Nỗi đau của tuổi già-Huy Phương

Huy Phương

Ở đây, chúng Ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường… nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này rồi. Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.

Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “đem cha bỏ chùa”. Cũng lại câu chuyện của một người già…

Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng. Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường LOS mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.

Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có pass- port của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái.

Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng.

Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi.

Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off.

Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời.

Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá 1ớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng.

Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi:

-“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?”

Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:

-“Bả ấy đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ.

Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm

Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không biết tiếng Anh, bà sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”.

Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.

Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

Huy Phương

From: Nguyen NThu

Câu Chuyện Buồn Ngày Tạ Ơn – ThanksGiving Day…- Tạp Ghi Huy Phương

Van Pham

Câu Chuyện Buồn Ngày Tạ Ơn – ThanksGiving Day…

Tạp Ghi Huy Phương

Năm rồi, tôi mất hai người bạn. Không phải họ chết thành ma chôn trong nghĩa địa hay thiêu ra tro gửi cho gió ngàn bay. Những người này còn sống, nhưng đối với tôi cũng như gia đình họ, xem như họ đã đi qua một thế giới khác! Năm nay, trong bữa ăn sum họp cuối tháng 11 tại Hoa Kỳ, những người chồng, người cha này không có mặt, vì vậy tôi muốn dành câu chuyện này cho những ngày cận kề của lễ Tạ Ơn.

Phải nói đây là hai người bạn khá thân của tôi, đều sang Mỹ khoảng năm 1990 hay trễ hơn, qua một thời gian tù đày dưới chế độ Cộng Sản khá lâu, thời gian đủ để bù đắp cho họ một cái visa để họ và cả gia đình vào định cư tại Mỹ. Đến Mỹ, một người định cư ở miền cực Đông, chiều chiều có thể hóng gió từ Đại Tây Dương, người kia ở miền cực Tây, buổi sáng cuối tuần, thường rửa chân trên biển Thái Bình, nên chúng ta tạm gọi họ, người này là người bạn miền Đông và người kia là người bạn miền Tây.

Sang đến đây, anh bạn miền Đông tâm sự: “Không có nước Mỹ, thì giờ này con trai tôi đang ôm bình cà-rem ở chợ Cồn, làm sao mà trở thành kỹ sư như hôm nay!” Người bạn miền Tây thường nói nghĩ đến những ngày đạp xe đi giao mối cà phê giữa Sài Gòn nắng gắt, bữa đói bữa no, giờ hạnh phúc được nước Mỹ giang vòng tay đưa cả gia đình anh đến Mỹ.

Sang Mỹ trong vòng hơn mười năm, anh nào cũng khá giả, có một ngôi nhà tươm tất, và mới chục năm trở lại đây, về hưu, ai cũng có đồng lương cao. Tôi không nghĩ là vì hưu cao, người ta có thể sống ung dung, dư dả ở ngoài nước Mỹ, nhưng đó có thể là một lý do tài chánh đã ảnh hưởng đến quyết định trở về Việt Nam của họ. Nếu họ còn độc thân, trơ trọi, mà còn cha mẹ già nơi đất quê hương, sự trở về của họ chắc cũng có lý do thông cảm.

Người bạn miền Đông của tôi, sau khi đi tù về, người vợ đã ra đi, bỏ lại bầy con dại, mà đứa nhỏ nhất mới lên ba tuổi. Trong những ngày ấy, một người đàn bà khác đã nhận kê vai gánh vác cuộc đời vô vọng rách nát của anh. Sang đến Mỹ, anh thành công trong thương mãi, về chiều, có một số lương hưu lớn, có thể sống dư dả đến cuối cuộc đời.

Anh bạn miền Tây của tôi, chân ướt chân ráo đến Mỹ, bắt đầu với một cuộc đời khá vất vả, nhưng may mắn sau đó, làm công nhân trong một hãng lớn, tiếng tăm của nước Mỹ. Các con của anh, ngày nay đều là những người thành đạt.

Đến tuổi về hưu, gia đình họ đều đổ vỡ sau những chuyến đi Việt Nam.

Nơi quê hương ngày trước, người bạn miền Đông gặp một người đàn bà tuy không phải thuộc loại nhan sắc, hay còn tuổi xuân sắc, nhưng chắc chắn là đẹp hơn, trẻ hơn vợ nhà, và lời lẽ hẳn là ngọt bùi, khêu gợi lại những thứ tình yêu thời trẻ dại. Sau một thời gian đắn đo, suy nghĩ, anh xẻ đôi căn nhà hạnh phúc ngày trước, quyết định làm lại cuộc đời bằng cách trở lại quê hương, sống với người đàn bà kia.

Bây giờ bạn bè cũ ở Việt Nam, sáng sáng gặp anh nhúm lửa, pha vợt cà phê đầu ngày, dọn bàn ghế cho khách ngồi theo nghề của nàng, và mỗi ngày, như lời tỏ bày chân thật, cần đến một viên viagra.

Người bạn miền Tây, đến tuổi “tri thiên mệnh” mới gặp người tri kỷ, mới ngộ ra được, thế nào là tình yêu. Để bù vào số tuổi, anh có số tiền. Họ là những người trong giới yêu thích văn nghệ, và người anh gặp hẳn là một nàng Thơ ngày xửa ngày xưa, thế là anh ra đi không trở lại. Tình yêu đâu phải dễ kiếm, thì ra lâu nay, cái thứ anh tưởng là tình yêu, chỉ là một thứ tình nào đó, mãi cuối cuộc đời anh mới được gặp mặt cái gọi là Tình Yêu (viết hoa) đích thực!

Thì ra lâu nay những người bạn của tôi không tìm thấy hạnh phúc. Người ta định nghĩa “hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí!”

Những người bạn tôi đang sống ở một đất nước mà loài người cơ cực, ai cũng mong tìm đến. Những người bạn tôi đang có một mái ấm gia đình, đời sống cao hơn no đủ là dư dả, vợ không ngoại tình, con không hư hỏng & nhưng như vậy, chưa đủ cho tiêu chuẩn của một thứ gọi là hạnh phúc.

Trong một chừng mực nào đó, có lẽ hai người bạn của tôi tâm đắc với câu nói của George Sand: “Chỉ có một thứ hạnh phúc trên đời, là yêu và được yêu!” Và như vậy, lâu nay họ chẳng hề yêu ai và chưa bao giờ được yêu! Phải chăng thực sự, bạn tôi yêu sắc dục, và được yêu lại vì có tiền. Tôi cũng không ngờ rằng, đến lúc xế chiều, mà ngọn lửa tình yêu của hai người bạn tôi, bùng phát mạnh mẽ đến như vậy!

Lý Ngư trong Nhục Bồ Đoàn, một tác phẩm cổ bên Tàu về sắc dục, đã viết: “Theo lời các nhà nho xưa, thì cái vật dưới eo phụ nữ chính là cánh cửa sinh ra ta, mà cũng là cánh cửa chôn ta!”.

Hai người bạn tôi không thể đem một người đàn bà khác không là vợ mình từ Việt Nam sang định cư tại Mỹ, trước sự chê trách của dư luận và sự quay mặt của gia đình, vậy tốt hơn là trở lại Việt Nam.

Tôi hy vọng rằng, một ngày kia, dù thế nào, hai người bạn tôi cũng không trở lại Mỹ, với một tấm thân tàn tạ để kiếm một chỗ trong bệnh viện hay đủ thuốc men dùng cho một giai đoạn hấp hối.

Đã hai năm, rồi tôi nghĩ đến ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay trên đất Mỹ, có hai gia đình quạnh quẽ, buồn phiền và chắc bạn bè, thân thuộc cũng không ai nỡ nhắc lại tên của người bạn tôi đang ở xa. Tôi biết họ cũng như tôi, đã có những ngày tù đày nơi rừng thiêng nước độc, đã có một người vợ khốn khổ, tảo tần xuôi ngược, đã có những đứa con bất hạnh bơ vơ.

Chúng ta tin tưởng gì ở một người lính thất trận, một người đã ngồi trong nhà tù tập trung, đã được thoát ra, còn bất cố liêm sỉ trở lại chốn xưa, vì một thứ gì đó dưới cái eo của đàn bà. Hai người bạn tôi đã quên rất nhiều thứ, trong đó có giá trị của gia đình, đạo lý và những điều ân nghĩa.

Tôi còn nhớ câu nói của MC Nguyễn Ngọc Ngạn: “…Một phần nữa vì người MC lâu đời của Thúy Nga là một cựu tù nhân chính trị, đã viết nhiều sách phê phán chế độ trong nước.” Tôi không đánh giá cao phẩm chất tất cả những người gọi là “cựu tù nhân chính trị!”

Hai người bạn tôi, một người ở miền Tây, một người ở miền Đông, sau thời gian đến Mỹ, ai cũng có viết báo, in sách và đã không tiếc lời lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam!

Nỗi Buồn Cuối Đời – Huy Phương

Nỗi Buồn Cuối Đời.

 Huy Phương

Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. 
 
Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. 
 
Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! 
 
Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. 
 
Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. 
 
Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. 
 
Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?” 
 
 Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. 
 
Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. 
 
Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?

Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông. Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.
Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!

Huy Phương

From: Anh Dan & KimBang Nguyen

Trở về quê cũ – TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

Van Pham

TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

Trở về quê cũ

Hạ Tri Chương, thi sĩ đời Thịnh Đường, xa quê từ nhỏ, lúc trở về đã già, tuy còn giữ giọng nói quê nhà, nhưng lũ trẻ thấy người lạ, bèn hỏi “Khách ở phương nào đến đây?” (Khách tòng hà xứ lai?)

Đối với chúng ta, xa quê gần bốn mươi lăm năm, gần nửa thế kỷ, tính theo đời sống của một con người, thì thời gian này cũng là quá nửa đời người.

Lúc bỏ nước ra đi, dù có hai mươi ba mươi, thì nay trở về cũng đã là một ông già bảy, tám mươi tuổi, tóc đã bạc, trí nhớ không còn minh mẫn như xưa.

Gặp lũ trẻ trong nước ngày nay, dù là ở trên con đường quê hay trong quán cà phê phố thị, cũng không ai đặt câu hỏi: “Khách ở phương nào đến đây?” Vì, lớn lên chúng biết và có nhiều kinh nghiệm về những người tuồng như xa lạ trở về.

Những ông già lạ mặt trở về lối xóm được biết là những “Việt kiều” không cần phải hỏi, nên nếu còn sống, ông Bùi Bảo Trúc có “tưởng tượng mai về khu Ngã Sáu” thì người ta cũng biết ông là ai. Chỉ tiếc rằng: “Tiếng quê nghe vẫn đầy âm cũ, mà cũng lạ tai câu trẻ thơ,” vì ngôn ngữ đã khác hẳn xưa rồi!

Tôi có một cô bạn, hồi hương sau nhiều năm xa xứ, đi một chuyến từ Sài Gòn ra Hà Nội. Để tránh mua cái vé xe lửa giá cao Việt Kiều, cô mượn cái “Chứng Minh Nhân Dân” của người nhà bản địa để mua vé “công dân XHCN,” tiết kiệm được mấy chục đồng.

Lên xe lửa, khi người soát vé xem vé, bấm vé cho cô xong, lúc nhận lại tấm vé, cô buột miệng nói hai tiếng: “Cám Ơn.” Soát vé chứ có cho chác, biếu xén gì đâu mà phải cám ơn. Cái này mới mệt, người trong nước đã quên mất hai chữ “cám ơn” lâu rồi. Vậy đây là người ở đâu mới lại?

Người soát vé bèn cười hỏi: “Khách ở phương nào đến đây?” Thôi đúng đây là Việt Kiều hồi hương, phải mua vé khác giá cao hơn, chịu khó đóng thêm mấy chục đồng, chưa phạt cô cái tội gian dối là may rồi!

Ra Hà Nội, cô Việt kiều đói bụng vào quán ăn, cũng còn mang cái giọng “đi xa mới trở về,” cô nói với người bán hàng: “Cho tôi bát bún!” “Hương âm vô cải” nhưng nội dung thì đã thay đổi rồi!

Cô được câu trả lời như tát vào mặt: “Ở đây có bún bán, chứ chẳng có bún cho!”

Lạ đường hỏi thăm, thì được câu trả lời là “Đéo biết!”

Những Hạ Tri Chương thời nay dù đã luống tuổi, tóc đã bạc hồi hương, bỡ ngỡ như thấy mình trẻ lại khoảng năm mươi tuổi khi nghe một thằng oắt con hay một cô gái đáng tuổi cháu ngoại, gọi khách bằng tiếng “mình,” nghe qua có vẻ ngọt ngào thân thiện, nhưng quả là suồng sã. Tiếng đại danh từ “mình” bây giờ vừa nói về ngôi số một, như một người tự giới thiệu trên mục “tìm bạn tri âm” của một tờ báo: “Mình năm nay ba mươi tuổi, tốt nghiệp Đại Học…” mà cũng là ngôi thứ hai “mình ơi” như gọi một người yêu dấu!

Như một mục trên tở báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ ngày xưa.

Người đi xa về, được nghe tiếng “mình” trong ngôi thứ hai này, được hỏi, sau khi kéo ghế ngồi xuống trong một nhà hàng: “Mình ăn gì?” Hay là thân mật hơn như trong gia đình: “Nhà mình có mấy người?”

Ông Hạ Tri Chương nhìn kỹ mặt người đối thoại, không hề thấy quen biết, cũng chẳng phải là bà vợ già của mình đang ở một nơi xa quê hương, thế thì vì sao lũ trẻ, chúng gọi ta bằng “mình?”

Chữ nghĩa bây giờ loạn xạ, mà âm thanh thì xa lạ, nghe chất chua hơn là vị ngọt, chẳng còn phong cách như của Hà Nội một thời. Có lẽ người đi mang theo quê hương, nên lúc trở lại nhà, vẫn giữ giọng nói ấy, chữ nghĩa ấy, phong cách nho nhã, trong sáng ấy, đã bao năm “hương âm vô cải” (tiếng quê vẫn thế).

Người đi xa trở về quê cũ, nói cũng không ai hiểu, mà cũng chẳng hiểu gì ai nói, ngẩn ngơ đoán chừng. Không lẽ cùng quê hương với nhau mà phải cần đến người thông dịch.

“Ôi, chốn quê hương đẹp hơn cả!” Ông già, bà cụ nào mà không nhớ câu nói ấy trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của một thời niên thiếu. Ai mà không biết chuyện vào mùa Thu, khi cây thay lá, cũng là lúc những con cá hồi trưởng thành, sau một quãng thời gian vùng vẫy ngoài biển lớn, ngược dòng nước để trở về với cội nguồn. Mới đây, nhiều người cũng đã từng nghe câu: “Nếu đi hết biển, con sẽ trở về làng xưa!”

Thế nào chúng ta cũng phải trở về, nhưng không phải là hôm nay!

Trở về khi bạn bè, thân quyến đã không còn ai. Trở về không còn ai là tri kỷ. Trở về khi đất trời trống vắng người xưa, mà những người mới không quen, lũ trẻ thì ngu ngơ xem chúng ta là người lạ lạc loài trên đất mình ngày cũ, hỏi: “Khách tòng hà xứ lai?” (Ông ở xứ nào tới vậy?)

Đó cũng là tâm trạng u hoài, xót xa của Trần Tử Ngang trong “Đăng U Châu đài ca.”

“Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ

Trông về sau, quạnh quẽ người sau

Ngẫm hay trời đất dài lâu

Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.”

(Bài Ca Trên Đài U Châu *Trần Tử Ngang – Trần Trọng San dịch.)

Trở về chốn cũ để ngậm ngùi.

“Ngước mắt trông lên trời cũng lạ

Nhà ai đây, chứ phải nhà tôi!”

