tạc hình ảnh của ta vào cung lòng của Ngài hay không mà thôi. Và chuyện quan trọng là khi ta nhắm mắt lìa đời ta có được hưởng nhan Thánh của Ngài hay không mà thôi.

Sống trên đời, không hệ tại ở giàu hay nghèo, sang hay hèn, giáo hoàng hay không giáo hoàng, linh mục hay không linh mục. Chuyện quan trọng là ta có được hưởng ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao ban hay ta khước từ ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa mà thôi.

Anmai, CSsR

Tìm sự sống đời đời

Tìm sự sống đời đời

Tác giả: Anmai, CSsR

Mỗi người có một suy nghĩ, một cái nhìn về cuộc đời. Có những người đi tìm vinh quang chóng qua ở cõi tạm nhưng cũng có những người đi tìm sự sống đàng sau cái chết, đàng sau sự sống hiện tại.

Hôm nay, chúng ta nghe một người thông luật chất vấn Chúa Giêsu : : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”.

Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của ông, Chúa Giêsu lại hỏi : “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? “. Nhanh mồm nhanh miệng, ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Nghe ông nói rất chính xác và Chúa Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Tiếp đoạn thoại của Chúa Giêsu với người thông luật, Thánh Luca thuật lại cho chúng ta về dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)

Con đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Đây là đoạn đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).

Chúa Giêsu đã cố ý chọn mẫu người bị nạn là người Samari. Hạng người lạc đạo ấy, không hể có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về dức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.

Chúa Giêsu cho thấy rằng không thể vạch ra một giới hạn trong tình yêu thương đồng loại. Chúa Giêsu cũng không đặt ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong nhiều bài dạy khác, Ngài luôn mở rộng tầm nhìn cho con người về lòng bác ái, về tình yêu thương.

Nghe xong câu chuyện, vị thông luật hồ hởi hỏi : “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”.

Chúa Giêsu lại hỏi ngược lại người thông luật : “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Chúa Giêsu đã đảo ngược cái nhìn bình thường của người đời. Dụ ngôn và câu hỏi của Chúa Giêsu chính là lời đáp trả về vấn nạn sự sống đời đời của người thông luạt.

Sau khi minh giải bằng câu chuyện hết sức thực tế, giản đơn và dễ hiểu, Chúa Giêsu mời gọi ông ta :  “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).

Chúng ta thấy ông thông luật này cũng hay. Ông bận tâm về sự sống đàng sau cái chết. Có những chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Nhiều người quá bận lòng với nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc chắn. Nhiều người trong chúng ta vẫn luôn tìm cách thỏa mãn các nỗi niềm chờ mong của mình trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời.

Nếu sống và mang thái độ đó trong tâm trí nghĩ suy thì Chúa Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21).

Với Chúa Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định ngay ở đời tạm này. Giả như  không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc người ta hành xử như thế nào với người bị nạn chẳng có gì phải bận tâm, phải nặng lòng.

Qua câu chuyện người bị nạn này, chúng ta không có quyền suy nghĩ và nói rằng người thân cận của chúng tai có thể còn là người bà con gần với chúng ta; người cư ngụ cùng đường phố với chúng ta; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với chúng ta; người có thiện cảm với chúng ta, v.v.”.

Chúa Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải giúp đỡi bất cứ ai xuất hiện trên đường chúng ta đi đang ở trong tình trạng quẫn bách. Khi ấy không cần phải suy nghĩ đắn đo rằng họ có phải là người ta phải lo hay không.

Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số “kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.

Tác giả: LM Anmai, CSsR

TÌNH MẸ – TÌNH CHA

TÌNH MẸ – TÌNH CHA


Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam có câu : Một mẹ nuôi được mười con. Câu nói như diễn tả tình Mẹ thật bao la, thật to lớn. Và, người ta ví von, so sánh cái thực tế của lòng Mẹ đó thêm một vế nữa là mười con không lo cho được một mẹ.

Chiều tà, công việc vừa xong, trên đường về ghé thăm gia đình người thân quen. Trong tâm sự buồn, người con rể cho biết bà cụ giờ đây sức khỏe đã xuống và đã phải vào nhà thương để dưỡng thương trong tuổi già sức yếu. Bà ở ngoại quốc và bà đã hưởng phần bảo hiểm nhưng phải đóng thêm một phần cho bệnh viện. Viện phí chia đều cho đầu người trên các con khoảng 150 đô la 1 tháng. Mấy người con dường như từ chối bởi lẽ đưa ra lý do xem chừng như hợp lý. Người anh cả đã đảm nhận phần lo cho mẹ dù anh chị em đã từ chối. Gia đình người con út thân quen mà tôi ghé thăm tuy ở lại quê nhà và cũng gánh vác phần nặng nề lo cho gia đình, lo cho con cái nhưng cũng không nỡ chối từ phần sẻ chia đóng góp.

Người con rể bộc bạch : “Cha ơi ! Ai không đóng thì kệ, tụi này vẫn đóng. Bà đâu còn bao nhiêu lâu đâu mà tính toán”.

Tâm tình của hai vợ chồng người con út quả là hay. Dẫu điều kiện sống ở quê nhà đang rơi vào phần chật vật do kinh tế đang xuống nhưng hai vợ chồng người con út vẫn sẵn lòng với bà cụ. Trong khi đó những người còn lại đều ở ngoại quốc cả. Dĩ nhiên họ có lý do riêng để từ chối phần đóng góp của họ nhưng nó thấy nó làm sao đó.

Lần nọ, hỏi thăm sức khỏe của ông bà cố kia thì được biết là ông bà năm nay ngoài tám mươi cả. Hai ông bà cũng hom hem bệnh tật nhưng thui thủi với nhau cô quạnh trong căn nhà vắng vẻ. Người con trai út cho biết là ông bà cố có mười đứa con. Ban ngày thì người chị gái đến nhà ông bà để bán hàng và nấu cơm. Tối đến thì lại về nhà. Người con làm linh mục thì thi thoảng tạt ngang nhà thăm ông bà tí. Con cháu quá nhiều nhưng chẳng có đứa nào chịu đến ngủ đêm để canh chừng hai ông bà cả.

Nghe xong cũng chạnh lòng. Dẫu biết rằng ông bà cũng khó tính tăng theo thời gian khi tuổi đà quá lớn. Dẫu biết rằng con cháu thuộc hai, ba thế hệ khác nhau nhưng không phải vì thế lại để ông bà trong cô quạnh. Nửa đêm nửa hôm huyết áp lên đột ngột và lỡ có chuyện gì thì ai sẽ là người lo cho ông bà. Cũng dĩ nhiên là ai cũng có lý do  riêng để từ chối chuyện ngủ đêm coi sóc ông bà nhưng lẽ nào lũ cháu đàn con đó không lên lịch đủ để chia nhau mỗi ngày một người đến để ngủ trực đêm với hai ông bà.

Cũng chuyện ông bà cha mẹ, nhớ lại lần kia ở Viện Tim để giúp cho một cha trong nhà. Cùng chung phòng bệnh với cha có hai vợ chồng già nằm cạnh. Hỏi thăm bà cho biết là ông ra Huế chơi, bỗng dưng bị té và đưa vào Sài Gòn ngay để chữa trị. Vào bệnh viện X bác sĩ cho biết ông phải đặt stent mạch vành cho ông. Chi phí đặt khá cao. Ở bệnh viện X đặt rẻ hơn một tí nhưng không có bảo hành. Nghe đâu Viện Tim làm tốt hơn nhưng đắt hơn một tí. Nghe thế, 4 đứa con xúm lại chia nhau mỗi người một phần và chuyển ông qua Viện Tim để chữa cho ông.

Bà mẹ nói : “Bốn đứa con tui nó thấy ba nó như vậy và tự động góp lại với nhau mỗi đứa mấy chục triệu để cùng lo cho ông. Tụi nó nói mắc một chút nhưng bảo đảm cho ba …”.

Chào bà sau khi trò chuyện với bà về bệnh tình của ông.

Trên đường về lại nhà dòng hôm ấy, lòng của mấy người con và hình ảnh của mấy người con của ông cụ đẹp làm sao đó dẫu rằng tôi không biết họ là ai. Nghe tin ba đau như thế và đã sẻ chia với nhau để lo cho ba thật tươm tất.

Gần đây nhất, một cụ già đã cao tuổi phải mổ khớp gối để cho bà được đi lại bình thường. Nhà thì neo đơn và vắng vẻ. Chỉ có 2 vợ chồng người con gái duy nhất lo lắng cho bà. Trong hoàn cảnh neo người đơn chiếc cộng với trăm công ngàn việc nơi công sở nhưng hai vợ chồng cùng chung tay lo lắng cho bà với chi phí mổ không phải là thấp. Trong những ngày nằm bệnh. Hai vợ chồng đã dành cho bà những gì tốt đẹp nhất có thể để lo cho bà. Giờ đây bà bình phục và có thể từng bước từng bước đi lại. Có hôm bà bắt taxi cùng đi đến cả … chợ Tân Định để sắm vải may đồ.

Dĩ nhiên là hai vợ chồng cũng phải còn lo trăm công ngàn thứ nhưng tình cha nghĩa mẹ nó lớn hơn cả những cái bận tâm đó. Trong suy nghĩ của họ. tình cha nghĩa mẹ lớn lắm và chắc chắn rằng ba mẹ cũng đã một đời lo cho con cái nên nay bằng mọi giá họ lo lại cho cụ.

Vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người khi đứng trước tình trạng tật bệnh của cha mẹ khi đã tuổi già sức yếu. Dĩ nhiên ai cũng có lý do riêng và xem chừng ra hợp lý để từ chối hay dè dặt khi phải bỏ thời gian, công sức, tiền của ra lo cho cha mẹ. Dù lý gì đi chăng nữa, lẽ gì đi chăng nữa vẫn không bằng cái lý cái lẽ của đạo lý con người.

Ngày hôm nay ta được như thế này, ta có như thế kia là nhờ ai ? Phải chăng là tự trên trời rơi xuống hay tự bàn tay của cha mẹ nuôi ta từ ngày còn thơ bé.

Hãy làm điều gì đó cho cha cho mẹ khi các ngài còn sống để kẻo khi các ngài ra đi ta không phải ngậm ngùi nuối tiếc

Anmai, CSsR

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

VINH QUANG ?

VINH QUANG ?

Anmai, CSsR

Con người khi bước vào trần gian này, còn bé thì chỉ lo chơi, lo ăn, lo học chứ chẳng nghĩ gì đến danh và đến phận. Lớn lên một tí, khi bước vào đời, dần dần theo năm tháng, con người lại đi vào cái vòng danh lợi quanh quanh để tìm chút danh chút phận gì đó ở đời.

Ước mơ, hoài bão có danh có phận trong cuộc đời cũng là ước mơ hợp tình hợp lẽ thôi bởi lẽ là người thì ai cũng mong thế. Thế nhưng mà cái vinh quang, cái danh dự mà ta có được nó đến tự đâu thì ta cũng nên xét lại.

Thi thoảng, cha anh trên cũng khá xa lớp. Năm nay anh cũng có “tí tuổi”, anh được trao gửi để giúp cho những mầm non của nhà dòng. Thi thoảng có dịp gặp nhau anh em lại hàn huyên tâm sự. Gặp anh, anh truyền cho những cảm nghiệm sống trầm lắng và bước đường khá dài trong đời tu trong những môi trường anh đã đi qua.

Thời còn trẻ, anh đi thanh niên xung phong, lớn lên vào nhà tu. Ở đâu cũng có chung có đụng, có va, có chạm để rồi những lần chung đụng, những lần va chạm ấy là bài học lớn cho đời của anh.

Khá nhiều lần, anh chia sẻ về những lần lên lớp của anh. Anh kể rằng : “Mình hay nói với mấy đứa nhỏ là phải cẩn thận. Bởi vì ngay từ bé, chúng cứ thứ Hai đầu tuần đều hát rất to câu này : “Đường vinh quang xây xác quân thù”. Mình dặn mấy đứa là làm gì thì làm, sống trong nhà tu, cố gắng đừng kiếm vinh quang bằng con đường xây xác anh em”.