(Trở Về Quê Cũ – Nguyễn Bính)

“Còng lưng hay Gù Lưng Mà Sống!”- TẠP GHI HUY PHƯƠNG

Van Pham

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Còng lưng hay Gù Lưng Mà Sống!”- TẠP GHI HUY PHƯƠNG

Nhà Thờ Đức Bà tại Paris, Pháp (Notre Dame de Paris) trong đại tác phẩm của Victor Hugo có một nhân vật là “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà”. Bây giờ ở Việt Nam, rất ít người bị gù lưng vì cố tật mà thảy đều bị gù lưng vì thời đại, chẳng qua là vì cúi lưng, lom khom quá độ, lâu ngày biến thành tật, mà không ai biết mình đang bị gù lưng.

Cô Nguyễn Phương Mai là phó giáo sư tiến sĩ chuyên ngành giao tiếp và quản trị đa văn hóa, hiện đang giảng dạy tại Đại Học Khoa Học Ứng dụng Amsterdam, Hòa Lan, cho rằng cô chưa mất niềm tin vào tương lai của chính mình ở Việt Nam, nhưng cô lại nói:

– “Nếu quay trở lại Việt Nam sống và hàng ngày phải đối mặt với những cái khó khăn, những điều chướng tai gai mắt, phải gù lưng mà sống thì chưa chắc tôi đã về, nghĩa là tôi cũng lại mất niềm tin!”

Vậy ai là những người phải “gù lưng mà sống” trong xã hội này?

Dù không sợ, người ta phải khom lưng xuống để tỏ ra mình biết sợ, để được sống còn, sống yên và sống hèn….

Trong đoản văn “Người việt nam hèn hạ” của một người trẻ tuổi có tên Phan Hân (chữ việt nam không viết hoa), đã mô tả xã hội bây giờ là một “cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất!”

Ai cũng mong có “một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị cảnh sát giao thông thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết…

Vậy thì còn ai dám đứng thẳng?

Cũng có người không biết mình còng lưng, vì nhìn chung quanh, lưng ai cũng còng. Ở đâu cũng nhìn thấy thái độ của kẻ đi xin (dân) và người có quyền ban phát (đảng-chính quyền.) Cái đáng là mình được quyền làm, quyền có thì lại là một thứ ân huệ, mà trong đất nước này ân huệ ban từ trên xuống, cũng không bao giờ ai cho không mà được trả bằng tiền, quà cáp, sức lực và cả nhân cách của con người.

Nhất nhất điều gì người dân cần làm đều phải qua tay nhà cầm quyền, cũng phải xuống xã xin con dấu, như người dân cần vay tiền ngân hàng, trẻ con sinh ra làm giấy khai sinh, hồ sơ đi làm ăn xa, gia đình hộ nghèo đi bệnh viện giải phẫu, xuống xã nhận tiền “hộ nghèo…”

Có hai thứ “còng lưng,” một là còng lương để tồn tại, như lời Nguyễn Tuân: “Tôi sống được là nhờ biết sợ!” Hai là còng lưng vì “sưu cao thuế nặng.” Không khác gì thời thực dân, phong kiến mà ông Lê Văn Cuông – cựu đại biểu Quốc Hội cũng xót xa: “…Mùa sưu thuế hãi hùng ở Hậu Lộc cho thấy đang có sự xuất hiện trở lại của bộ phận cường hào, ác bá thời phong kiến ở nông thôn trong thời kỳ văn minh.”

Nông dân tên Dương, ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cho biết trong vụ thu hoạch Hè Thu vừa qua gia đình anh phải nộp tất cả 20 loại thuế, trong đó có những loại thuế, phí nhà nước cũng như tỉnh không quy định mà chính quyền huyện, xã lại đề ra và bắt dân phải nộp kiểu “phép vua thua lệ làng.”

Nặng nhất là khoản xây dựng nông thôn mới, mỗi người phải đóng gần 1 triệu/1 năm. Đó là đóng góp nghĩa địa, thu thủy lợi, trả công bảo vệ hoa màu, quỹ thiếu niên nhi đồng, quỹ văn hóa làng-thể thao, quỹ khuyến học, quỹ điện sáng nhà văn hóa, quỹ an ninh xã hội, quỹ an ninh thường xuyên làng, quỹ chữ thập đỏ… Nhiều thứ đóng rõ ràng là phi lý.

Báo chí Việt Nam kể một câu chuyện người dân khốn khổ: “…do không đóng đủ tiền giao thông nông thôn, một chị nông dân đã bị chính quyền thôn, xã đến cưỡng bức bắt con bò mới mua để cày ruộng, sau đó bán cho người khác. Con chị đó đến ngăn thì bị họ đánh, phải đi bệnh viện.”

Ở Hải Lộc, Hậu Lộc “có gia đình còn bị ‘tổ công tác đặc biệt’ bốc mất mấy tấm ván canh.” Tấm ván canh là gỗ mua sẵn dành cho người già chết thì đóng quan tài. Cái thời 31 năm về trước, trương tuần của “Cái đêm hôm ấy… hôm gì?” chỉ trấn lột thóc, để lại cái áo quan cho mẹ nhà văn Phùng Gia Lộc, xem ra vẫn còn nhân đạo hơn bọn cường hào mới bây giờ lấy cả tấm ván canh lo hậu sự của người già.

Thời này trâu bò ra đồng ăn cỏ, vịt xuống ao rỉa cá cũng phải thuế. Bọn cầm quyền nghĩ cách thu thuế, “nhổ lông sao cho vịt khỏi kêu.” Rồi đây đến cái điện thoại cầm tay cũng phải đóng thuế. Việt Nam hiện có 72,300,000 cái cell phone, đứa nào nghĩ ra chuyện “nhổ lông vịt” này quả là siêu đẳng.

Ra đường thì có công an giao thông thổi còi kiếm ăn mỗi ngày, tài xế đi xa thì có B.O.T. chặn đường thu “mãi lộ,” lưng thằng dân chất chồng bao nhiêu thứ thuế, không gù mới là chuyện lạ.

Có con đi học, xin còng lưng thêm tí nữa! Cho con đến trường là một nỗi khổ của cha mẹ phải đóng hàng chục thứ “phí.”

“Mức đóng góp đầu năm dành cho khối học sinh lớp 1 hơn 7.5 triệu đồng với 22 khoản thu: tiền bán trú, tiền ghế, tiền áo đồng phục, tiền sách mua nhà trường, tiền kỹ năng sống, tiền chữ thập đỏ, tiền quỹ đội, tiền học tiếng Anh, tiền quỹ hội cha mẹ học sinh, tiền xã hội hóa giáo dục, tiền ngoại khóa, tiền vệ sinh nhà trường, tiền trông trẻ (dạy buổi chiều,) tiền hỗ trợ nhà bếp, tiền giấy kiểm tra, tiền vệ sinh lớp học, tiền quỹ lớp, tiền phô tô, tiền máy chiếu, tiền điều hòa, tiền bảo hiểm y tế…”

“Lên đến lớp 4, lại thêm các loại tiền đóng: Tiền xã hội hóa, tiền bảo trì máy tính, tiền quỹ hội cha mẹ, tiền thuê trực nhật, tiền vệ sinh trường, tiền nước uống, tiền giấy vệ sinh, tiền hoạt động ngoại khóa, tiền bổ sung đồ dùng bán trú, tiền học buổi chiều và hỗ trợ trông trưa, tiền học kỹ năng sống, tiền quỹ lớp, tiền chữ thập đỏ, tiền quỹ đội, tiền giấy thi… Nhiều gia đình không chịu nổi phải cho con nghỉ học.”

Không biết chính phủ sinh ra để làm gì, và thu thuế để phục vụ ai? Thu thuế để xây dựng đảng, như thế đảng càng mạnh, thì dân càng phải gù lưng hơn nữa! Những ai làm ăn, kinh doanh dưới chế độ Cộng Sản chắc đã biết chuyện nhịn nhục, nói cười cho qua chuyện để chúng ta cùng có lợi, đôi khi phải quên cả nhân cách của mình, có tiền bạc rủng rỉnh, nhưng đêm nằm nghĩ lại có hổ thẹn hay không?

Trong một xã hội, buổi sáng ra khỏi nhà, gặp thằng công an khu vực, trong lòng khinh nó, mà cũng phải chào hỏi. Đến sở làm việc với thằng thủ trưởng dốt nát, tham ô, phe cánh, kinh tởm mà cũng phải thưa dạ, bác cháu, anh em. Buổi chiều không muốn đi nhậu mà cũng phải làm ra vẻ sốt sắng, chén chú, chén anh, cho ra phe mình. Cái thời buổi “thẳng thắn, thật thà, thương thua thiệt,” ai mà dám đứng thẳng lưng, đôi khi phải sống giả dối, quên mình, nên cái lưng gù xuống lúc nào không hay!

Vậy mà người ta không biết quý khi được sống trong một xã hội, mà thấy cái lưng mình còn thẳng!

Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”…- Tạp Ghi Huy Phương

Van Pham

Tạp Ghi Huy Phương

Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”….

(Văn hóa của kẻ “thắng cuộc với văn hóa của người “thua cuộc”!!!)

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh:

– “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ:

– “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra. Cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội.

Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.

– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.

– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”

Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.

– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”

– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.

– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau 42 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “Singapore của bác” mà ở Hà… Paris… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.

– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.

– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội Paris và Sài Gòn Sing sẽ mãi mãi khác nhau vì chúng ngày càng gân hơn. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội Paris” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian. Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.

Hình minh họa: – Một xã hội đè lên nhau để chụp giựt…

Cuộn chỉ thời gian – Tạp ghi Huy Phuong

 Cuộn chỉ thời gian

Tạp ghi Huy Phuong

“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy,

Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”

(Kahlil Gibran)

Chuyện gì nhắc chúng ta biết rằng một ngày đã qua: Tiếng đồng hồ báo thức mỗi buổi sáng hay khi chúng ta mở vòi nước để làm vệ sinh khi ra khỏi giường? Chuyện gì nhắc chúng ta một tuần lễ đã qua: Sáng Thứ Bảy này dậy trễ hay có hẹn đưa gia đình đi chơi cuối tuần?

Chuyện gì nhắc chúng ta hai tuần đã qua: Ðến kỳ lãnh check lương hay ngày rằm hay mồng một ăn chay? Chuyện gì nhắc chúng ta một tháng đã qua: Trả các thứ bill nhà, bill điện, bill nước? Chuyện gì nhắc chúng ta sáu tháng đã qua: Vặn đồng hồ lui hay tới một giờ? Chuyện gì nhắc một năm đã trôi qua: Phải chăng là những khúc ca Giáng Sinh rộn ràng và các thương xá giăng đèn kết hoa, và với người Việt là hoa cúc, hoa mai, bánh chưng, bánh tét và những bài hát về Mùa Xuân đã trở lại?

Trọn một năm rồi, hôm nay tôi trở lại văn phòng dịch vụ khai thuế mà cảm thấy như mới đến đây hôm qua, cũng anh chàng khai thuế vui tính, những chồng hồ sơ ngổn ngang, trên vách chiếc đồng hồ tròn chậm rãi đếm giây… Cách đây một năm tôi đã ngồi trên chiếc ghế này, hôm nay tôi lại đến đây. Mùa khai thuế đã tới. Một năm nữa đã qua. Ði khai thuế mỗi năm hẳn lòng ta chẳng có cảm xúc gì, nhưng bạn cứ tưởng tượng, nào ngày con cháu chúng ta tốt nghiệp, nào ngày tan trường, ngày tựu trường, Mùa Thu lá rụng, rồi Mùa Ðông tuyết rơi.

Không những một giờ, một ngày qua rất nhanh, mà một năm, mười năm cũng như phút chốc. Phương Ðông nói: “Thời gian như bóng câu qua cửa sổ” (câu quang quá khích). Ca dao Việt Nam lại nói: “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa -Nó đi đi mãi chẳng chờ đợi ai!” Thời gian có những bước đi cố định của nó, nhưng qua chủ quan, nhanh chậm hay dài ngắn lại “tùy người đối diện”, dù Lamartine đã thốt nên lời: “Thời gian ơi, xin hãy ngừng cánh bay.” (Ô temps, suspends ton vol!), cũng như chúng ta vẫn thường than vãn: “Ngày vui qua mau!” Trái lại, Kim Trọng tương tư Thúy Kiều thì một ngày cũng dài bằng ba năm: “Sầu đong càng lắc càng đầy- Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Người bị gông cùm, lao lý thì “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.” Phải chăng vì: “Người vui thì than đêm ngắn- Kẻ buồn lại hận canh dài.” Những ngày ở trong tù 35 năm về trước, hằng ngày phải lao động khổ sai vất vả, chúng tôi thấy ngày quá dài, chỉ mong đến lúc có tiếng kẻng “thu dụng cụ” để ra về, kiếm chén khoai lửng dạ và ngã tấm thân gầy guộc mệt nhoài trên chiếc chõng tre. Ðêm là lúc tự do, riêng rẽ một mình thì quá ngắn, vì người tù cảm thấy sợ hãi khi nghe tiếng kẻng đánh thức mỗi buổi sớm mai để thức dậy trước một ngày nữa, vất vả và vô vọng.

Bây giờ đến lúc tóc đã hoa râm, ngoảnh mặt nhìn lại: “Hồng Hồng! Tuyết Tuyết! Mới ngày nào còn chữa biết chi chi!” (Nguyễn Công Trứ), con cháu ngày nào, còn bồng bế nay đã trưởng thành, nghĩ lại “đời người như giấc mộng.” Nghĩ lại, thời hoa niên, rồi chiến tranh, tù đày, lưu lạc quê người cũng qua nhanh. Bây giờ không còn nói chuyện một ngày qua, một tuần qua, một tháng qua, mà nói chuyện mười năm, ba mươi năm, sáu mươi năm qua. Nhìn lại quá khứ, hình như chúng ta đều mang trong lòng nỗi tiếc nuối hơn là vui mừng vì chúng ta đã làm được điều gì đó trong những ngày tháng cũ.

Ai cũng nói được câu “dĩ vãng là lịch sử,” là những điều đã qua, nhưng tất cả văn thơ, âm nhạc đều khóc lóc, thương tiếc những ngày tháng cũ. Người thì xin đi lại từ đầu, người thì gọi ngày xưa là hoa bướm… Hiện tại là món quà Trời cho (Present) nhưng ít ai biết giá trị mà nâng niu nó, để khi nó đã trở thành dĩ vãng mới buồn bã khóc than. Phật Pháp cũng có nói đến: “Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, hãy sống tĩnh thức trong giờ phút hiện tại!”

Ðể biết giá trị của thời gian, phương Tây nói:

“Ðể biết giá trị của một năm, hãy hỏi một sinh viên vừa thi trượt năm cuối.

Ðể biết giá trị của một tháng hãy hỏi một người mẹ sanh non.

Ðể biết giá trị của một tuần hãy hỏi chủ bút của một tuần báo.

Ðể biết giá trị của một giờ, hãy hỏi những người yêu đang chờ đợi gặp nhau.

Ðể biết giá trị của một phút, hãy hỏi người vừa lỡ chuyến tàu.

Ðể biết giá trị của một giây, hãy hỏi người vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Ðể biết giá trị của một phần nghìn giây hãy hỏi người vừa nhận huy chương bạc trong cuộc thi Olympic.”

Thời gian đi những bước đều đặn, như tiếng đồng hồ kêu “tic-toc” nhịp từng giây, nó chẳng bao giờ có thể chạy nhanh hơn theo ý ta, hay chậm lại để chờ đợi ai. Trong những chuyện cổ tích của Ðông Âu, ông Tiên cho mỗi con người một “cuộn chỉ thời gian”, chiều dài của cuộn chỉ là chiều dài của mỗi đời người. Ai thấy đời khổ đau thì cứ kéo vội sợi chỉ đi nhanh, ai muốn hưởng hạnh phúc thì kéo cuộn chỉ chậm lại.

Này người bạn già của tôi ơi! Khổ đau hay hạnh phúc, bạn đã kéo “cuộn chỉ đời” bạn, nhanh hay chậm, thì chúng ta chỉ còn lại mươi vòng chỉ nữa thôi. Vì thời gian vẫn trôi đi, nên chúng ta không thể dừng lại, mà vẫn phải tiếp tục kéo sợi chỉ ra khỏi cái lõi của nó, cho đến lúc thở ra hơi thở… cuối cùng. Liệu trong mươi vòng chỉ còn lại này, chúng ta có thể làm gì để bù đắp cho gần cả một “cuộn chỉ đời” dài dằng dặc của những ngày tháng đã qua từ bao lâu nay không?