Anh kể lại tâm tình khi anh lên lớp đó như nhắc nhớ tôi rằng đừng bao giờ kiếm vinh quang bằng con đường xây xác anh em cả.

Lời anh dặn vẫn còn đó vì lẽ trong cuộc sống, tôi phần nào cũng nếm được những cái vinh quang mà người ta có đó đã xây xác anh em đồng loại của mình. Không phải xây xác một cách bình thường mà là một cách mãnh liệt và bất chấp. Người ta đi tìm vinh quang cho người ta bằng mọi giá, kể cả tán tận lương tâm và che đậy sự thật.

Tối nay, lang thang xem tin tức, bỗng dưng thấy có vị đại biểu tên là Huỳnh Thành, không biết vị đại biểu này có lòng yêu mến Chúa Giêsu hay là đã có cơ duyên nào đó bắt gặp tâm tình của Giêsu hay chăng mà ông đã đề nghị cần thay lời  “Đường vinh quang xây xác quân thù” bằng nội dung khác.

Góp ý cho điều 13 (chương 1) dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 4/6, đại biểu Huỳnh Thành cho rằng giai điệu quốc ca hào hùng rất phù hợp và đi vào lòng người, nhưng nên thay lời cho phù hợp với thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Không biết có đổi, có thay hay không nhưng ông đã can đảm nói lên tiếng lòng của mình. Chắc có lẽ ông cũng đã nghiệm được sự đau đớn của đồng loại là vinh quang của một người hay của một nhóm người nào đó.

Vinh quang mà Chúa Giêsu mời gọi cách riêng cho những ai theo Chúa không phải vinh quang theo kiểu thế gian vẫn tìm. Vinh quang của Chúa Giêsu đó chính là thập giá. Với thế gian, thập giá là điên rồ nhưng với Thiên Chúa lại là vinh quang. Vương miện của Chúa Giêsu chính là mão gai, ngai vàng của Chúa Giêsu chính lại là cây gỗ giá. Thế nhưng chính từ vòng gai nhọn và cây gỗ giá đó chính lại là nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian để rồi những ai tin vào Đấng Cứu Độ trần gian thì được cứu.

Hóa ra là cái vinh quang mà con người vẫn ngày đêm mày mò đi tìm ở cái địa vị quyền cao chức trọng đó cũng chỉ là vinh quang của thế gian mà thôi.

Ít ai nghĩ đến và cũng ít ai dám nghĩ đến như Thánh Anphongsô. Trong tác phẩm Chân Lý Đời Đời, thánh Anphongsô không ngần ngại nói thẳng cho con người về cái thân phận mà chỉ sau 3 ngày thì giòi bọ nó bâu. Dù giàu sang phú quý nhưng khi nằm xuống và chôn trong lòng đất thì con người cũng chỉ là mồi cho giòi bọ mà thôi.

Ở đời, mấy ai được vinh quang như Anphongsô nhưng : Thế gian ơi, ta biết mi rồi ! Và từ ngày ấy, Ngài đã rời bỏ pháp đình chỉ để đi tìm vinh quang của Thiên Chúa mà thôi. Từ bỏ vinh quang thế gian, Anphongsô đã được hưởng vinh quang thật mà Thiên Chúa hứa cho những ai đi theo Ngài.

Hôm nay, một lần nữa nghe một người nhắc đến việc sửa đổi “Đường vinh quang xây xác quân thù” lại một lần nữa nhắc tôi về vinh quang.

Dĩ nhiên trong cuộc sống ai cũng muốn vinh quan nhưng đừng chỉ vì một chút lợi danh để đi tìm vinh quang bằng việc xây xác anh em của mình.

Ngày mỗi ngày, mở mắt ra ta đều thấy được biết bao nhiêu xác của anh em phải nằm xuống để cho vinh quang của một người và một nhóm người được tỏa sáng.

Là người kitô hữu, là người môn đệ chân chính và đích thực của thầy Chí Thánh Giêsu chắc có lẽ không có con đường nào khác là con đường thập giá mà Thầy mình đã đi. Nếu không đi theo con đường thập giá thì kitô hữu chỉ là một cái nhãn, một cái mác mà người ta gắn vào bao bì cho thêm phần bắt mắt mà thôi. Thực chất bên trong như thế nào mới là điều quan trọng.

Giật mình chợt nhìn ra mình là người môn đệ đang đi theo con đường của Thầy Chí Thánh Giêsu để rồi đừng đi tìm vinh quang của thế gian, vinh quang phù vân, vinh quang hão huyền. Tất cả những vinh quang đó dù cho có đi chăng nữa nhưng nó cũng trở về với cát bụi mà thôi. Sống ở đời, căn cốt là vinh quang Thiên Chúa chứ không phải là vinh quang của người đời.

Xin những ai đang muốn xây pháo đài vinh quang của mình thì cứ xây nhưng xin đừng xây xác anh em đồng loại của mình. Vinh quang của mình mà xác hại anh em đồng loại thì đau lắm.

Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, mọi sự khác Ngài sẽ ban cho

Anmai, CSsR

NIỀM TIN SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

NIỀM TIN SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

Chúa nhật X TN năm C

1 V 17, 17-24; Gl 1. 11-19; Lc 7, 11-17

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Con người được Thiên Chúa dựng nên là để sống và sống hạnh phúc. Ngài không làm ra cái chết. Chính vì thế mà sự chết luôn luôn đi ngược lại bản năng và ước vọng của con người và luôn làm cho họ hoảng sợ. Ngày Chủ nhật là cơ hội tốt để đánh thức niềm tin Ki tô của chúng ta bởi khi cử hành sự Phục sinh của Đức Ki tô, chúng ta tường niệm Ngài đã chiến thắng sự chết để dành lại sự sống cho chúng ta.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng về niềm tin của chúng ta về sự sống lại của con người là như thế. Thiên Chúa Hằng Sống ! Thiên Chúa hiện sống, Thiên Chúa hằng sống để rồi những ai tin vào Thiên Chúa cũng sẽ được hưởng vinh quang trong Nước của Thiên Chúa.