BÀI HÁT SAU CÙNG – Huy Phương

BÀI HÁT SAU CÙNG

* Huy Phương

Vào ngày 26 Tháng Mười tới đây, cụ William Leo McDougall, 83 tuổi, cư dân Laguna Woods sẽ ra Tòa Thượng Thẩm Santa Ana, California vì tội giết người. Vào ngày 1 Tháng Mười, 2010, trong lúc dưỡng bệnh tại Palm Terrace Healthcare Center, Laguna Woods, sau khi ở bệnh viện về, ông McDougall đã nổi giận vì nghe người bạn chung phòng, ông Nguyễn Văn Mạnh, 94 tuổi, hát một bản nhạc bằng tiếng Việt. Ông McDougall đã dùng một cây gỗ, đánh vào đầu ông Mạnh nhiều lần. Ông Mạnh được xe cấp cứu chở đi bệnh viện, và sau đó tắt thở, vì bị xuất huyết não.

Trước đây trong nursing home, cũng có chuyện một bà cụ đánh một bà cụ khác chung phòng gây thương tích trầm trọng, nhưng trường hợp của cụ Nguyễn Văn Mạnh, mất đi đã để lại nỗi đau xót cho gia đình của cụ và gây nhiều xúc động cho cộng đồng Việt Nam trên đất Mỹ. Tuổi già, bệnh tật, buồn phiền gây ra sự cáu kỉnh đã khiến cho cụ Mc Dougall cầm gậy đánh chết người bạn cùng phòng. Khác văn hóa, ngôn ngữ, sở thích, tôi nghĩ nếu bạn ở chung phòng với một người Ấn Ðộ, bạn cũng không thích gì những bài hát của dân tộc này.

Nhưng điều làm cho tôi buồn, nghĩ đến tuổi già quạnh quẽ trên đất khách, là ông cụ đồng bào của mình, chết chỉ vì đang hát một bài hát tiếng mẹ đẻ, một bài hát Việt Nam. Tôi không biết là ông cụ đang “nghêu ngao” hát bài gì, vì mỗi bài hát đều mang những kỷ niệm riêng tư cho một người, nó khơi dậy cả một quãng đời đã qua. Ðó là một bài dân ca mang âm hưởng quê hương khuất bóng, một bài hát tuổi trẻ khiến cụ nhớ đến thời hoa niên cắp sách đến trường hay một đoạn tình ca “gọi người yêu dấu,” một người đầu gối tay ấp hay một người thương yêu đã “nghìn trùng xa cách.”

Tôi dùng tiếng “nghêu ngao” để nói đến tâm trạng một người lúc buồn hay vui, ngồi hay đi, đứng hát một mình, một bài hát có thể sai vần lạc điệu, nhưng chắc chắn là một bài hát đầy kỷ niệm, đầy thương nhớ đã gây xúc động cho lòng người hát. Những bài hát này không thể dành cho đám đông hay hát cho ai nghe, mà là trong lúc cô đơn nhất, buồn nhất hay hạnh phúc nhất, con người đã hát lên nho nhỏ cho một mình mình nghe và người hát đã đắm mình trong những giấc mơ riêng tư của mình.

Một ông cụ đã 94 tuổi, là người Việt Nam, hẳn ông đã sống qua những nỗi thăng trầm của đất nước. Ông sinh ra và lớn lên dưới thời Pháp thuộc, cũng có thể là đã biết thế nào là chiến tranh, loạn lạc. Giờ này, về già, ông sinh sống tại Mỹ, có nghĩa là, ít nhất một lần, ông phải bỏ quê hương vì nạn cộng sản. Vận nước đã đưa ông đến đây, lúc về già, vì hoàn cảnh phải sống trong nhà dưỡng lão với một người xa lạ, khác biệt tuổi tác, văn hóa, ngôn ngữ. Nếu không lú lẫn, quên quên nhớ nhớ, hẳn lòng ông đã trĩu nặng một nỗi buồn xa quê hương, hiu quạnh trong nhà dưỡng lão, không một bóng người thân.

Ông cũng có một cuộc đời như những người khác, có một thời thơ ấu, trung niên, có cuộc sống hôn nhân, có một quãng đời yêu đương, sinh con đẻ cái, làm việc, hạnh phúc hay đau khổ. “Kỷ niệm là cái gối lúc ta về già,” nó có thật làm cho chúng ta cảm thấy êm ái đi vào giấc ngủ, hay đau khổ, dằn vặt suốt cuộc đời ta. Tuổi già chính là thời gian dừng chân đứng lại, để nhìn về quá khứ, với chút ngậm ngùi hay thương tiếc.

Nhu cầu của tuổi thơ chỉ là đời sống vật chất, một đứa trẻ khóc vì đói, khát, vì lạnh hay nóng, tuổi già ngoài những cảm xúc của một đứa trẻ, còn có niềm đau tinh thần, buồn bã, nhớ nhung, tủi thân vì cô đơn và hiu quạnh. Thủ phạm giết người, ông già McDougall chắc chắn đang mang tâm lý buồn bực, bẳn gắt, chán đời của một người già cô độc, chỉ có điều đáng tiếc là ông đã trút nỗi giận dữ đó lên một người bệnh cùng phòng vô tội để đến nỗi gây ra án mạng!

Ðôi khi chăm sóc cho tuổi già còn bận rộn hơn là có “con mọn.” Tuổi già quả đáng cho chúng ta quan tâm săn sóc hơn là trẻ thơ, không phải cho ăn, cho mặc, hay tắm rửa mỗi ngày là đủ, điều này nhà điều dưỡng nào cũng làm được. Trên đời này, mấy ai nghĩ đến cha mẹ già hơn là chăm lo cho con cái của mình, mấy ai đã có suy nghĩ: “Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn du” (Còn cha mẹ ở nhà, không nên đi chơi xa.) Ðó là chưa nói đến chuyện có cha mẹ già, mà ca dao Việt Nam đã ví von như “…mít chín cây! Gió Ðông cũng sợ, gió Tây cũng buồn!”

Tòa án Santa Ana sẽ kết tội thủ phạm đã giết ông cụ Nguyễn Văn Mạnh, nhưng thật sự tôi không quan tâm về bản án này, nặng nhẹ như thế nào. Thủ phạm đã 83 tuổi, bản án nhẹ nhất cũng làm cho người này không hề có hy vọng sẽ ra khỏi nhà tù trước khi chết. Sống ở đây hay sống ở trong nhà tù thì có khác gì nhau, kẻ giết người sẽ không có hy vọng trở lại nhà trước khi xuôi tay, thì chết trong nhà tù hay trong nhà dưỡng lão cũng là cái chết.

Từ khi đọc được bản tin này, tôi cũng không hề thắc mắc về gia cảnh, bệnh tật hay đời sống của ông cụ xấu số. Ðiều duy nhất tôi nghĩ đến và muốn tìm hiểu là ông cụ đã hát bài hát gì trước khi ông qua đời. Thủ phạm là một người ngoại quốc không biết tiếng Việt, để cảnh sát lấy lời khai, mà điều này thì có gì là quan trọng đối với họ. Cũng như những nhân chứng, nếu là đồng bào của cụ thì cũng chỉ có mặt tại hiện trường khi cụ đã ngã xuống nên không ai nghe cụ hát bài gì.

Còn tôi, thực sự tôi muốn biết, vào lúc ấy, cụ đã “nghêu ngao” hát bài gì để biết nỗi buồn của cụ ra sao? Nỗi xa vắng người thân, thương nhớ quê hương, nỗi cô đơn buồn bã hay hoài niệm về một quãng đời đã mất! Tôi thương ông cụ, và nghĩ đến tuổi già mai sau của tất cả chúng ta.

Cụ ơi, bài hát đó là bài gì vậy?

Huy Phương.

No Jail for Octogenarian Who Clubbed Rehab Roommate to Death

“A lose-lose situation for all.” William Leo McDougall, 83, killed 94-year-old Manh Van Nguyen in a rehab center.

Rich Kane,Patch Staff

An 83-year-old man was sentenced Friday to lifetime probation with a suspended sentence of 16 years in state prison for murdering his 94-year-old rehabilitation center roommate by repeatedly hitting him in the head with a wooden rod, according to a release from the Orange County District Attorney’s office.

William Leo McDougall, 83, pleaded guilty on Aug. 17 to one felony count of murdering Manh Van Nguyen, with a sentencing enhancement for the personal use of a deadly weapon.

McDougall’s mental state at the time played a large part in determining his sentence, as did the wishes of the victim’s family, McDougall’s lack a of criminal record, his advanced age, and medical condition.

On Oct. 1, 2010, McDougall was sharing a room at Palm Terrace Healthcare Center in Laguna Woods with Nguyen as they both recovered from hip surgeries. That night while lying in bed, McDougall mistakenly believed that his wife was sleeping beside him, and mistakenly thought that his quietly-sleeping roommate, Nguyen, was singing loudly. McDougall became angry and got out of bed to silence the victim, believing that Nguyen was disturbing the defendant’s wife, who in reality was not present.

McDougall took a wooden rod from the closet in their room and hit Nguyen multiple times in the head with the rod. A nurse, who had been approaching the room, reported the incident to staff members, who restrained McDougall.

The victim was taken to the hospital, where he died due to blunt force trauma to the head.

Nguyen’s wife of 58 years and four adult children, who viewed a video interview and confession from the defendant in 2010, submitted a family letter for the court, which says in part, “We got to hear what actually happened to our father … and how he was killed (and most importantly, hearing directly from the person who did it and admitted it). We fully understand nothing can be done now that will bring our father back to us. This is a real tragedy in which all parties involved have suffered tremendous losses and will continue to suffer for years to come. It is indeed a lose-lose situation for all.”

McDougall’s wife submitted a letter for the victim’s family, which says in part, “Our entire family is devastated by what Bill did, which we cannot explain, and nothing could ever justify Bill’s conduct. I can only say that his actions must have been the product of illness … his surgery, old age, or a combination of factors unknown to me. I realize what an unbelievable nightmare this has caused the Nguyen family and the McDougall family … I offer my sincere condolences on behalf of the entire family and ask for forgiveness for Bill, even in spite of the terrible pain he has caused, only because the ‘real’ man I have known for over 58 years is not the one [who has] done this horrible deed.”

The OCDA submitted a sentencing brief, which says in part, “Mr. Nguyen was an honorable 94-year-old man who was very much loved and respected by everybody who knew him, especially his family … Doing the right thing is not always easy. This is most certainly true in this case. As a prosecutor, it is much easier to argue that a defendant convicted of murdering an innocent victim should be sentenced to spend the rest of his or her life in prison. In the vast majority of murder cases, that would be the right and just thing to do. Not in this case. The People’s objective is not to do what’s easy; rather, it is to do what’s right, fair, and just.”

The OCDA continues, “The People’s recommendation [for lifetime probation] in this case is in no way, shape, or form a reflection solely of the value of the life of Mr. Nguyen. If that was the case and the People’s recommendation was to be made solely based on the value of the life of Mr. Nguyen or on the harm that was inflicted upon him and his family, the People’s recommendation would have been a sentence of life in prison. However, as the law dictates, the People’s recommendation is based on the totality of all the circumstances relating to the specific facts of the crime, the victim, and the defendant. This is a tragic case and it has been so since day one.”

WILLIAM LEO MCDOUGALL GETS NO PRISON TIME FOR MURDER–AND THAT’S FINE WITH VICTIM’S FAMILY

MATT COKER | 

From: TU-PHUNG

“Ngày Mai Đã Muộn Rồi” – Huy Phương

“Ngày Mai Đã Muộn Ri” – Huy Phương

Ở thời niên thiếu, chúng tôi đã được xem một cuốn phim tình cảm đen trắng do Ý sản xuất trong một rạp chiếu bóng ở một tỉnh nhỏ miền Trung. Cuốn phim mang tên “Ngày Mai Đã Muộn Rồi,” (Demain c’est trop tard!) liên quan đến việc giáo dục giới tính phù hợp cho giới trẻ. Cuốn phim nêu ra chuyện nếu hôm nay không được chỉnh sửa hay là được làm đúng, ngày mai đã quá trễ, muộn màng.

Tuổi ấy, chúng tôi không hiểu nhiều về tình tiết của câu chuyện, và luận đề cuốn phim đưa ra, nhưng sau này, rất thích lập lại tên của cuốn phim trong nhiều tình huống của cuộc sống. Phải chăng, đừng để đến ngày mai mà muộn màng, những gì làm được hôm nay thì hãy làm.

Bây giờ bước vào tuổi già, bạn đã có bao điều hối hận: phải chi ngày trước mình biết cách yêu thương, định hướng cho bản thân và nỗ lực hơn, biết trân quý bạn đời hơn, biết giáo dục con cái hơn…

Trước khi biết mình qua đời, người sắp chết cũng có bao nhiêu điều phải hối tiếc. Bước qua một năm mới, chúng ta cũng có những điều tự hỏi vì sao đã bỏ phí trong năm qua. Và rồi qua một ngày, có bao giờ bạn thấy hối hận đã không làm việc ấy ngay hôm nay không?

Thời gian cứ trôi đi và chẳng bao giờ dừng lại để chờ đợi ai, cũng chẳng chờ cho chúng ta làm xong việc này hay kết thúc một việc khác. Một ngày qua đi và một ngày không trở lại, và công việc ấy chúng ta không làm hôm nay, sẽ không bao giờ chúng ta có cơ hội thực hiện nữa. Không phải là cứ một đời người, hay một năm, mà một ngày cũng đã là quá muộn!

Bạn tôi đang nằm trong bệnh viện, vừa qua một cuộc giải phẫu khá quan trọng. Tôi có dự định đi thăm người bạn ấy hôm nay, nhưng quen thói lần lữa, giải đãi, lòng hẹn lòng đợi một này nào đó, thật rỗi rảnh sẽ đi thăm bạn. Nhưng cái ngày đó không bao giờ đến, vì chỉ vài ngày sau đó, bạn tôi đã từ giã cuộc đời này, mà tôi thì vẫn chưa thực hiện được cuộc viếng thăm đơn giản ấy, nên lòng ân hận mãi.

Thân bằng quyến thuộc của chúng ta không thiếu gì những người già, đang nằm trong bệnh viện, nhà dưỡng lão, như ngọn đèn cạn dầu trước gió, cần một lần thăm viếng, một cái cầm tay hay một lời nói thân tình. Những người này không còn thời gian để đợi chúng ta, mà chúng ta thì cứ mãi “lòng hẹn lòng!”

Có bao nhiêu bậc cha mẹ già, trên ngưỡng cửa ngôi nhà xưa, ngóng chờ những đứa con trở về một lần thăm viếng. Nhưng rồi thì vì thời gian bận rộn vì công việc làm ăn, cuối tuần còn đưa con đi chơi thể thao, học đàn, học võ; kẹt một chuyến du lịch xa, hay bận rộn vì con chó con mèo, con cá lia thia trong chậu, sợ bỏ đói, không ai chăm sóc.

Thật lòng không biết có ai hối hận không, nhưng đừng để bao giờ phải hối hận.

Giá mà ta làm việc ấy hôm nay, hay tự đặt cho mình một mệnh lệnh: “Hãy làm việc ấy hôm nay!” Ngày không thể không đi và đêm không đến vì việc ấy ta làm chưa xong!

Suốt đời, chúng ta đã bỏ bao nhiêu cơ hội, để làm một việc hay để nói một lời.

Không phải đến bây giờ người ta mới nhắc nhở “Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ. Đừng để ngày mai đến lúc tôi xa người… (*) mà ngày xưa, tình duyên đôi lứa đã một lần muộn màng, vì người con trai đã bỏ đi cơ hội nghìn vàng, để ngậm ngùi suốt đời.

“Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng như cá cắn câu

Cá cắn câu biết bao giờ gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Có người hối hận để mất một cuộc tình, nhưng cũng có người đánh lỡ mất cả cuộc đời, để rồi than thở:

“Đến nay tôi hiểu thì tôi đã

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!” (TTKh.)

Richard Templar là một tác giả người Anh, người đã viết nhiều cuốn sách về con đường thành công trong cuộc sống. Ông chia sẻ “con đường dẫn đến thành công” của mình trong một loạt sách, trong đó 100 quy tắc đơn giản được trình bày để đạt được thành công, trong kinh doanh, tiền bạc hoặc cuộc sống nói chung. Và “quy tắc của cuộc sống” của Richard Templar là “đừng để qua ngày mai!”

Người ta thường hẹn trong ngày mai sẽ làm công việc dự định hôm nay, nhưng đối với nhà thơ Norma Cornett Marek lại khác: “Ngày Mai Không Bao Giờ Đến!” đó cũng là tựa đề bài thơ của bà. “Nếu ta đang chờ ngày mai đến thì tại sao lại không làm điều đó ngày hôm nay? Vì nếu ngày mai không bao giờ đến, thì chắc chắn ta sẽ hối tiếc suốt phần đời còn lại của mình!”

Không ai biết đây là lần gặp gỡ cuối cùng, một lời nói giã biệt, vì không một ai, trong chúng ta, trẻ hay già, đoan chắc rằng, họ sẽ sống qua hôm nay, để ngày mai thấy mặt trời lên! Trên trái đất này, đêm nay có những người cũng lên giường như chúng ta, nhưng ngày mai, họ không còn thức trở dậy!

Đó chính là ân huệ của cuộc đời chứ không phải là một chuyện đương nhiên: “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương!

Xin đừng để quá trễ, hãy nói với ai đó một lời yêu thương hôm nay. Hãy nói một lời xin lỗi. Hãy nói một lời cám ơn. Nếu ai cũng nghĩ rằng hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc sống để hành động, để yêu thương, để dịu dàng với nhau…thì cuộc đời này đẹp biết bao nhiêu!

Xin hãy làm điều đó hôm nay. Ngày mai đã muộn rồi!

From: Tu-Phung

Bữa Ăn Một Mình – Tạp Ghi Huy Phuơng

Tạp Ghi Huy Phuơng,

***

Bữa Ăn Một Mình

Hiện nay tôi đang sống với gia đình cô con gái út. Cháu có một gái đã trưởng thành sống ở tiểu bang khác và một cháu trai đang học năm cuối của trung học. Chồng cháu thỉnh thoảng phải đi làm xa. Hai vợ chồng tôi đã đến tuổi già gần đất xa trời, nên thời khắc biểu của những thành viên trong gia đình rất khác nhau, nên ít khi chúng tôi ngồi lại cạnh nhau cùng ăn chung một bữa cơm.

Buổi sáng thức dậy trễ, thì con cái đã đi làm, cháu đã đến trường, vợ thì luẩn quẩn ở sau khu vườn nhỏ, đành ngồi ăn sáng một mình. Buổi tối, thấy cơm canh đã sẵn sàng nhưng chưa thấy ai sẵn sàng cùng ăn với mình. Gọi vợ thì vợ bảo:

-“Ông cứ ăn đi, tôi mới ăn củ khoai, còn ngang bụng!” Gọi con thì con thưa: “Ba cứ dùng cơm đi, con đang bận tay!” Ðứa cháu thì khi hiện khi biến, chẳng mấy khi gặp mặt, có khi ăn ở trong bếp hay đem phần ăn lên phòng riêng để có sự tự do một mình.

Tôi muốn có những bữa ăn đông người, vui vẻ, có tiếng cười nói rộn ràng, nhưng thường là phải ăn những bữa ăn một mình. Bữa ăn một mình thì đâu cần đến mâm bàn dọn ra ngay ngắn, tươm tất, mà sao cũng cho xong một bữa ăn. Một tô cơm trộn thức ăn, và một cái muỗng, ngồi trước máy computer hay trước máy truyền hình.

Bạn có nghĩ một bữa ăn như thế có dễ tiêu hoá, có lợi cho sức khoẻ hay không? Và một bữa ăn như thế có buồn không?

Tôi không bao giờ quên được những bữa ăn gia đình thời thơ ấu. Tất cả mọi người trong gia đình đều chờ nhau vào mâm cơm một lượt, dù là buổi sáng giờ trưa hay bữa chiều tối. Bữa cơm có cả ông bà nội, cha mẹ, cả anh chị cùng mấy đứa em nhỏ, kể cả thành viên nhỏ bé của đại gia đình là con mèo vàng luẩn quẩn chờ miếng ăn trong lòng bà nội tôi.

Rồi thời gian qua đi, kẻ còn, người mất, gia đình mỗi người một nơi. Tôi lớn lên, tạo lập một gia đình nhỏ, có những bữa ăn sum họp gia đình, nhưng không quên được những người đã đi xa, không còn hiện diện trên cuộc đời này nữa.

Rồi chiến tranh, tù đày, xô đẩy con người mỗi người đi mỗi hướng.

Trong một trại tù nào đó, trên cái chõng tre tập thể, hay bữa trưa ngoài bìa rừng, tôi ngồi dùng đũa đếm những hạt ngô bung, xót xa nhớ đến những bữa cơm gia đình. Khi tôi từ nhà tù trở về, thì bữa cơm không còn là bữa cơm nữa. Con tản mát, vợ chạy gạo mỗi ngày, nồi cơm lạnh lẽo trên bếp, ai thấy thì ăn.

Thời Cộng Sản vào nhà, không còn hai chữ “sum họp,” cũng chẳng còn câu “ngồi lại với nhau.”

Ra hải ngoại, thì cái văn hoá “bữa cơm gia đình” cũng đã mờ nhạt. Ly cà phê bữa sáng trên xe, cái hamburger cùng ly coke vào giờ lunch và những buổi tối về nhà trong giờ giấc trước sau không đồng nhất. Phải chờ đến những ngày Lễ Tết, sinh nhật, cha con, anh chị em họa hoằn mới có dịp ngồi lại trong những bữa tiệc cuối tuần.

Các bạn còn trẻ có lẽ chưa cảm nhận được nỗi buồn khi phải ngồi ăn một mình. Thức ăn có ngon đến đâu, bổ dưỡng đến đâu mà không “dịch vị” của tiếng cười, niềm vui, chỉ còn “gia vị” của cô đơn, buồn nản, thì bữa ăn ấy chỉ còn là bổn phận ăn để sống. Chính các vị y sĩ cũng đã khuyên người già “ăn uống phải có bạn, nên ăn chung với gia đình hay con cháu. Về phần con cháu, cũng không nên để cho cha mẹ mình ăn uống trong cô đơn buồn tẻ, vì khi ăn một mình, sẽ kém vui, và ăn ít đi, không tốt cho sức khoẻ. Sự cô đơn sẽ làm miếng ăn thêm cay đắng.”

Rõ ràng là tâm lý đã tác dụng vào sinh lý. Dù đau yếu, suy kiệt, mòn mỏi nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những người sống chung với con cháu, hay còn vợ chồng có khả năng sống lâu hơn là những ông bà cụ già hiện đang sống một mình trong những căn phòng lạnh lẽo của những căn “nursing home.”

Trong nhà dưỡng hưu, tôi đã thấy những bữa cơm gọn gàng trong những cái khay nhỏ do nhà bếp đưa đến tận giường, để cả giờ nguội lạnh mà các ông bà vẫn chưa muốn ăn.

Tôi đã đến thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện lẻ loi trong căn nhà già ở Santa Ana lúc ông chưa vào bệnh viện. Lúc ấy vào buổi xế trưa, mà từ sáng đến giờ, nồi cơm điện còn nguyên chưa được xới ra trên bếp, thức ăn còn để lạnh ngắt trong tủ lạnh. Ông thú nhận là ông không muốn ăn, mà chỉ ăn vì “nghĩa vụ,” một nghĩa vụ nặng nề! Chung quy cũng vì nỗi buồn cô đơn, thui thủi một mình.

Keith Ferrazzi, tác giả cuốn sách “Ðừng bao giờ đi ăn một mình (Never eat alone) không nói về sự cô đơn mà nói về sự giao tiếp đưa đến sự thành công và hạnh phúc cho cuộc sống. Chúng ta không bàn đến chuyện “ăn một mình” theo lối này.

Ðã đi hết một chặng đường dài, đã lo toan cho mọi thứ, nhưng cuối cùng tuổi già cô độc bên mâm cơm, lặng lẽ một mình. Những bậc cha mẹ già không mong con tặng quà, phải chi con ghé nhà thăm, ngồi ăn với cha hay mẹ một bữa cơm, nói cười như thuở ấu thơ

Nỗi đau của tuổi già – Huy Phương

Nỗi đau của tuổi già

Huy Phương

Ở đây, chúng Ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường… nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này rồi. Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.

Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước  cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “đem cha bỏ chùa”. Cũng lại câu chuyện của một người già…

Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng. Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường LOS mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.

Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có pass- port của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái.

Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng.

Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi.

Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off.

Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời.

Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá 1ớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng.

Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi:

-“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?”

Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:

-“Bả ấy đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ.

Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm

Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không biết tiếng Anh, bà sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”.

Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.

Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

Huy Phương

From: NguyenNThu

Không Phàn Nàn – Huy Phương

Không Phàn Nàn – Huy Phương

Trong đời sống, đã biết bao lần chúng ta phàn nàn. Buổi sáng đi làm kẹt xe. Đến sở gặp đồng nghiệp ăn nói vô duyên, mếch lòng. Ông chủ mặt mày khó chịu, gắt gỏng. Về nhà vợ than phiền chuyện cơm áo. Con cãi lời, hỗn láo. Cánh tay đau nhức khó ngủ.

Nói chung hữu thân thì hữu khổ. Nhưng khi còn có việc làm, thì mới có đồng nghiệp, có ông thủ trưởng. Còn có xe để bị kẹt, còn có vợ để nghe mè nheo, còn có con để chê là nghịch tử. Còn có cánh tay để đau nhức. Trên đời này rất nhiều người không có gì, kể cả hai cánh tay, và sự thật là có người bất hạnh, không có luôn cả hai chân nữa.

Ít người cho mình có một đời sống hạnh phúc hoàn toàn. Không bất mãn chuyện này thì cũng khổ vì chuyện kia. Mỗi cuộc đời có bao nhiêu chuyện bất như ý, mỗi ngày có bao nhiêu giờ phút bực mình, đáng cho ta phàn nàn, than vãn!

Anh họ tôi có con trai sợ vợ, để vợ lấn lướt tìm cách đuổi cha mẹ chồng ra khỏi nhà, mà không có được một phản ứng gì. Tuy không đến nỗi lâm thảm cảnh của người vô gia cư, nhưng vợ chồng anh thất vọng, buồn bã đến nỗi mang chứng trầm uất, nhiều khi tỏ thái độ không thiết tha đến cuộc sống nữa. Ví như, trường hợp của một gia đình khác, đứa con trai ngay từ hồi còn bé bị té từ trên giường cao hai tầng xuống, tổn thương não bộ, phải sống đời thực vật từ nhỏ đến nay đã gần 40 tuổi, khổ đau là chừng nào. Trong khi anh chỉ có một thằng con bất hiếu, sợ vợ, nhưng anh cũng có khả năng thuê được nhà ở, có chiếc xe đi, lại còn có chị bên cạnh trong tuổi già, cuộc đời đâu đến nỗi bi đát.

Ông bạn già tôi, hơn ba mươi năm về trước, gửi đứa con trai vị thành niên, theo một người bạn đi vượt biên. Sang đến đảo, người bạn đổi tên đổi họ con anh, nhận là con mình. Khi gia đình anh sang định cư tại Mỹ, thì con anh đã lớn, tốt nghiệp đại học, nhưng đã trở thành đứa con của một gia đình khác, xem người đưa mình vượt biển là mẹ và cũng không còn biết người bạn tôi là ai. Vợ chồng người bạn tôi coi đây là một biến cố lớn lao trong đời, canh cánh bên lòng mỗi khi nghĩ đến chuyện mất con, đứa con mình đã tốn công sinh dưỡng, bây giờ xem mình như là những người xa lạ. Thật ra thì, bạn tôi không hề mất con, đứa con mình sinh ra, vẫn còn đó, mạnh khỏe, bình an, thành đạt, có một mái gia đình êm ấm. Có khác chăng là quan niệm “con tôi,” “vật sở hữu của tôi” nay vì nó thuộc về người khác, nên nó làm cho tôi đau khổ.

Tôi nhắc lại một chuyện cũ, vợ chồng ông bạn tôi sang Mỹ, nhà có mỗi hai cô con gái thì lớn lên, một cô lấy chồng Mỹ, một cô lấy chồng Trung Đông. Bạn tôi có hai ông rể giỏi giang, những đứa cháu xinh dẹp, dễ thương, nhưng lòng luôn luôn phiền muộn, thường mỗi khi nói đến chuyện con cái, gia đình, thì y như là khơi lại mối thương tâm, khiến bạn tôi không vui, tỏ ra bất mãn với hoàn cảnh. Rất nhiều gia đình sau Tháng Tư, 1975 có con gái mất tích giữa đại dương ngày vượt biển, phải chi được đổi lấy một hoàn cảnh của người bạn kia, thì gia đình họ sẽ vui sướng hạnh phúc bao nhiêu!

Em tôi sang Mỹ chậm, con cái không có cơ hội và cũng thiếu may mắn trong chuyện học hành, lớn lên, đứa thì làm công nhân hãng xưởng, đứa thì bưng phở trong nhà hàng, đứa thì chạy xe hàng xuyên bang. Nhìn quanh bạn bè, con ai cũng thành đạt, ông em sinh ra tự ti mặc cảm, tránh xa thiên hạ, không muốn giao thiệp với ai, không muốn nói đến chuyện gia đình. Những đứa con gia đình này, không có tội lỗi gì, cũng không cần phải mang mặc cảm như bố. Bao nhiêu người chết sông, chết biển, mình mang được cả gia đình trọn vẹn sang đây, ai cũng có công ăn việc làm ổn định, sống lương thiện, không vướng trộm cắp, ma túy. Bao nhiêu người mơ ước có cuộc đời như mình mà không được.

Có ông bạn gặp bà vợ lắm điều, không hợp ý, ông vò đầu bứt tai than khổ, tưởng như đang sống dưới mấy tầng địa ngục. Nghĩ lại, có người vợ mất sớm, thân già vò võ một mình, quạnh hiu biết chừng nào. Có người thì vợ đau yếu, vào ra bệnh viện, thập tử nhất sinh, giờ lại phải vào nhà dưỡng lão, ông phải vất vả vào ra hàng ngày. Còn có vợ bên mình, không còn ngọt bùi như thời xuân sắc, nay dù có điều bất như ý, thì cũng còn có nhau, bao nhiêu người mơ ước cảnh đời này mà không được.

Khi người ta bất như ý, người ta có thói quen oán Trời trách Đất. – “Trời ơi sao tôi khổ thế này?”- “Sao Ông Trời bất công quá vậy!”- “Thật là Ông Trời không có con mắt!”- “Ông Trời ơi, xuống mà coi nè!”

Cam chịu bình thản, thì người theo đạo Phật tin vào Nhân Quả và cái Nghiệp. Đời này thấy mình sao thì biết kiếp trước mình ăn ở làm vậy! Người Công Giáo thì tin đã có Chúa an bài, là do ý Chúa, chết cũng là do Chúa gọi về!

Người bình dân thường đổ cho tại cái số, giàu nghèo, no đói, sướng khổ đều do số Trời định, khi đã được Nam Tào, Bắc Đẩu ghi sổ rồi, thì “có chạy Trời cũng không khỏi,” cứ an phận thủ thường, ung dung tự tại mà sống!

Xin kể một chuyện bên Tàu: Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ ngao du ngoài đồng, mặc áo cừu, thắt lưng dây, tay gẫy đàn cầm vừa đi vừa hát.