Thiên Chúa Hằng Sống và Ngài quyền năng trên tất cả muôn vật muôn loài, Thiên Chúa là chủ con người, là chủ của sự sống này.

Trải qua dòng chảy lịch sử cứu độ, niềm tin vào Thiên Chúa Hằng Sống và là chủ của sự sống được xác tín, được tuyên xưng trên môi miệng của các ngôn sứ, của những người tin Chúa, của những người nói lời Thiên Chúa….

Ông Gióp là một người giàu có và có lòng kính sợ Thiên Chúa, nhưng rồi bao nhiêu tai nạn dồn dập đã xảy ra trên đời sống ông: con chết, tài sản tiêu tan và chính ông mắc phải một chứng nan y không thuốc thang nào chữa trị được. Vợ ông trước hoàn cảnh đó chẳng những không thông cảm lại còn lên tiếng chế nhạo, còn những người bạn thì cho rằng ông tội lỗi đầy mình nên mới nên nông nỗi đó. Trong hoàn cảnh đau khổ và cô đơn tột cùng, ông Gióp đã thốt lên, bày tỏ niềm tin của ông nơi Thiên Chúa.

Tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Ðức Chúa của tôi

Ðây là câu nói đầy hy vọng vì hai lý do: Thiên Chúa là Ðấng hằng sống và có đời sống sau khi chết. Dù trong hoạn nạn, bệnh tật và tang tóc, ông Gióp biết rằng Thiên Chúa là Ðấng hằng sống. Ông gọi Ngài là Ðấng Cứu Chuộc hàm ý chính Chúa là Ðấng giải cứu cả hồn lẫn xác. Và cũng chính niềm tin tưởng nơi cuộc sống đời sau giúp ông có thể thốt lên câu nói sau: “Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Ðức Chúa của tôi.” Ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Ðức Chúa của tôi đó chính là niềm tin và hy vọng của người tin Chúa. Chúa sống và chúng ta sẽ được cùng sống với Chúa.

Lời của một con người đau khổ là ông Gióp cho chúng ta thấy rằng sự sống chúng ta đến từ Thiên Chúa. Chúa ban cho, Chúa cất đi, tất cả nằm trong tay Ngài. Nhưng Thiên Chúa không phải là Ông Trời oái oăm chúng ta thường than trách. Ngài là Ðấng yêu thương, dẫn dắt, thử rèn để chúng ta nên người. Ngài là Ðấng sống và niềm tin của chúng ta nơi Chúa sẽ đưa chúng ta đến chỗ sống với Chúa đời đời.

Với ngôn sứ Isaia thì Isaia công bố rằng : Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế. Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. (Is 25, 6-8).

Quyền năng của Thiên Chúa làm chủ sự sống hôm nay chúng ta thấy được qua ngôn sứ Êlia.

Ngôn sứ Êlia phục sinh con gái bà góa Sarépta hôm nay chúng ta vừa được nghe lại (1V17,17-24), hay tiên tri Êlisê cứu sống con trai bà Sunamita (2V4,18-37) phải khẩn cầu quyền năng của Thiên Chúa trước khi ra tay làm phép lạ. Quyền năng diệu kì đó cho thấy Chúa Giêsu chính là Chúa của sự sống.

“Thiên Chúa không làm ra cái chết” : Không chỉ là chết thể xác mà còn cả cái chết thiêng liêng đưa con người vĩnh viễn rời xa Thiên Chúa. Cuộc sống sau cái chết không phải là niềm tin được tất cả mọi người chấp nhận: người Pharisêu thì tin, còn người Sađukêô thì không. Nói chung, người ta vẫn tin rằng số phận của tất cả mọi người sau cái chết đều giống nhau, đó là một cuộc sống ở âm phủ xa cách Thiên Chúa. Phần thưởng và hình phạt diễn ra ngay ở đời nầy: sống lâu, đông con nhiều cháu, giàu sang. Sách Khôn ngoan khẳng định một cách chắc chắn phần thưởng là cuộc sống với Thiên Chúa dù không nói đến sự sống lại của thân xác. Bài tin mừng cho chúng ta thấy Chúa Giê su là Chúa của sự sống khi phục sinh người con trai duy nhất của bà góa.

“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.”, đó là lời hứa của Đức Giêsu, một lời hứa đem lại niềm hy vọng cho biết bao người qua muôn thế hệ. Các tông đồ thấy dấu lạ nước hoá thành rượu ở Cana thì đã tin vào Đức Giêsu. Những người Do thái khi thấy Đức Giêsu mở mắt người mù từ thuở mới sinh và hôm nay họ lại chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho Lazarô sống lại, thì cũng đã tin vào Người. Và chính nhờ tin vào Đức Giêsu, biết bao nhiêu người đã có đủ can đảm, để vượt qua mọi thử thách, đau khổ trong cuộc sống hàng ngày. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Mỗi ngày chúng ta cũng đang chứng kiến biết bao nhiêu là dấu lạ Thiên Chúa đang thực hiện quanh ta, thế nhưng chúng ta có tin không?

Nếu ta có được một niềm tin vào Thiên Chúa, thì những cách ứng xử trong cuộc đời ta sẽ mang một dáng dấp khác hẳn. Ta không phải là những người lúc nào cũng sợ tương lai, hoặc chỉ sống cho hiện tại. Cuộc sống hằng ngày của tôi sẽ mang một nét đặc biệt khác, trong viển tượng vượt qua, từ một “giấc ngủ” Chúa Giêsu sẽ đánh thức ta một ngày nào đó. Ta sẽ có một niềm xác tín khác và một sự bình an thanh thản lớn hơn trong tâm hồn.

Lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì ngay từ giờ phút này, mỗi người chúng ta xác tín hơn vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm gắn bó với Chúa nhiều hơn qua việc siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh lễ và hiệp lễ, để nhờ có Đức Giêsu trong mình, mỗi người chúng ta cũng sẽ nhận được sự sống muôn đời, như lời Ngài đã hứa. Amen.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

ƠN BÌNH AN

ƠN BÌNH AN

Chúa nhật VI PS năm C

Cv 15, 1-2.22-29; Kh 21, 10-14.22-23; Ga 14, 23-29

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Con người, khi sinh ra, chẳng mang gì theo vào trần gian cả. Sinh ra, lớn lên trong vòng tay cha mẹ, được cho bú mớm, cưu mang và cho bước vào đời. Bước vào đời bươn chải và bắt đầu có trong tay những gì mình đã tạo dựng. Ao ước nhỏ bé, đơn sơ, căn bản của con người đó là đủ ăn đủ mặc. Ai cũng mơ ước như thế nhưng thử hỏi con người có dừng lại mơ ước đó hay không ? Không ! Hiếm có ai bằng lòng với những gì mình đã có và đang có để rồi lòng không bình an. Vì không bình an nên con người đi tìm cái gì đó lấp đầy cho khắc khoải của mình.

Đơn giản nhất, gần nhất mà chúng ta có thể thấy đó là ông bà nguyên tổ Ađam – Evà. Chúa cho hai ông bà được hưởng dùng tất cả trong vườn địa đàng nhưng rồi hai ông bà đâu thỏa mãn, đâu bằng lòng với những gì mình đang có và đã có trong tay. Cũng chính từ cái cảm xúc không đủ đó hai ông bà muốn thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa và đi tìm quyền lực qua lời dụ dỗ của con rắn : “Chẳng chết chóc gì đâu bà ơi, nếu Chúa biết ngày nào bà ăn trái đó, bà sẽ là một thần linh khôn ngoan biết điều tốt, điều xấu”.

Chúng ta quá biết cái kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ : Evà nhìn trái cây thì thấy đẹp mắt và ngon. Bà liền đưa tay hái ăn và đưa cho chồng cùng ăn. Khi họ vừa ăn thì mắt họ mở ra, và họ biết điều tốt điều xấu đúng như lời Thiên Chúa phán. Họ mắc cở chạy tìm lá che thân vì thấy mình trần truồng. Họ đã phạm tội không vâng lời Thiên Chúa.

Kinh nghiệm ấy cứ trải dài trong lịch sử cứu độ. Khi con người đánh mất Thiên Chúa thì khi ấy con người bất an.

Thiên Chúa ở với con người để ban bình an cho con người nhưng con người luôn gạt Thiên Chúa ra khỏi đời của mình.

Còn nhớ trong hành trình sa mạc, con người đã dựng nên con bò vàng để thờ lạy nhưng rồi cũng trở về trạng thái bất an. Con người đi tìm cho mình đủ thứ thần minh để bám víu nhưng chỉ mình Chúa mà thôi. Cứ như thế, cứ như thế con người mãi đi tìm cho mình sự bình an nhưng họ càng bất an khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời của họ.

Thiên Chúa đã chạnh thương con người, đã gửi Hoàng Tử Bình An chính là người con yêu dấu của mình đến với trần gian và ở với trần gian.

Chúa Giêsu đến trần gian để loan báo một Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng cho những ai đi tìm Thiên Chúa và cho những ai muốn sống trong vương quốc của Thiên Chúa.

Sống trong và sống với phận người và trao ban Tin Mừng cho con người nhưng con người vẫn trơ trơ ra như đá và cuối cùng đã loại Hoàng Tử Bình An ra khỏi cuộc đời của mình.

Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, đã bị giết và đã sống lại.

Trang Tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại cho chúng ta lời của Chúa Giêsu hết sứcd dễ thương : “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con  không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).

Tuyệt vời ! Bình an của Thầy không như bình an của thế gian, bình an của thế gian cũng chỉ là bình an tạm bợ và chóng qua.

Biết bao nhiêu người giàu có, sung túc giữa thế gian nhưng sau khi đã cảm nếm được sự bình an khi có Chúa ở cùng thì cuộc đời họ thay đổi.

Đơn giản nhất và gần nhất nơi Chúa Giêsu đó là các môn đệ. Cuộc đời của các môn đệ có đó người giàu kẻ nghèo, người thu thuế, người dân chài … và khi theo Chúa rồi họ cảm nhận sự bình an thật sự và nhất là khi Chúa lại ban bình an cho họ.

Các môn đệ đã dám liều mạng sống của mình cho thế gian để luôn được ở bên Chúa và luôn được ở trong Chúa. Khi và chỉ khi ở trong Chúa thì lòng của các môn đệ mới bình an đủ.

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,

hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.

Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,

duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che : tôi chẳng hề nao núng.

Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.

Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,

duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che : tôi chẳng hề nao núng. (Tv 62, 2-7)

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ

Trong con hồn lặng lẽ an vui

Cậy vào Chúa, Israen ơi

Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,1-3).

Và như thế, những ai cảm thấy có Chúa là nguồn bình an thật sự thì cuộc đời của họ sẽ đổi khác, họ sẽ chẳng cần bám víu vào nhưng vinh hoa mau qua chóng tàn ở trần gian này.

Với Augustinô, cả cuộc đời ngài Cuộc đời của thánh Augustinô là một cuộc đời tìm kiếm; tìm kiếm bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình cũng như tìm kiếm qua sách vở, suy tư. Tuy trải qua cuộc đời khá phóng đãng, nhưng ta nhận thấy tâm hồn của Augustinô cũng rất bén nhạy, rất “mở”, rất “mềm” hầu có thể để cho Chân Lý soi tỏ. Chúng ta nhận thấy nhiều lần, do nhiều biến cố khác nhau, chẳng hạn người bạn qua đời, qua việc đọc Cicéro, đọc Plotin, việc gặp Ambrôsiô…lòng Augustinô đã rung lên xao xuyến…Chính cuộc tìm kiếm không ngừng, tìm kiếm trong thái độ mở đã đưa Augustinô đến với Chân Lý đích thực. Cuộc đời đó có thể đúc kết lại trong chính châm ngôn của ngài: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con vì Chúa, nên tâm hồn con xao xuyến mãi cho tới khi nào nghỉ yên trong Chúa mà thôi!”