Đức Khổng Tử hỏi: “Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ như thế?”

Ông Vinh Khải Kỳ nói: “Trời sinh muôn vật, loài người quý nhất mà ta được làm người. Trong loài người đàn ông quý hơn đàn bà mà ta được làm đàn ông.  Người ta sinh ra có đui què, non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi tuổi. Đó là ba điều đáng vui, có gì mà phải lo buồn”.

Lại xin kể một chuyện bên Tây: Từ đầu năm đến nay, hàng chục người đã thiệt mạng khi tìm cách vượt qua sông Rio Grande, nơi mực nước dâng lên cao nhất trong 20 năm qua, để tìm cách đến Mỹ.

Đoàn “caravan di cư” bất hợp pháp hơn 7,000 người áp sát biên giới Mỹ. Trạm biên phòng Del Rio ở Texas hôm tuần qua đã báo cáo, chỉ từ Tháng Sáu tới nay họ bắt giữ hơn 1,000 người Haiti.

Mới đây lại thêm một bức ảnh chấn động lương tâm thế giới ghi lại cảnh tượng một người cha và con gái người El Salvador bị chết đuối, nằm úp mặt xuống nước tại bờ sông Rio Grande ở biên giới Mỹ – Mexico khi tìm cách bơi qua sông. Họ là những người đang tìm cách đến Mỹ và hy vọng sống được trên đất Mỹ, như chúng ta.

Liệu chúng ta có nên phàn nàn nữa không?

(Huy Phương)

Nỗi Buồn Cuối Năm, Nỗi Buồn Cuối Đời – Huy Phương

Van Pham is feeling sad.

GÓC SUY TƯ

Giáng sinh hay cuối năm là dịp đoàn tụ gia đình cũng là dịp để san sẻ tình cảm cho nhau… Chúng ta dể dàng cảm thông và mủi lòng trước những hoàn cảnh thương tâm ở chung quanh. Nhưng đôi khi chúng ta lại hững hờ với chính người thân của mình, nhất là cha mẹ già….

***

Nỗi Buồn Cuối Năm, Nỗi Buồn Cuối Đời

Tạp Ghi Huy Phương

Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách đến thăm viếng.

Những ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.

Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế. Được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão.

Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già!

Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ. Phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến.

Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó.

Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”

Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai.

Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ thổi qua.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?

Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người Mỹ – Úc…. không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.

Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.

Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão.

Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!

NỖI BUỒN CUỐI NĂM, NỖI BUỒN CUỐI ĐỜI

NỖI BUỒN CUỐI NĂM, NỖI BUỒN CUỐI ĐỜI

Huy Phương

“Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.

Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già!

Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”, không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”

Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu ?

Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.

Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.

Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!”

HUY PHƯƠNG

Món Khế Chua

 Tạp Ghi Huy Phương

Món Khế Chua

Những người xa quê hương như chúng ta, mỗi lần nghe một tiếng đàn bầu nỉ non, một giọng hò khoan nhặt hay một câu vọng cổ thiết tha, không khỏi bùi ngùi, có khi rơi lệ thổn thức nhớ đến quê hương.

Người lớn lên sống suốt đời với quê hương, ít khi nhìn thấy quê hương đẹp đẽ, chỉ những người đi xa trở lại như câu chuyện “chốn quê hương đẹp hơn cả” trong sách giáo khoa thư với câu nói quen thuộc “tôi đã đi du lịch ở nhiều nơi, nhưng không nơi nào đẹp bằng quê hương!” mới thấy quý thương quê hương.

Chúng ta, những người đã bỏ quê hương ra đi trong nhiều năm, có người thề không bao giờ trở lại quê hương khi ở đó còn chế độ Cộng Sản còn chế ngự lên đầu lên cổ nhân dân, thì lại thương nhớ quê hương biết chừng nào, vì đây không phải là “xa quê hương” mà là “mất quê hương”.

Đối với những người đang bước tới tuổi xế chiều, thì tiếng gọi quê hương còn thúc giục mãnh liệt hơn nữa, nung nấu tấm lòng, trăn trở qua những đêm không ngủ, khi gặp phải những cảnh trái ngang không vừa lòng, khó hoà nhập ví cuộc sống mới, bất mãn vì những việc riêng tư, buồn việc gia đình, hay vì cách đối xử của con cái.

Chúng ta thử tưởng tượng hình ảnh một chiều mùa đông giá buốt ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, một người già ngồi trong cửa sổ nhìn tuyết rơi mà lòng nhớ đến quê hương xót xa biết chừng nào. Mà không phải chỉ nơi đó, ngày nay ở Nga Xô, Trung Quốc, Úc Đại Lợi, Âu Châu và cả những miền nắng cháy Phi Châu, đâu cũng có người Việt xa xứ thương nhớ quê hương.

Ngày xưa thuở thanh bình, một người ở ngay trên quê hương của mình, trưa nghe “một tiếng gà trưa gáy não nùng” đã thấy buồn, gợi nhớ đến dĩ vãng. Bạch Cư Dị mới bị đày đi Giang Châu cùng trong một nước Trung Quốc, một đêm nghe tiếng đàn tỳ trên sông, nghe lời tâm sự của một nàng ca kỷ lưu lạc mà đã

“lệ ai chan chứa hơn người,

Giang Châu Tư Mã đượm màu áo xanh”.

Huống gì ta, nơi chân trời góc bể, xa quê hương nghìn dặm đường mà với những khoảng cách không bao giờ làm ngắn lại được, sẽ đau lòng biết bao nhiêu? Người về lại với quê hương thì cũng chừng ấy người với những lượt đi về thường trực tiếp nối, người không muốn về với quê hương thì chưa về. Người sống xa quê hương như cây trồng trong chậu, có lẽ dù tưới bón tới đâu thì gốc rễ vẫn không nằm sâu trong đất.

Chúng ta có bao nhiêu điều xót xa vì tình cảnh ly hương như thế mà phải cam chịu, nhưng lòng ta không bao giờ là không nghĩ, nhớ đến quê hương. Như vậy quê hương phải chăng là tiếng gọi sâu kín nhất trong lòng mỗi người, để những lúc yếu lòng vì ngoại cảnh, một đám mây “hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”, hay một làn khói trên sông “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” mà nhớ nhà, nhớ nước.

Quê hương và quá khứ đã gắn liền với nhau, vì chúng ta đã có đoạn thời gian quá dài gắn bó với quê hương, dù nghèo đói, chiến tranh. Bỏ quê hương bao giờ cũng là điều bất đắc dĩ. Phải chăng quê hương là chỗ yếu lòng người ly hương, chỗ “gót d’ Achille” của mỗi một chúng ta nên chế độ ở trong nước luôn luôn tìm cách đánh vào chỗ yếu ấy, chỗ tình cảm sâu khuất nhất trong lòng mỗi người.

Lâu nay chúng ta thấy bao nhiêu lời mời gọi từ trong nước, quanh quẩn trong hai chữ “quê hương”. Nhẹ nhàng thì phong cảnh quê hương, ca nhạc dân tộc, thực tế và đôi khi thô thiển hơn thì Saigon ăn chơi, Vũng Tàu du hí, Hà Nội hoa hậu, tinh tế mời gọi hơn thì “duyên dáng Việt Nam”, “Festival Huế”. Ai lại không muốn về với quê hương, nghe giọng thổ âm thân quen, ăn món ngon quê hương quen miệng từ ngày thơ ấu, đi lại trên con đường làng quen thuộc sau suốt một cuộc đi dài, nhất là khi mái tóc đã hoa râm, tấm thân đã mệt mỏi. Có bao nhiêu người đã trở về, mỗi năm một đôi lần, khi chúng ta đã muốn đi thì có biết bao động lực và lý do: – xây lại nấm mồ cha mẹ, làm lại ngôi nhà thờ, làm lễ mãn tang, chúc thọ người thân v.v……

Việt Nam hiện nay rẻ của, rẻ người, đồng đô la có thể làm biến dạng một ông già thành người trai trẻ, một người sống trong lãng quên thành một hoàng tử giữa một cung đình.

Người ta nói rằng “Duyên Dáng Việt Nam” là một chương trình nghệ thuật hoàn toàn không mang một sự tuyên truyền chính trị nào, nó không có cờ đỏ, không có hình ảnh lãnh tụ hay khẩu hiệu tuyên truyền. Nhưng chúng ta cũng nên hiểu rằng nó đã được nhà nước công phu tuyển chọn những giai nhân tuyệt sắc, những y phục đẹp nhất, những kỹ thuật mới mẻ nhất, công phu dàn dựng và một ngân khoản lớn không tiếc tiền trong khi dân tình còn đói khổ, chế độ còn bất công và áp bức còn đầy rẫy. Họ đến đây hẳn không vì lý do thương mãi hay để mua vui cho “núm ruột thân thương nghìn dặm”? Quả là viên thuốc “quê hương” bọc đường ngọt ngào như những dòng thơ của Nguyễn Trung Quân.

Trên thế giới này có hằng trăm triệu con người có tự do để chọn một nơi khác làm quê hương của mình. Sau ngày 20 tháng 7-1954, một triệu người miền Bắc đã đến miền Nam “xin nhận nơi này làm quê hương”.

Sau ngày 30 tháng 4-1975, gần ba triệu người Việt đi tìm một quê hương khác trên khắp quả địa cầu. Dù ai cũng biết “quê hương là chùm khế ngọt”, biết rằng “quê hương mỗi người chỉ một” người ta vẫn đi tìm một quê hương khác để khỏi nếm phải chất chua của chế độ. Bây giờ hầu hết xem quê nhà như một nơi du lịch, đến và ra đi như một người khách lạ.

Ở những quê hương thứ hai này, con người rõ ràng đã “lớn nổi thành người”, thứ con người tử tế, có nhân cách, không biết xảo trá hay chiều chuộng ai. Quả đất tròn, nên đi hết biển có thể trở lại nơi khởi hành, tuy vậy con cá hồi, con chim én còn chọn mùa, chọn vùng biển, vùng trời, huống gì con người.

Tuy vậy rồi tất cả, đều trở lại nơi không phải là quê hương của mình mà cảm thấy bình yên như chính ở quê hương. Nghe mà xót xa thay khi bà con chúng ta đi Việt Nam lúc trở về nơi “ăn nhờ ở đậu” lại có cảm tưởng như được “trở về nhà”.

“Dù ai nói ngọt nói ngon”, dù ai đem “núm ruột ngàn dặm” chiêu dụ thì quê hương vẫn là quê hương, nhưng xin hẹn một ngày về chưa phải là hôm nay, và hy vọng của chúng ta sẽ không bao giờ tàn lụi.

Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”…

 Tạp Ghi Huy Phương

Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”….

(Văn hóa của kẻ “thắng cuộc với văn hóa của người “thua cuộc”!!!)

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh:

– “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ:

– “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra. Cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội.

Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.

– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.

– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”

Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.

– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”

– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.

– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau 42 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “Singapore của bác” mà ở Hà… Paris… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.

– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.

– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội Paris và Sài Gòn Sing sẽ mãi mãi khác nhau vì chúng ngày càng gân hơn. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội Paris” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian. Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.

Hình minh họa: – Một xã hội đè lên nhau để chụp giựt…

May be an image of one or more people, people walking, people sitting, people standing, motorcycle, crowd and outdoors

Tháng Tư… Ngu! – TẠP GHI HUY PHƯƠNG…

 

 

RẤT NHIỀU NGƯỜI TRONG CHÚNG TA THƯỜNG MỞ MIỆNG CHỈ TRÍCH VIỆT CỘNG LÀ NGU – CHÚNG TA KHÔN HƠN.

ĐÃ 46 NĂM, CHÚNG TA VẪN CHƯA LÀM LUNG LAY ĐƯỢC CHẾ ĐỘ… CHÚNG VẪN NGỒI ĐẤY VÀ NẮM QUYỀN?! AI KHÔN & AI NGU ĐÂY?

***

TẠP GHI HUY PHƯƠNG…

Tháng Tư… Ngu!

Trước hết, tôi xin tự kiểm điểm cái ngu của bản thân mình trước, trong hàng nghìn cái ngu của thiên hạ, vì ngu mà phải mất nước, “lỗi tại tôi mọi đàng” hay “tôi làm tôi mất nước.”

Là một cán bộ chiến tranh chính trị trung cấp, hết làm tâm lý chiến, rồi chính huấn, tức là huấn luyện chính trị cho hàng nghìn tân binh tại một trung tâm huấn luyện lớn nhất nước, mà khi nghe Cộng Sản vào đến Sài Gòn, không chịu tìm đường chạy, vì cứ nghĩ mình gốc nhà giáo, hòa bình rồi, đi ‘học” mấy ngày rồi về dạy học lại!

Tôi ngu vì đã suy diễn hay hiểu sai thời gian đi “học tập,” nên chỉ đem theo 10 gói mì ăn liền Vifon, để ăn sáng trong 10 ngày, ngày thứ 11 đã ăn cơm nhà rồi!

Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định ra thông cáo tất cả các quân nhân cấp úy phải trình diện đi “học tập cải tạo,” mang theo tiền ăn trong 10 ngày, cấp tá mang theo tiền ăn cho một tháng. Sau này có người đi tù 17 năm ròng rã, chúng ta “chửi” Cộng Sản lừa dối, nhưng xem kỹ lại các văn bản, không thấy đoạn nào nói, cấp úy chỉ đi tù 10 ngày, cấp tá một tháng, mà chỉ nói “đóng tiền ăn.”

Chẳng qua, vì chúng ta hay suy luận, và ngây thơ, khờ dại nên mắc mưu sự khôn lanh, xảo quyệt của kẻ thù, đó chính là vì chúng ta ngu!

Sau này, ra Bắc, chính tai tôi đã nghe một quản giáo cai tù nói rằng: “Đưa các anh ra biển thì cũng từ từ, trước hết là gần bờ, sau mới dần dần đưa các anh ra xa hơn, nếu không các anh chóng mặt, say sóng, chịu làm sao nổi!”

Tôi đoan chắc anh em chúng ta, nhất là quý vị tướng lãnh, nếu biết được những ngày tù không bản án, mà có người ra đi biền biệt 17 năm trời, chịu bao nhiêu khổ ải, nhọc nhằn, nhục nhã, thì một nửa trong chúng ta đã tự sát tại nhà mà chết, hoặc chạy vào rừng để rồi cũng chết vì súng đạn của Việt Cộng. May hay rủi, vì ngu mà chúng ta mới sống đến ngày hôm nay.

Khi đến các địa điểm trình diện, không ai nghĩ “đi tù” mà chỉ nghĩ “đi học.” Tại trường Trưng Vương, là nơi trình diện từ cấp phó giám đốc trở lên, hai vị, một từng là phó thủ tướng VNCH, dân biểu, một vị đã là thượng nghị sĩ, đi học còn mang theo gối ôm, và khi xếp hàng vào cổng, có vị đã giành đi trước, vì có giấy giới thiệu của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định. Sau đó, bộ đội Cộng Sản mới ra lệnh: “Ai có giấy giới thiệu thì đứng qua một bên!” Giấy giới thiệu đây là giấy gọi “trình diện” cho các viên chức cấp cao, còn đối với cấp nhỏ thì chỉ có thông cáo chung trên báo chí, đài phát thanh.

Những ai còn đứng lấp ló ngoài cửa chưa chịu vào, còn nghi ngại dò la thì những chiếc xe mang tên nhà hàng Soái Kình Lâm, Đồng Khánh… mang thức ăn vào quý vị dùng bữa tối, hẳn đã đánh tan mối hoài nghi về thiện ý của người thắng trận.

Đến khi lên xe Molotova, phủ bạt kín rồi, chúng tôi vẫn còn lạc quan tin lời Cộng Sản được đưa đến chỗ đầy “đủ tiện nghi,” (chắc là có đủ điện nước, máy lạnh, sân bóng chuyền…) để học tập và khi biết đoàn xe ra đến xa lộ Biên Hòa, thì việc di chuyển lên Đà Lạt như cầm chắc trong tay. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Chỉ Huy Tham Mưu, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị là những nơi lý tưởng nhất để “học tập.”