Với Anphongsô, Ngài đã thành đạt theo nghĩa xã hội, song không lấy đó làm mãn nguyện và đã dứt bỏ nó. Ngài là con nhà quyền quý, giàu sang; đỗ đạt cao: lấy được cả hai bằng tiến sĩ luật cả đạo lẫn đời, danh tiếng lẫy lừng. Thế nhưng, năm 1723, ngài từ bỏ tất cả, từ giã chốn pháp đình, là nơi đại diện cho công lý nhưng đầy dẫy bất công và dối gian, để bước theo một tiếng gọi, tiếng gọi của Thiên Chúa hầu đi vào chiều sâu của đời sống nội tâm, đời sống thật của một con người thật hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và thuộc về tha nhân.

Với Phanxicô, Đề kháng lại nghề nghiệp kinh doanh cũng như khát vọng giàu sang của người cha, cậu bé bộc lộ nỗi đam mê dành cho sách vở. Francis nổi tiếng trong vòng bạn bè nhờ tửu lượng cao và giao du rộng, đa phần là với con cái của giới quý tộc. Ngay từ những ngày này, Francis đã tỏ ra thất vọng đối với thế giới cậu đang sống, thể hiện qua cách xử sự của công tử Francis khi gặp một người hành khất. Francis dành nhiều thời gian sống trong cô độc, nài xin sự soi dẫn từ Thiên Chúa. Dần dà, Francis tìm đến chăm sóc những người mắc bệnh phong, căn bệnh bị xã hội thời ấy xa lánh, đang sống trong những trại phong gần nhà. Khi hành hương đến La Mã, Francis ngồi bên cửa các nhà thờ để hành khất cho những người nghèo.

Thế đấy ! Tất cả sự vinh hoa phú quý ở đời này chẳng là gì cả đối với Augustinô, Anphongsô, Phanxicô và nhiều và rất nhiều vị thánh nữa. Tất cả cần nhất đó chính là sự bình an từ Thiên Chúa, từ Chúa Giêsu su như Chúa Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con  không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).

Chúa Giêsu nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan : “Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại.

Đức Giêsu có thể ban bình an cho các Môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an : “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bìn an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.

Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta nép mình vào lòng Chúa và chọn Chúa là gia nghiệp của đời mình.

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ

Trong con hồn lặng lẽ an vui

Cậy vào Chúa, Israen ơi

Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,1-3).

Lm. Anmai, C.Ss.R.

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

                                                                                                                HẠNH NGUYÊN

                                                                                                           trích Ephata: 525

 VTT ZZAUG 22  JPEG HTVY

             Huỳnh Thục Vy

             Trịnh Kim Tiến

“Trịnh Kim Tiến, tên em gắn liền với những biến cố vui buồn của đất nước trong gần một năm qua. Dòng nước mắt em khóc cha, ông Trịnh Xuân Tùng, bị công an đánh chết, làm bao nhiêu người Việt Nam trong và ngoài nước khóc theo. Nhìn tấm hình em khóc, tôi cảm thấy thương em vô cùng vì trong giọt nước mắt của em có bóng của đời mình.

Vài tuần sau, nhìn Kim Tiến mỉm cười cùng các bạn hiên ngang đi giữa lòng chế độ độc tài, lòng tôi chợt dâng lên niềm hãnh diện:

“Khi em xuống đường vì Hoàng Sa, Trường Sa

Đồng bào bước cùng em

Thanh niên, sinh viên, học sinh bước cùng em

Sài Gòn bước cùng em

Hà Nội bước cùng em

Trong nước bước cùng em

Ngoài nước bước cùng em”

( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc )

Tôi cũng như bao người Việt Nam xa xứ nặng lòng với quê hương mang tâm trạng như nhà thơ Trần Trung Đạo, dõi theo những thăng trầm của vận mệnh dân tộc, buồn vui với non sông cùng bước chân những người yêu nước. Kim Tiến đã làm bao người khóc cùng em khi cha em bị đánh gần chết giữa công đường, hân hoan nhìn dáng đứng thướt tha hiên ngang trong tà áo dài truyền thống khi biểu tình bảo vệ Hoàng Sa – Trường Sa:

“Thấy áo em bay giữa cờ gió lộng
Xin nghiêng mình tặng Em nhành Nguyệt Quế
Viết bài ca tặng Em Người Con Gái Việt Nam !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Da Vàng !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Việt Nam !” 

( Nhạc và lời Dzuylynh – Người Con Gái Việt Nam ) 

Mới đây bao người uất ức cùng em khi biết bản án bất công của những người hành xử pháp luật ( xem ghi chú bên dưới ). Em đã trở thành người con của Chúa: Monica Trịnh Kim Tiến, sau nhiều đau thương mất mát. Hôm nay tôi chúc mừng hạnh phúc khi bên em có người bạn đời Phaolô Thành Nguyễn đồng hành đi tìm công lý. Kim Tiến chọn ngày thành hôn cũng gần ngày kính thánh Bổn Mạng Monica, vị thánh quan thầy giới hiền mẫu. Hiếm có những trường hợp trong gia đình cả hai mẹ-con cùng là Thánh, nhất là trong hoàn cảnh gia đình tưởng như tan nát tuyệt vọng lại biến thành hạnh phúc tuyệt vời góp phần cho Giáo Hội vị đại Thánh Augustinô.

Ai mà không đau lòng khi nhìn những giọt nước mắt nơi em ngày cha mất cách tức tưởi, tiếng khóc của em không hẳn chỉ cho cha mà còn là tiếng kêu thê lương của cả một dân tộc oằn oại bao năm dưới luật pháp kẻ bạo tàn, nhà báo Lê Diễn Đức đã xót xa:

“Tiếng khóc em thảm thiết cứa vào thịt da.

Em, người con gái mất cha !

Uất ức, đau thương trùm lên mặt phố !”

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Nếu trước đây tôi vui mừng khi chị Tạ Phong Tần trở về mái nhà Cha và hãnh diện danh hiệu “Nhà Báo Tự Do Công Giáo” khi chị mạnh dạn viết những bài đấu tranh cho Công Lý và Sự Thật. Hôm nay niềm vui trong tim gấp bội hơn khi biết tin Kim Tiến, Thục Vy cùng đón nhận Đức Tin Công Giáo. Việc trở về cùng Cha không bao giờ là một sự muộn màng: người đến trước ( giờ thứ nhất ) hoặc đến sau ( giờ thứ 25 ) rốt cuộc cũng chỉ hưởng công… một đồng. Sự trở về của các cô từ chính trong tâm hồn cảm nghiệm Chúa chắc hẳn hơn một số người theo Đạo dòng như tôi. Có câu danh ngôn nào đã nói: Cánh cửa này đóng sẽ mở cho ta cánh cửa khác, như ánh sáng cuối đường hầm, niềm tin chính là ân điển của Thiên Chúa luôn bao bọc và mời gọi chúng ta ở những thời điểm khác nhau.

Chị Tạ Phong Tần về với Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong thư gửi chúc mừng Kim Tiến, Thục Vy, Hoàng Vy chị đã viết: “Chúng ta cùng nhau cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ, cám ơn Giáo Hội đã cho chúng ta niềm tin và sự sống, đặc biệt chị muốn cám ơn các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã làm cầu nối để chúng ta đến được với Chúa. Bất cứ ai tha thiết với công lý, sự thật và tình thương đều có thể gặp được Chúa, qua kinh nghiệm của chúng ta, chị tin như thế. Bốn chị em mình mỗi người được gặp Chúa theo nhiều kiểu khác nhau. Chị khác các em, chị bước ra từ vũng lầy của tuổi trẻ sai định hướng, chị đến với Chúa trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, tuổi xuân của chị có quá nhiều sai lầm mà ngày ấy chị ngỡ tưởng mình đúng hướng…” ( http://www. chuacuuthe. com/archives/34947 – Thư gửi Hoàng Vi, Thục Vi và Kim Tiến ).

Còn Kim Tiến, chị đã cảm nghiệm: “Không phải anh em chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn anh em” ( Ga 15, 16 ), đúng vậy, chính Chúa đã chọn tôi làm con của Người. Câu nói này đến bây giờ, sau khi trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, tôi mới hiểu được hết ý nghĩa của nó. Thật là khó nói hết ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã mang đến cho tôi, thật sự nó rất huyền bí” ( Kim Tiến – Chúa trong tôi ).

Phần Maria Thục Vy khi được hỏi về lý do trở nên người con Chúa, cô viết: “Con tin rằng cuộc đời con không phải do con người quyết định mà được. Lúc con bị bắt, con tự nhiên thấy mình luôn được chở che. Con chưa hiểu vì sao con lại có cảm giác ấy. Nhưng con hy vọng nếu có một Đấng cao vời mà con chưa từng biết thì con mong các cha giúp cho con một cơ hội để bước vào con đường nhận biết Ngài. Đó là những lời con nói thật lòng mình” ( Nữ Vương Công Lý ).

Ban đầu, khi đọc những bài viết của Huỳnh Thục Vy, biết cô còn rất trẻ nhưng tư tưởng nhận định rất lớn, tôi còn hơi chút hòai nghi, nhưng hôm nay niềm tin và sự ngưỡng vọng cô là một điều khẳng định không chỉ nơi tôi mà còn biết bao nhiêu người. Nhà báo Lê Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hòa trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới…”, hay “Cái đẹp của Huỳnh Thục Vy không chỉ của một người, nhưng là cái đẹp của cả một non sông” ( Nguyễn Bá Chổi – Một bông hồng cho Thục Vy ), và “nhà thơ năm chữ” Thái Bá Tân đã phác họa thật tâm đắc:

“Cháu – Cô gái xinh đẹp,

Đẹp cả ngoài lẫn trong.

Nhìn cháu mà cứ nghĩ,

Cái đẹp của non sông.”

( Thái Bá Tân – Huỳnh Thục Vy )

Thượng Đế là nguồn chân thiện mỹ từ trong sâu thẳm của con người, dù bạn theo bất cứ tôn giáo nào, đạo đức tâm linh, nhân bản có những chuẩn mực căn bản rất gần nhau, tình đồng loại, nghĩa đồng bào, lòng yêu quê hương thể hiện rất gần gũi. Huỳnh Thục Vy mang một ước mơ cháy bỏng cho dân tộc, thể hiện qua nhiều bài viết: “Tôi thương dân tộc tôi – dân tộc anh hùng có bốn ngàn năm Văn hiến đã và đang phải gò lưng nuôi cả một chế độ độc tài bất công, không những thế lại bị tước hết các quyền tự do được sống như những con người chân chính và có ý chí. Trong tình yêu thương ấy, với nhiệt huyết trào dâng trong lòng một cô gái trẻ, tôi đang mơ một ngày cả nước Việt Nam từ Hà Nội, Đà Nẵng, Sàigòn, tất cả chúng ta – những người Việt Nam không phân biệt già trẻ, nam nữ, Phật giáo đồ hay con Chúa… cùng xuống đường trong những khẩu hiệu chống độc tài, tham những, đòi quyền tự do dân chủ. Và rồi sẽ cùng nhau kiến tạo một Việt Nam với diện mạo mới”.

Chính tình thương vô biên nguồn Chân Thiện Mỹ của mọi tôn giáo chân chính, cộng với những đau thương từ gia đình thôi thúc trong cô lòng yêu nước hoài bão cho tương lai dân tộc. “Thục Vy sinh năm 1985 tại Tam Kỳ. Tình yêu quê hương và nỗi đau mười năm tuổi thơ là những ngày đi thăm cha trong tù, đã hun đúc tâm hồn của cô bé xinh đẹp, hồn nhiên lớn lên bên giòng sông Bàn Thạch, Quảng Nam thành một nhà lý luận chính trị vững vàng. Kiến thức Thục Vy dẫn chứng trong các bài viết vượt trội hơn tuổi tác và điều kiện trưởng thành thiếu thông tin bên ngoài mà em đã phải trải qua. Sinh ra và lớn lên trong một chế độ độc tài, một nền giáo dục ngu dân lạc hậu, cây bút Huỳnh Thục Vy nổi bật như một bông hoa hiếm hoi mọc lên giữa rừng gai nhọn. Có thể nhiều khi em cũng cảm thấy cô đơn, nhưng từ trong nỗi cô đơn đó đã sáng lên niềm kiêu hãnh… Huỳnh Thục Vy không chỉ là niềm vui của tuổi trẻ Việt Nam mà còn cho tất cả những ai đang nặng lòng với đất nước” ( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc ).