Khi đến nơi ở tù rồi, Cộng Sản đưa tù vào một cái nhà kho, một trại gia binh hay một cánh rừng thì vẫn tin tưởng vào số ngày trong thông cáo, chờ ngày ra sân vận động Cộng Hòa làm lễ mãn khóa: “Quỳ xuống hỡi những cải tạo viên – Đứng lên hỡi những công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!”

Câu chuyện những người trên con tàu Việt Nam Thương Tín, Tháng Năm, 1975, sang đến đảo Guam rồi, lại đốt “barrack,” tuyệt thực để đòi “về với tổ quốc,” là một bài học xót xa cho những người trong cuộc, có người phải trả giá bằng 17 năm tù. Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh kể chuyện, anh em “tù cải tạo” tại trại tù K2, Nghệ Tĩnh, gọi những người này bằng biệt danh “đội q…!”

Tại trại 15 NV. Long Thành, một nhạc sĩ đã hồ hởi sáng tác những bản nhạc được cai tù bắt cả trại hát: “Trồng rau, trồng đậu, trồng tình thương trong tâm hồn người…” Ra tới Bắc Thái lại thêm một bài “Ngày vui đã tới!” nhưng mà “ngày về” thì xa lắc xa lơ!

Thậm chí khi lên con tàu chở súc vật Sông Hương lưu đày ra Việt Bắc rồi, có người vẫn lạc quan “biết đâu nó chở tù miền Nam ra Đệ Thất Hạm Đội Hoa kỳ hay đi thẳng qua Guam để giao cho Mỹ!” Tàu chạy hơn một ngày một đêm rồi mà vẫn nghĩ là cập bến Đà Nẵng chứ không ai nghĩ là lên cảng Hải Phòng.

Ở trong nhà tù vẫn còn người tin tưởng “học tập, lao động” tốt thì được “Cách Mạng” cứu xét cho về với gia đình sớm, nên làm trối chết, kiệt sức, đấu tố anh em… để lấy điểm với cán bộ, cũng như đau xót cho quý bà ở nhà, dắt díu con cái đi vùng “kinh tế mới” cho chồng sớm được tha! Sau 10 “bài học tập,” tới buổi “thu hoạch” thì cứ nghĩ là viết hay thì được tha về, viết dở thì ở lại “học” tiếp.

Trước ngày 29 Tháng Ba, 1975, khi Cộng Quân chưa vào Đà Nẵng, một số người thuộc phe hòa hợp hòa giải tin tưởng thời cơ đã đến nên đã sắp đặt đưa Bác Sĩ Phạm Văn Lương lên làm thị trưởng Đà Nẵng, tin sau đó được đài BBC loan báo. Trong lần phỏng vấn bà quả phụ Phạm Văn Lương tại Nam California, bà xác nhận với chúng tôi Bác Sĩ Phạm Văn Lương chưa bao giờ là thị trưởng Đà Nẵng, nhưng có chuyện là khi có nguồn tin này, một vị trung tá đã đến gặp ông xin làm tài xế cho ông, để nhờ ông che chở, lánh nạn. Sao có người “ngu” đến mức như thế!

Ngày 5 Tháng Tư, 1975, Bác Sĩ Phạm Văn Lương cùng nhiều y sĩ khác bị đưa vào nhà tù Kỳ Sơn, và một năm vào ngày 3 Tháng Tư, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine để tự tử.

Trong những ngày cuối cùng của miền Nam, Tướng Dương Văn Minh vẫn còn tin tưởng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng cuối cùng, tiếng than cuối cùng tuyệt vọng của “Tổng Thống” Dương Văn Minh là: “Thầy giết tôi rồi!”

Có những người làm lớn hoặc từng “làm rung rinh nước Mỹ” mà còn ngây thơ như vậy, thì đừng trách chi một thằng lính như tôi tin tưởng vào lời của “cách mạng” đem đủ 10 gói mì ăn liền, là… ngu!

Quân tử, ngay thẳng, ngây thơ mà đối đầu với tiểu nhân, xảo trá, độc ác thì không chết cũng bị thương.

Tôi đâm ra nghi ngờ những lời kêu gọi chúng ta rằng, hãy “đem đại nghĩa để thắng hung tàn,” để rồi từ đó cho đến ngày hôm nay mọi người đều biết và thấy nhan nhản chuyện “cường bạo áp đảo cả chí nhân!” !!!

Mỹ nhân và danh tướng

Tạp ghi Huy Phương

***

Mỹ nhân và danh tướng

Người xưa có câu thơ về cái chết trẻ của những người đẹp và tướng giỏi: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu!” Dịch sát nghĩa là: “Người đẹp từ xưa như tướng giỏi. Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu!”

Chúng ta xem đây là một lời than tiếc hay chính là định mệnh của con người, tướng giỏi thường chết sớm ngoài trận địa và người đẹp ít khi sống đến già.

Những câu thơ này phát xuất từ Trung Hoa không phải là sai. Cả “tứ đại mỹ nhân” nổi tiếng nhan sắc khuynh thành của Trung Hoa đều chết yểu, không những chết sớm mà còn bị chết “bất đắc kỳ tử!”

Tây Thi sau khi nhà Ngô bị diệt, bị phu nhân Câu Tiễn cột đá dìm sông; Vương Chiêu Quân uống thuốc độc tự tử; Điêu Thuyền bị Quan Võ chém; Dương Quý Phi được Đường Huyền Tông “ban” cho một giải lụa trắng để kết liễu cuộc đời. Đúng là “hồng nhan bạc mệnh!”

Sáu danh tướng trong Tam Quốc Chí thì chỉ có Tào Thực sống đến 40, còn thì Tôn Sách, Quách Gia, Bàng Thống, Chu Du… không ai được “hưởng thọ” mà chỉ được đến… “hưởng dương.”

Ngày trước, thuở thiếu niên, tôi mê tướng Hạng Võ thời Đông Chu, có tài “bạt sơn cử đỉnh,” một người đánh thắng vạn người,” cuối cùng tận đường, không qua Ô Giang để về Giang Đông, phải tự sát trong khi mới có 31 tuổi. Lãng mạn, bi hùng biết mấy với những màn kịch “Hạng Vũ biệt Ngu Cơ” hay “Tiếng dịch sông Ô,” “Hận Ô Giang.” Tướng tài phải chết trẻ.

Napoleon Bonaparte sống được 51 tuổi nhưng phải chết trong cảnh tù Ðày. Alxandre Đại Đế chỉ sống được 31 năm. Quang Trung lẫy lừng chiến tích, cũng mất khi mới 39 tuổi.

Ngày nay, tướng lãnh không còn phi ngựa ra trước hàng quân, giữa trận tiền, trước lằn tên mũi đạn như trong các cuộc chiến ngày xưa, nhưng miền Nam chúng ta có những vị tướng lãnh lỗi lạc, cũng phải chết vì trận mạc, vì tai nạn trực thăng, tất cà đều còn rất trẻ, chưa qua được tuổi 50. Đó là Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn năm 42 tuổi, Tướng Nguyễn Viết Thanh năm 39 tuổi, và Tướng Trương Quang Ân, khi còn rất trẻ, chỉ mới 36 tuổi. Phải chăng danh tướng từ xưa đến nay, không qua được định mệnh “bất hứa nhân gian kiến bạc đầu!”

Bài này lấy ý từ những cái chết gần đây của Tướng Lê Minh Đảo và các ca sĩ Quỳnh Giao, Thái Thanh, Mai Hương, Lệ Thu…

Ông Lê Minh Đảo không phải là những vị tướng còn trẻ, Thái Thanh, Lệ Thu…cũng đã bước vào tuổi già. Ca sĩ cũng được xem như mỹ nhân, vì trong nghiệp ca cầm, ít nhất phải có chút nhan sắc mới thành được ca sĩ.

Ca sĩ là người của công chúng, tướng lãnh là người của lịch sử. Họ được người đời hâm mộ và yêu mến, nên khi chết đi, đã để lại cho đám đông những ngậm ngùi thương tiếc.

Xót xa biết bao khi chúng ta có dịp được gặp lại những ca nghệ sĩ lừng danh một thời, hiện nay đáng sống ẩn khuất, cô đơn lặng lẽ, bị bỏ rơi, quên lãng trong một nhà già lập nên cho giới nghệ sĩ sân khấu nào đó. Nhưng hơn hết, khi các bạn có dịp đi thăm để gặp lại một vị tướng lãnh oanh liệt một thời, nay phải thúc thủ với số mệnh, trên chiếc xe lăn, sống cô quạnh ở trong một ngôi nhà dưỡng lão, ảm đạm buồn nản thiếu một không khí ấm cúng của một mái ấm gia đình.

Tướng lãnh, phải chăng nơi nằm xuống của họ là chiến trường, không phải như sự ví von “da ngựa bọc thây,” thì cũng phải với một lá cờ tổ quốc, và chung quanh là chiến hữu, đồng đội. Buồn thay là những vị tướng lãnh về già, sống trong sự quên lãng của mọi người, âm thầm chịu đựng những cơn đau của thể xác và nỗi đau cô đơn của tinh thần.

Võ Nguyên Giáp, viên tướng Cộng Sản vẫn thường được đề cao trên sách vở bên kia, “hết nửa đời sau,” đã phải sống trong sự coi thường, khinh miệt của đồng đảng, mang danh là đại tướng “cầm quần chị em” thay vì cầm quân….. khi bị giao cho nhiệm vụ làm phó thủ tướng vô quyền, phụ trách Ủy Ban Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình (tức là cai đẻ). Thọ như ông Giáp (102 tuổi) là thọ nhục.

Nhìn lại cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua, chỉ là một tên lính vô danh, trước nỗi thất trận, bất lực đành chịu nhục nhã trong cảnh đầu hàng, phải bị bắt làm tên tù binh biệt xứ, tôi đành cam chịu, nhưng khi nhìn thấy những vi tướng lãnh của mình, bị chính sách trả thù tàn độc của Cộng Sản Bắc Việt cầm tù, đưa ra Bắc, phải lao động vất vả, gánh phân, cấy lúa mổi ngày, lễ phép dở nón chào những tên lính Bắc Việt, mặt còn non choẹt ngồi trên chòi canh, lòng tôi cảm thấy bất nhẫn và thương cảm cho những người anh niên trưởng của mình.

Nói ra chỉ thêm đau đớn, nhưng thà làm một tướng chết trẻ ngoài trận mạc, hay kết thúc đời mình bằng một viên đạn trong ngày thất trận 30 Tháng Tư, để cho đời sau thương tiếc khóc than còn hơn!

Theo tôi, đoạn kết buồn của một tướng lãnh khi phải sống lưu vong xứ người, chết bệnh tật, già nua trong nhà dưỡng lão, đoạn kết buồn của một mỹ nhân là sống đến tuổi già, mà không dám nhìn khuôn mặt mình trong tấm kính soi.

Nhưng nhiều người muốn sống thêm mà không được sống, nhiều người muốn chết mà số mệnh chẳng cho, đành phải trôi nổi theo số phận an bài.

******

– Những tấm thẻ bài tượng trưng cho các quân nhân Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam tại cuộc triển lãm ở National Vietnam Veterans Art Museum ở Chicago, Illinois, hồi năm 2005. (Hình minh họa: Tim Boyle/Getty Images)

No photo description available.

TÌNH GIÀ

Van Pham

CHUYỆN PHIẾM CUỐI TUẦN…

Gửi mấy ông bà bạn già của tui… ở trỏng cũng như ở ni… đọc cho thoải mái cái đầu và để thấy… “hy vọng đã vươn lên trong màn đêm, bao u buồn…”

********

TÌNH GIÀ

Huy Phương

Tuần qua, giữa những tin buồn, tôi đã đọc được một tin vui. Trong hai chuyên tang, hôn, “hôn” chẳng vui là gì. Ðó là chuyện ông cụ Ebemezer Rose 93 tuổi vừa kết hôn với bà Monica Hayden, 89 tuổi ở West Palm Beach, Florida. Lý do đơn giản họ đưa ra là, “Chúng tôi đều cô đơn, tại sao không nghĩ đến việc lấy nhau?”

Người qua đường nghe chuyện này có người nói, “Già hết xí- quách rồi, lấy nhau làm chi nữa?” hay về phía cô dâu chú rể, người ta cũng có thể bình luận, “lấy nhau về để đổ bô cho ông (hay bà) ấy hay sao?” Mỗi lần mở đài phát thanh nghe các nhà thuốc Tây quảng cáo bán nào ống dẫn tiểu, túi dựng phân, tã lót, xe lăn, gậy chống… nghe đã lạnh người, cứ tưởng tượng ra đem một ông già hay bà lão về để phục vụ, rồi lo “hậu sự” đã đủ khiếp. Ở đây hai ông bà già, chỉ mới biết nhau hai mươi năm về trước, không tình mà cũng chưa đủ nghĩa, lấy nhau tất nhiên phải có lý do. Ðó là hai tâm hồn cô đơn tìm đến với nhau trong những ngày cuối đời, cũng có lý lắm chứ!

Hình như tình yêu của người Tây phương kéo dài lâu hơn tình yêu của người Á Ðông. Chúng ta thấy những ông bà cụ già cầm tay nhau đi trong công viên, thủ thỉ bên nhau, hôn nhau dịu dàng là chuyện thường tình, trong khi các ông bà cụ của chúng ta, thường già trước tuổi, bà cụ mới vừa tắt kinh đã đỏ mặt khi đụng chạm với ông cụ, cứ giẫy nẩy lên, sợ lũ trẻ nó cười, sợ già mà “không nên nết.” Vì vậy, chúng ta lại cũng thường khắt khe đối với những người lớn tuổi chết vợ, mất chồng mà còn “bước qua dư luận” tục huyền hay tái giá. Văn chương bình dân thì mỉa mai chuyện “bà già đã tám mươi tư, ngồi trong cửa sổ viết thư tìm chồng”, hay kể chuyện “bà già ra chợ Cầu Ðông, xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói xem quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!” thật là “kỳ thị” hết chỗ nói.

Các cụ xưa thường đùa rằng, “Càng già càng dẻo càng dai, càng gãy chân chõng càng sai chân giường.” Nhưng theo các nhà y học, thì nói như vậy là trái với khoa học, có lẽ các cụ tiếc của trời, nói cho sướng miệng thế thôi. Nhưng bao nhiêu tuổi mới gọi là già, chưa nghe ai ấn định cho rõ ràng. Vả lại vợ chồng lấy nhau lúc trẻ, sống với nhau vì tình, về già nếu không còn tình, thì sống với nhau vì nghĩa, đâu phải cần đến chuyện chăn gối mà hạnh phúc vẫn vững bền, miễn là đừng bao giờ dập tắt sự chiều chuộng thương yêu.

Cuộc hôn nhân lâu bền nhất trên trái đất này thuộc về ông bà Arrowsmith ở Hereford, Anh Quốc. Ông cụ Percy Arrowsmith vừa mất hồi Tháng Sáu 2005 khi ông được 105 tuổi, và vợ ông 100 tuổi sau khi họ tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm hôn nhân hai tuần lễ trước đó. Bí quyết của đôi vợ chồng già kỷ lục này họ không bao giờ cãi nhau lúc lên giường và thường hôn hay cầm tay nhau trước khi đi ngủ. Mới đây nhất thì hồi Tháng Năm 2009, cũng tại Anh Quốc, ông cụ Frank Milford 100 tuổi và bà Anita 99, vừa ăn mừng hôn lễ thứ 80. Họ cũng tiết lộ là họ luôn luôn hôn nhau trước khi đi ngủ (không nghe nói trước hay sau khi tháo răng giả).

Vậy thì những ông già chết vợ, những bà lão góa chồng, nếu cảm thấy trống lạnh trên cõi đời này, chẳng có ai hôn mình trước khi đi ngủ, sao lại không có quyền bước thêm bước nữa.

Ở nước ngoài này hay trong nước, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe dư luận chê trách những cái đám cưới mà ông cũng “thất thập cổ lai hy”, bà cũng “lục thập đắc nhĩ thuận” và cho đó là chuyện bất thường, nhưng nếu không là người trong cuộc, làm sao hiểu nỗi chuyện của họ. Lúc về già, vợ hay chồng mất sớm, con cái đều lập gia đình, ra ở riêng, ông hay bà thui thủi cô đơn, “lúc tỉnh rượu, lúc tàn canh” cũng buồn lắm chứ, sao không kiếm về một nửa bên kia của ai đã bỏ lại trên đời này, để ráp nối lại chiếc phi thuyền cuối đời bay về… cõi chết.

Nếu không rồi đây “khi rượu sớm, khi trà trưa, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” lấy ai mà đối ẩm, lấy ai mà tri kỷ. Bạn thử nghĩ rồi đây, sáng thức dậy, bên ly cà phê nhỏ những giọt cô đơn, đọc một câu chuyện vui cũng chỉ biết cười một mình như thằng điên, buồn nỗi thế sự cũng không biết chia xẻ với ai, nghe một chuyện bất bình không có trái cam mà bóp nát trong tay, lấy ai làm người tri kỷ để chuyện trò, tâm sự.

Gần đây, hải ngoại quả thật có nhiều cụ, để trả thù những ngày cơ cực, tù đày, áp bức đã qua, làm những cuộc hôn nhân bước thêm bước nữa với những cô con gái còn quá trẻ, nhưng không biết lượng sức mình, đến nỗi “tinh khô, lực kiệt”, trở về trên chiếc xe lăn để người đời dè bỉu, châm biếm, mà con cháu cũng xấu hổ chê cười.

Những mối tình này được kết hợp một bên là thèm khát dục vọng, một bên là đồng đô la, không thể gọi là tình yêu được. Vì vậy, người đời hay khắt khe châm biếm những ông già mà lấy vợ trẻ, lại mỉa mai “trâu già mà thích gặm cỏ non” trong lúc chính các cụ răng yếu, vẫn thường lựa thức ăn mềm mà ăn thì chẳng ai nói gì.

Thầy Mạnh Tử cho rằng đại trượng phu là phải “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.”

Trong ba thứ “bất năng” này, thứ bất năng đầu tiên coi bộ khó giữ, vì thấy ở phương Tây này, các ông tỷ phú già thì lại hay lấy vợ sexy như người mẫu hay là vũ nữ thoát y. Tỷ phú Joe Hardy 84 lấy người mẫu Kristin Georgi 23, tỷ phú J. Howard Marshall 89 còn lấy cô vũ nữ playboy Anna Nicole Smith 26 tuổi, chỉ 14 tháng sau là “đứt bóng”, gây nên một vụ án chia gia tài khá ồn ào.

Nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã hát rằng, “Khi người ta yêu nhau , yêu trong lúc hai mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng được bao lâu…”, “Khi người ta yêu nhau, yêu trong lúc bẩy mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng còn bao lâu….”

Cho nên, bây giờ nếu các bạn nghe tin một ông cụ 90 mà lấy một bà lão 85, mặc dầu “chẳng còn bao lâu”, nhưng chắc chắn là không phải vì tiền rồi. Không phải vì tiền thì chỉ có một đường là vì tình, tình này bạn muốn hiểu là “tình cao thượng”, “tình trong sáng”, hay “tình cuối”, “tình già” sao cũng được.

Khi người ta lập gia đình năm hai mươi hay hai mươi lăm tuổi, có thể vì tình yêu xốc nổi, vì bồng bột, nhưng ở tuổi bảy mươi, sau khi đã qua tuổi “tri thiên mệnh” đã hai mươi năm, việc cưới một người về chung sống phải là việc suy nghĩ, chín chắn không ai có thể chê trách hay nghi ngờ vào đâu được.

Chưa ai biết ai đổ bô cho ai, chứ đêm nay trời trở lạnh, có hơi người cũng ấm, sống một mình, có người gãi lưng giùm cũng đỡ khổ. Trên giường có hai người bạn già nương tựa vào nhau, thì trong cái ly nước trên bàn ngủ, hai hàm răng giả cũng đang ngụp lặn bên nhau. Nói theo kiểu người Huế “Ðời còn vui không có răng mô!” (Ðời còn vui, không có sao đâu!)

Xin chúc mừng và nhớ “giúp nhau” nhé!!! kakakaaaa

Image may contain: text that says 'Love is... Supporting each other in old age.'

‘Nghĩa đời trong ba tiếng’ (*)

Image may contain: one or more people, people sleeping, baby and closeup

 

TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

*******

‘Nghĩa đời trong ba tiếng’ (*)

Nhân loại, ai khi mới sinh ra cũng cất tiếng khóc. Theo y học, sau khi ra đời, cuống nhau thai nhi cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng bị cắt bỏ, đứa bé buộc phải tự hô hấp. Tiếng khóc làm phổi mở rộng và đứa trẻ bắt đầu thở. Tiếng khóc của em bé giúp đẩy ra và hít không khí vào phổi liên tục với tốc độ nhanh, giúp phổi nhanh chóng thích ứng với việc hô hấp. Tiếng khóc còn giúp trẻ sơ sinh loại bỏ được những chất dịch còn đọng lại trong phổi, mũi hoặc miệng.

Nghe tiếng khóc, bác sĩ còn có thể biết được tình trạng sức khoẻ của đứa trẻ.

Trẻ không khóc là không thở được, người ta sẽ dốc ngược thân em bé xuống và vỗ mạnh vào mông đứa trẻ.

Tiếng khóc đầu đời của một bé sơ sinh cũng là nỗi vui cả người cha đang ngồi ở phòng chờ và người mẹ vừa mới qua cơn sống chết để sinh con. Tiếng khóc cũng là âm thanh khởi đầu cho một đời người, mà theo triết lý bi quan, có buồn nhiều hơn vui, vì “đời là một thung lũng nước mắt,” hay “đời là bể khổ.”

Chính Nguyễn Công Trứ cũng đã có lần hỏi: “Trần có vui, sao chẳng cười khì?”

Dù thế nào đi nữa, tiếng khóc cũng là biểu hiện cho sự sống. Đó chính là niềm hạnh phúc cho mỗi gia đình.

Lớn lên, ai cũng phải vất vả mới có miếng ăn. Dù là “cổ xanh” hay “cổ trắng,” ai cũng phải chạy theo thời gian, dính líu đến chiếc đồng hồ chỉ giờ.

Ngày còn đi làm, tôi ghét nhất là cái đồng hồ báo thức, lúc sáng sớm, bỗng reo lên, phá tan cơn mộng mị và giấc ngủ đang ngon lành, vì cứ đi trễ vài lần là chắc chắn mất việc, mà mất việc sẽ dẫn đến chuyện mất nhà, và mất… vợ!

Qua thời gian đi làm việc mưu sinh trên xứ này, nếu có người hỏi tôi, cái gì làm cho tôi chịu đựng nhiều nhất, đó là gặp một ông boss khó tính hay bạn đồng nghiệp thiếu thân thiện, kỳ thị, thì tôi trả lời ngay đó là cái đồng hồ báo thức khi phát kêu lên những tiếng kêu khó thương mỗi buổi sáng, những buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo, nhất là những ngày ở miền Đông, vén màn nhìn ra ngoài trời, thấy tuyết đang rơi mù mịt.

Dù là cái đồng hồ hay chiếc radio phát ra những nốt nhạc trầm bổng, hay tiếng kêu lích kích thì cũng chẳng ai ưa, nhưng nếu cái vật biết kêu này, một sáng nào đó, nhức đầu sổ mũi, ngủ quên, làm chính chủ nhân nó cũng ngủ quên theo, thì lại là một đại họa.

Đó là “nhân vật” gần gũi khó chịu nhất, mà tối trước khi đi ngủ, chúng ta phải sờ đến nó, trừ tối Thứ Bảy và những ngày nghỉ lớn trong năm. Có lẽ đến tuổi về hưu, chúng ta nên “làm lễ” tống khứ cái đồng hồ báo thức, hay lấy búa đập nó thành mớ sắt vụn, cho hả dạ.

Thời gian làm lụng vất vả, ai cũng mong cho đến một này “rửa tay, gác kiếm,” thong dong bước vào tuổi già, mắc võng giữa hai cây lớn, đầy bóng im trong vườn nhà, đong đưa cho quên hết việc đời. Nhưng khổ nỗi, chữ “hưu” gần với chữ “già,’ mà già, bệnh, và chết là ba giai đoạn cuối cùng của cuộc đời. Ít ai được chết như ngọn đèn hết dầu tắt phụt hay như chiếc xe hết nhiên liệu, đột ngột tắt máy, dừng lại giữa đường. Không ít thì nhiều, khi ta về già, ai cũng trải qua nhiều thứ bệnh tật, vào ra bệnh viện, trước khi xuôi tay.

Nhìn quanh bạn bè, chẳng ai khá hơn ai. Người thì bị troke bán thân bất toại, người thì suy thận, phải vào bệnh biện ba lần mỗi tuần để lọc thận, người phải mang bình tiểu quanh năm, người mắc bệnh ung thư, sau nhiều năm chữa bệnh, tóc rụng, thân gầy nằm chờ chết. Mà không ai biết ngày mai, mình sẽ ra sao? Không biết đêm nay có phải là một đêm yên lành, để sáng mai thức giấc, còn được nhìn thấy ánh mặt trời qua khung cửa hay không. Chuyện gì sẽ đến trong đêm hôm nay?

Nhiều đêm, chúng ta chợt thức giấc nửa khuya, nghe tiếng còi cấp cứu vang rền trong đêm vắng, để đưa một ai đó vào bệnh viện. Chúng ta đã có lúc, hay rồi ra sẽ có khi là nhân vật nằm trên chiếc cáng, trong chiếc xe màu trắng, loang loáng ánh đèn đỏ, chớp tắt liên hồi ấy, hối hả trên đường đến bệnh viện.

Tiếng còi xe cứu thương đã trở thành một âm thanh ghê sợ, hãi hùng, có khi đem một người đi mãi không về, nếu không thì cũng bệnh viện với màu trắng của giường nệm, y phục của những người y tá, dây nhợ chuyền thuốc men, nước biển… Những đoạn thời gian hôn mê trong phòng mổ, những cơn đau vật vã, những mũi thuốc vội vàng từ người y tá và một nỗi buồn tê dại mỗi chiều, mỗi đêm, cô quạnh với những giọt thuốc nhỏ giọt thấm vào cơ thể, tiếng nói cười của những người xa lạ, trần nhà trước mắt và những ánh đèn chong sáng suốt đêm.

Con đường từ nhà ra nghĩa địa hay lò thiêu mà không đi qua bệnh viện là con đường đẹp nhất! Phúc cho ai chưa bao giờ phải nằm trên chiếc cáng trong xe cứu thương hay chưa trải qua một ngày nào trong bệnh viện.

Đêm nay, một đêm cuối năm lạnh lẽo, trời trở gió, văng vẳng đâu đây một tiếng còi xe cấp cứu, nghe khi gần khi xa.

Xin cầu nguyện cho chúng ta được một đêm yên lành, và không bao giờ chiếc xe đó, dù chỉ một lần, trực chỉ đến địa chỉ căn nhà của chúng ta đang sống!

Phải chăng,“Nghĩa đời trong ba tiếng”: Tiếng khóc của trẻ thơ. Chuông buổi sáng báo giờ. Hồi còi xe cấp cứu!

– Em bé chào đời. (Hình: PHILIPPE HUGUEN/AFP via Getty Images)

Chiếc Lon Guigoz…

 

TẠP GHI HUY PHƯƠNG

Chiếc Lon Guigoz…

Tôi đã lang thang trên “net” chiều nay nhưng không thể nào tìm ra hình ảnh của chiếc lon “gô”, người bạn ngày nào của tôi.

Bao bì của các món hàng sản xuất mỗi ngày mỗi tân tiến, mới lạ, đẹp đẽ và gọn nhẹ. Bây giờ người ta đựng sữa bột trong những bao bằng giấy dày hoặc bằng thứ kim loại mỏng, không như bằng chiếc hộp nhôm không rỉ sét, dày dặn như cái thời xa xưa đó. Người vẽ kiểu của chiếc lon “gô” ngày nào chắc cũng đã ra người thiên cổ, không còn để cái đám tù tập trung trong các trại tù Cộng Sản sau này gặp gỡ để nói một lời cám ơn về một thứ đồ dùng, một bao bì mà sau khi dùng sản phẩm, có thể vứt bỏ, nó lại được dùng như một vật tiện dụng và hữu ích qua nhiều năm tháng.

Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Vào thời ấy lon sữa bột Guigoz không lấy gì làm đắt. Một công chức trung bình ở miền Nam cũng có thể nuôi con bằng loại sữa bột này. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô.

Tuy chiếc lon Guigoz tiện dụng nhưng thật ra nó không có giá trị gì, nó có thể ra nằm ngoài đống rác. Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em; nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng. Thế mà chiếc lon Guigoz đó lại trở thành người bạn thân thiết từ Mùa Hè năm 1975 khi tôi phải giã từ quân đội, bỏ lại vợ con và thành phố yêu đấu để trình diện đi tù, làm cái công việc của một người lính thất trận.

Thoạt đầu chiếc lon chỉ mang theo mớ thức ăn khô dùng tạm cho vài ngày, nhưng về sau khi thức ăn đã hết, chiếc lon kia đã đổi chức năng để từ đây gánh vác một phần tháng ngày gian khổ cho tôi. Về sau khi thấy tôi không còn hy vọng gì quay trở lại với gia đình trong một thời gian ngắn, chiếc lon sữa Guigoz kia đã không rời tôi nửa bước như một người bạn tri kỷ có thể chia ngọt xẻ bùi với nhau, khi với một nắm rau bên vệ đường, khi với một con nhái bén, có khi với một mẫu sắn thừa sau ngày thu hoạch còn sót lại trong đám đất bị cày xới.

Có khi chiếc lon ấy trở thành một bình trà với những đọt chè xanh, đậm đà hơn một tuần Thiết Quan Âm thời phong lưu hay mở ra một ngụm cà phê sảng khoái đánh lừa khứu giác với những hạt bo bo cùng với mấy hạt ngô rang cháy. Nó cũng trở thành người bạn mỗi sáng với những công việc vệ sinh thường nhật bên “lán” tù, và cũng tội nghiệp cho chúng tôi trong một miền Bắc không có thừa lấy một manh giấy báo hay một mẫu giẻ rách, nó đã theo những người tù mỗi lần vì nhu cầu phải đi thăm… “lăng Bác”.

Ngày xưa chiếc lon kia mang một cái tên ngoại quốc khá đẹp từ xứ Hòa Lan có nhiều nhà máy xay gió, những cánh đồng cỏ bất tận và những đàn bò bình yên, đến miền Nam với hình dáng tròn trịa, mới mẻ; nay nó mang một cái tên xấu xí trần tục trong một xã hội đói nghèo, lạc hậu. Nó là “gô”, là “cống” hay có người gọi nó là “hăng gô”(?) những cái tên rất khó bề giải thích. Nó dần dần trở thành đen điu, xấu xí, hèn mọn, móp méo qua những lần bị nung nóng trên bếp lửa của trại tù hay trên đám cỏ khô giữa cánh rừng bạt ngàn hay bên dòng suối nhỏ trong những buổi trưa, để thêm một chút “cải thiện” với nắm rau “tàu bay” hay một mẫu khoai mài.

Những ngày có thăm nuôi, nó cũng chắt chiu nắm mì gói hay chút ruốc thịt mang cho “sang cả” thêm cho bữa ăn khốn khổ của người tù. Những lúc chẳng có gì, một “gô” nước lã cũng đầy bụng. Chiếc lon “gô” ngày nay đã đen điu hình dáng nhưng chưa bao giờ chịu để mình bẩn thỉu, nó đã nhiêu lần được kỳ cọ như chủ nhân đã kỳ cọ cái thân thể gầy còm khốn khổ của người tù dưới suối sau một ngày kiệt sức, vắt mồ hôi.