“Dải đất Việt Nam 
Nằm co ro như một kẻ ăn mày 
Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố 
Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ 
Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương.
Thuở Hùng Vương 
Đi chân đất dựng sơn hà 
Bao nhiêu máu đã âm thầm đổ xuống 
Khi Trưng Trắc trầm mình trên sông Hát 
Chỉ mong giữ tròn trinh tiết với giang san.” 

( Trần Trung Đạo – Thưa Mẹ Chúng Con Ði )

Điều khẳng định chắc chắn đau khổ của phụ nữ Việt Nam hơn bất cứ người phụ nữ nào trên thế giới, hai gánh quê hương gia đình luôn oằn trĩu đôi vai. Thân phận quê hương và gia đình đã quyện vào máu xương người phụ nữ Việt Nam. Có nơi đâu trên trái đất này con người phải trải qua hàng ngàn năm chinh chiến, nếu hình ảnh chinh phu oai hùng đi vào hùng sử thì bóng thầm lặng chinh phụ mòn mỏi chờ chồng dạ sắt son đã thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Cho tôi xin trân trọng gọi thầm mãi tiếng yêu thương lẫn tự hào đến bao Anh Thư Liệt Nữ nước Việt: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Cô Bắc, Cô Giang… và hôm nay con cháu các vị anh hùng vẫn tiếp tục hy sinh vì đại nghĩa, dấn thân cho Việt Nam hôm nay hướng đến tương lai. Những cái tên hôm nay: Đặng Thị Kim Liêng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Thị Kim Tiến, Tạ Phong Tần… đã và mãi mãi đi vào lòng người, là những tấm gương cổ vũ sức mạnh tiềm tàng lòng yêu nước của dân tộc một thời gần như quên lãng:

“Cho con thầm lặng gọi tiếng: Mẹ ơi !

Mẹ của Lê Sơn, Mẹ của Tạ Phong Tần.

Như hạt cải mục ươm mầm dưới đất.

Để sớm mai cả dân tộc hồi sinh”.

( Tú Anh – Cho con thầm gọi )

Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình khẳng định rằng: “Các tấn kịch và bắt bớ chống lại các Kitô hữu sẽ không ngăn cản được việc làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa”. ( Linh Tiến Khải dịch – Bách hại không thể ngăn chặn chứng nhân Kitô hữu )

Bác ái là căn bản của đời sống mọi Kitô hữu, không thể chỉ kính mến Thiên Chúa trong Nhà Thờ bằng câu kinh tiếng kệ, điều quan trọng là bạn hãy làm chút gì đó cho những người anh em để thực thi công lý và tình thương. Ý chí nơi Kim Tiến thật đáng khâm phục, blogger Mẹ Nấm đã ghi lại cuộc trò chuyện với cô:

“Tôi cảm thấy công lý này cần tự mình giành lấy, và tôi sẽ đứng ra trước tòa để tranh luận công khai minh bạch trong phiên tòa sắp tới. Tôi sẽ nhìn thẳng vào các vị quan toà, những người đang nắm giữ trong tay cán cân công lý để khẳng định với họ một điều rằng: công lý không bao giờ chết, nó chỉ đang bị chèn ép…

Tôi tin rằng con đường tôi đi luôn có bạn bè và đồng bào tôi cùng đồng hành và chia sẻ. Thật sự đến giờ này, tôi chỉ biết cảm ơn mọi người. Mọi người đã cho tôi sức mạnh, đã cho tôi niềm tin. Niềm tin để cố gắng sống cho đúng nghĩa một con người, niềm tin rằng mỗi cá nhân, dù nhỏ bé đến đâu cũng có thể góp phần, góp sức, góp một viên gạch khiêm tốn nhưng cực kỳ cần thiết để xây dựng nhà Việt Nam thân yêu, không phải cho chúng ta mà cho thế hệ mai sau”. ( Mẹ Nấm – Chị có về được không ? )

Tôi viết bài này giữa lúc hôn lễ của Maria Kim Tiến và anh Paul Thành Nguyễn đuợc tổ chức tại Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn, Chúa Nhật 26.8.2012 và cũng được biết tin thêm là vào ngày 3.9.2012 đến đây, Maria Huỳnh Thục Vy và Lê Khánh Duy sẽ làm lễ thành hôn tại Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam. Mừng cho hai em có niềm tin, hạnh phúc bên những người chồng đồng chí hướng tương trợ, giúp đỡ, an ủi trong đời sống hôn nhân và hành trình đi tìm công lý cho cha, cho gia đình, cho dân tộc dưới sự bảo trợ của Đức Maria, Thánh Phaolô, Thánh Monica… để rồi một ngày nào đó:

“Em ngày mai hái những cành hoa của tình yêu, công lý

Cắm lên mộ cha và lên mảnh đất này

Cho Hà Nội thu về tay ấm lại cầm tay ?

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Ghi Chú:

Phiên tòa sơ thẩm ngày 13.1.2012 tại Tòa Án Nhân Dân Hà Nội diễn ra rất nhanh chóng, sơ sài và bất công với tội danh ‘làm chết người trong khi thi hành công vụ’ với bản án chỉ 4 năm tù giam tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ninh, tất cả những người đồng phạm đều không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào Tòa Án robot’, ngày 14.5.2012, tại phiên tòa phúc thẩm trong một phiên xử kín, anh chị em ruột nạn nhân không được tham dự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự vì không triệu tập đầy đủ nhân chứng…, nên gia đình yêu cầu hoãn lại phiên tòa và đề nghị triệu tập đầy đủ những người liên quan. Trong phiên phúc thẩm ngày 17.7.2012, bạn Kim Tiến đã tự tham gia tranh luận trong phiên tòa, không luật sư. ( Hà Minh Thảo – Những Người Việt Công Giáo Mới ).

HẠNH NGUYÊN, Boston, 26.8.2012