Đêm về, chiếc lon kia cũng lặng lẽ ở trên đầu nằm cùng với mớ chăn chiếu lẫn lộn với những mảnh nhung y sờn rách, bạc màu, để sáng mai thức dậy trong tiếng kẻng tù gắt gỏng. Chưa có một vật dụng nào thiết thân với người tù như cái lon “gô” đen điu ấy. Bộ áo quần tù có thể thay đổi, đôi dép có thể mòn vẹt, nhưng chiếc lon “gô” đã bền bỉ với thể chất cũng như tấm lòng với người tù qua những đoạn đường gian khổ, những ngày lên nương xuống rẫy, những sáng Mùa Đông giá buốt cũng như những trưa Hè đổ lửa. Nó gần gũi, khắng khít không rời người tù đi đâu nửa bước. Thế mà…

Như những ông già H.O. trên đất Mỹ, tôi thường đẩy xe cho vợ đi chợ mua thức ăn. Những hàng hóa, thực phẩm bày biện trong những ngôi chợ to lớn, chỉ gây ngạc nhiên cho tôi lúc đầu tiên mới đặt chân đến Mỹ cách đây hàng chục năm, bây giờ trở nên quen thuộc và thường tình đến nhàm chán. Những kệ hàng bán đầy khoai lang đủ loại hay những đống khoai mì đầy ắp, những mớ cải xanh, những bó rau muống tươi tắn, những củ su hào mập mạp… không hề nhắc nhở hay cho tôi một suy nghĩ nào về những tháng ngày tù tội, thiếu thốn mà những củ khoai, những nắm rau xanh đó như một nỗi mơ ước thèm thuồng thường nhật của một người tù.

Nhưng có một buổi nọ, khi đẩy chiếc xe đi chợ đến bên kệ hàng bày bán khoai mì, không hiểu sao lần này tôi dừng lại, cổ họng như nghẹn ngào, những giọt nước mắt như muốn trào ra. Trong một thoáng tôi bỗng nhớ lại hình ảnh của nồi sắn luộc không bóc vỏ với những mẫu sắn rơi vãi nhuộm một màu tím sẫm, hình ảnh của người bạn tù say sắn, té từ chỗ ngủ ở tầng trên xuống nền gạch và những tiếng la cầu cứu trong đêm. Những củ sắn nằm trên kệ hàng ở đây, là một món ăn chơi của những người no đủ, không hề có một giá trị gì với đời sống của một con người bình thường này trên mảnh đất giàu có như nước Mỹ.

Chúng ta thật đã nhàm chán với những bữa tiệc tùng sang trọng, mỗi tuần không dám ăn tới ba quả trứng gà, bắt đầu thấy sợ thịt, không bao giờ đụng đến bơ, sữa hay phó mát. Phần tôi, đã nhiều lần đi qua những ngôi chợ khác nhau mà lòng thấy dửng dưng trước những món thực phẩm tầm thường như nhìn một vật xa lạ chưa lần nào gặp gỡ hay gắn bó trong cuộc đời mình.

Phải chăng những vật hèn mọn này, những củ khoai lang, những miếng sắn luộc này đã từng ám ảnh chúng ta trong giấc ngủ ngày nào? Và tôi nhớ ra một điều, khi được ra khỏi nhà tù, tôi đã quên hẳn và vất bỏ ở xó xỉnh nào đó cái lon “gô” đen đúa, người bạn thân thiết của những tháng ngày tù tội của tôi.

Tôi đã đi một vòng khá xa, từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, qua bao nhiêu cánh rừng, qua bao nhiêu eo biển, bỏ lại sau lưng quê hương và quá khứ của tôi. Đôi khi tôi cũng đã quên tôi, nói gì đến những vật tầm thường hèn mọn như thế!

“Khéo Dư Nước Mắt…”

GÓC SUY TƯ…

“Khéo Dư Nước Mắt…”

Huy Phương,

Mới năm trước đây thôi, vào lúc nửa đêm, tại một tiệm bánh pizza Papa John ‘s ở thành phố Helena, Montana, một người đàn ông bịt mặt vào tiệm, tiến đến quầy thu ngân, đưa ra một mảnh giấy đòi nộp tiền.

Công nhân của cửa tiệm vội vã mở hộc, hốt hết tiền đưa cho “kẻ cướp,” nhưng không, người đàn ông bịt mặt, ngần ngừ rồi bỗng bật khóc và nói rằng, ông ta chỉ cần ít thức ăn cho các con ông ở nhà đang đói, chứ ông không phải là tên ăn cướp chuyên nghiệp.

Người đàn ông, sau đó rời khỏi tiệm với một hộp pizza và một ít cánh gà, cho gia đình của ông, đang không có gì ăn tối nay. Chủ tiệm đã báo cảnh sát ngay sau đó, nhưng chắc là không có ai nỡ bỏ tù một người khốn khổ như vậy.

********

Người ta thường lên án nạn cướp bóc, trấn lột, nhưng nghĩ sao trong trường hợp này, liệu nhân viên cửa tiệm có thể rộng lượng cho đi một ít thức ăn, nếu có một người đàn ông đói khát bất ngờ, thay vì bỏ tiền ra mua thức ăn, lại ngữa tay xin một vài cái cánh gà, hay một miếng bánh cho gia đình và chính ông ta không?

Trong tám tiếng đồng hồ chạy theo công việc, tám tiếng đồng hồ sống với gia đình và tám tiếng nghỉ ngơi hay đắm mình vào giấc ngủ, có thời gian nào chúng ta nghĩ đến những đồng loại bất hạnh đang ở gần với chúng ta đây thôi, trong nước Mỹ giàu có, hạnh phúc và cả ở trên quê hương khốn khổ đã xa bên kia của mình.

Chúng ta lên án người khác thì dễ nhưng mở lòng bao dung thì khó! Ở gần chỗ đèn xanh, đèn đỏ đầu đường phố, chúng ta thường miệt thị những kẻ không nhà đang đứng hàng giờ để ngữa bàn tay xin lòng đoái thương của kẻ qua đường. Chúng là kẻ chây lười, hút xách, nghiện ngập, lười biếng, bỏ tù chúng đi là vừa, chúng chỉ làm mất đi vẻ mỹ quan của thành phố.

Trưng bảng xin tiền ra giữa đường là phạm luật, làm tiền là thương mại, phải có giấy phép của chính quyền địa phương, nhưng rồi cảnh sát cũng phải làm ngơ.

Ngoài phố Bolsa, trong những ông sư cùng mặc áo vàng đứng “khất thực” nơi đây, ai giả, ai thật, vậy tốt hơn là tôi ngoảnh mặt làm ngơ đi cho đỡ suy nghĩ. Trước một ngôi chợ ở khu Việt, vào những ngày giáp Tết, giữa dòng người tấp nập, vội vàng, tôi trông thấy một người đàn ông cầm một cái hộp quyên tiền có ghi dòng chữ: “Giúp trẻ em khuyết tật và mồ côi.” Người ta thấy ông nhưng không ai nhìn ông. Với sự nghi ngờ cố hữu, có lẽ mọi người đều có câu hỏi, “ông này thuộc cơ quan, tổ chức nào, quyên góp cho ai” hơn là đặt vào tay ông một đồng bạc lẻ.

Ai cũng cho rằng cách đây vài chục năm, ở Mỹ chúng ta có thể dừng xe lại để cho một người xin quá giang, hay là khi chúng ta gặp hoạn nạn, có thể ra dấu chặn một chiếc xe đang chạy trên đường để xin giúp đỡ. Nhưng ngày nay thì không! Thà làm ngơ đi, lương tâm nếu có cắn rứt đôi chút cũng chẳng sao, trái lại những việc qua đường có khi mang đến tai hoạ cho bản thân mình, mà còn bị mang tiếng là dại dột.

Bây giờ trên đất Mỹ, nơi vùng đất có nhiều sắc dân cư ngụ, thường xẩy ra cướp bóc, ít khi bạn có thể hỏi một người Mỹ qua đường, chỗ ty bưu điện gần đây nhất hoặc đi đến đường Beach còn bao xa. Thường thì chúng ta được nhận một cái khoát ta hay một cái lắc đầu. Ở thời buổi này, thà làm người bất lịch sự còn hơn phải dây dưa vào những chuyện qua đường rắc rối!

Năm 1955, từ Huế vào Saigon, cậu thanh niên tỉnh lẻ mới lớn, là tôi, đang đi với một người bạn học trên đường Bonard, thì một người đàn ông, ăn mặc khá tươm tất, tiến lại phía tôi, – mà không phải là bạn tôi -, mở lời:

– “Tôi đói quá! Cậu cho tôi xin một đồng để mua một nắm xôi!”

Tôi không chút ngần ngại, móc túi trao cho ông kia một đồng. Có lẽ thấy kiếm một dồng bạc đầu tiên không khó khăn gì, người đàn ông chưa cất tiền vào túi vội, nài nĩ, nói thêm:

– “Cậu cho tôi xin thêm một đồng để mua tờ báo, tối lót lưng ngủ qua đêm!”

Tôi lại cho tay lên túi áo, nhưng lần này thì thằng bạn Saigon, vội giật cánh tay tôi kéo đi, và chửi thẳng vào mặt tôi là “đồ ngu!” Tôi quả là ngu, vì quá tin người, giữa một Saigon hỗn tạp, tập trung đủ hạng người tứ xứ!

Ở các thành phố, thỉnh thoảng chúng ta nhẹ dạ giúp đỡ, khi gặp một người than thở, là mới ở bệnh viện ra không có tiền xe về Cần Thơ. Nhưng cũng hôm sau, ở một địa điểm khác, chúng ta lại gặp người này, “mới ở bệnh viện ra,” không có tiền xe về Rạch Giá! Vậy thì chắc chắc chúng ta không bao giờ bị mắc lừa nữa, nhưng những người thật sự “mới ở bệnh viện ra, không có tiền xe” cần sự giúp đỡ của người khác, sẽ phải chịu thiệt thòi.

Thế giới động lòng, giang tay đón tiếp những người vượt biển tị nạn vào những năm 80, nhưng sau đó, ngày càng đông người ra đi, phương tiện cứu giúp có hạn, nhất là sau khi biết “nhà nước cộng sản” chủ trương đóng tàu bán vé, lấy vàng, thì chủ trương cứu vớt của nhiều quốc gia cũng phải xét lại. Cho đến hôm nay, “độc lập-tự do-hạnh phúc” đã 45 năm, người Việt vẫn còn đóng tàu để trực chỉ nước Úc, họ nghĩ là nơi đây, lòng trắc ẩn của người địa phương vẫn còn cao. Liệu chúng ta có sẵn lòng cứu vớt, giúp đỡ những người như thế hôm nay không?

Phải chăng, gian trá, bạo lực đã tàn phá hết tình nhân ái trong lòng chúng ta, tình thương người hầu như đã nguội lạnh qua thời gian, và hình như xã hội càng văn minh chừng nào, lòng người càng trở nên chai đá chừng ấy.

Liệu hôm nay, lỡ đường, như trong những tích truyện xa xưa, chúng ta có thể gõ cửa một ngôi chùa hay một nhà thờ để xin tá túc qua một đêm giá lạnh hay không. Chúng ta đã nghe câu chuyện cách đây gần hai mươi năm, một thi sĩ lang thang không nhà đã chết trong chiếc xe của ông đậu trước cửa chùa, phải chi cánh cửa chùa đêm ấy rộng mở!

Phải chăng đến lúc, lòng người đã nguội lạnh, con người đã chai đá, con tim đã trở thành vô cảm, không còn nước mắt để khóc thương cho những mảnh đời khổ, hoàn cảnh éo le của từng mỗi cá nhân hay cả mệnh nước khốn cùng nữa.

Tôi nghĩ rằng không!

Mỗi đêm trên đất Mỹ này, có bao nhiêu phụ nữ Việt Nam, già có, trẻ có, đã sụt sùi khóc cho Tổng thống Trump bị thất cử “bất công vì gian lận”. Hay rướm lệ cho những số phận bất hạnh của những nhân vật trong những cuốn phim bộ Hàn quốc hay Hongkong?.

Có điều nước mắt ấy chẩy ra không đúng chỗ, đúng lúc thôi! Cái tin hằng trăm phụ nữ, đồng bào ruột thịt của mình sang Nam Dương làm nghề “khui bia,” vụ 15 phụ nữ bị lừa sang Nga đi bán quán, để sau đó buộc phải bán dâm, một cô gái 14 tuổi bị bắt làm nghề mãi dâm khi đang có thai bốn tháng. Vụ 26 người phụ nữ Việt Nam bị bắt khi đang làm việc tại các tụ điểm Karaoke đèn mờ ở Hàn quốc. Hay người dân thứ ba bị công an cộng sản đánh chết trong năm nay, không đáng cho chúng ta nhỏ được một giọt nước mắt hay sao?

Người cộng sản chỉ biết tập trung khóc tập thể ở ngoài công trường khi lãnh tụ qua đời để “biểu diễn” lòng trung thành của họ.

Nhưng hình như họ không còn chút mảy may xót xa, động lòng với những gì khốn khổ đang xẩy ra chung quanh mình, ngay trong cuộc sống mỗi ngày bởi áp bức, bất công!

Hình như người Việt ngày hôm nay cũng đang lên đồng tập thể vì một con người cách xa nửa vòng trái đất. Nhưng chẳng mấy xót thương cho những nạn nhân của chế độ trải dài suốt, ít nhất là 45 năm qua!!!

Quên là không còn nhớ?! HUY PHƯƠNG

Image may contain: one or more people, people sitting, ocean, sky, beach, outdoor, water and nature

TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

Quên là không còn nhớ?!

Bây giờ chúng ta không còn lấy lý do vì tuổi già mà quên nữa, bằng chứng là một thanh niên chỉ mới 19 tuổi, Connor Spear, ở Anh Quốc, đi dự một lễ hội âm nhạc, đậu cái xe của mình ở đâu, mà mãi một tuần sau vẫn chưa nhớ ra.

Cái quên vớ vẩn thì ai cũng có lần quên, cái chìa khóa xe, cái kính lão. Đi ra khỏi nhà quên cái điện thoại, cái ví đựng tiền và bằng lái xe cũng là việc thường tình. Nếu không ghi vào tờ lịch treo tường, thì ngày đi dự đám cưới, tang lễ bạn bè cũng có khi quên. Có người quên cả tên người bạn cũ, quên cái tên đường, quên tên cái quán ăn.

Nhưng cái quên đau đớn nhất của con người là quên trẻ nhỏ trên xe giữa trời nóng mà không nhớ ra. Chỉ trong năm 2018, trên nước Mỹ đã có hơn 50 em bé thiệt mạng vì cha mẹ không nhớ ra, là trước khi xuống xe, khóa cửa mà đứa con mình còn ngồi trong cái car-seat. Có những bà mẹ “đoảng” ham hú hí với bạn trai mà bỏ con trên xe, nhưng cũng có nhà thông thái là giáo sư đại học, thay vì trước khi đến trường, phải ghé qua gửi con ở nhà trẻ, lại quên mất là con mình đang ở trên xe, đến chiều ra parking lấy xe về nhà mới phát hiện con mình đã chết.

Có những bà mẹ trẻ để con bị chết nóng trên xe bị kết án 20 năm tù, nhưng cũng có tòa kết luận tha bổng vì tòa án cho đây là một việc làm không có chủ đích, mà chỉ vì quên, nhưng chính bản án lương tâm sẽ làm ray rứt bậc cha mẹ suốt đời, nếu vì quên mà để xẩy ra những thảm kịch mất con như thế!

Đôi khi chúng ta tự nghĩ: “Làm sao để không quên!”

Và cũng ngược lại, có nhiều điều chúng ta muốn quên đi mà không quên được!

Trong đời sống hiện tại, có rất nhiều điều cần nhớ, mà cũng có rất nhiều cái cần quên đi. Chỉ tiếc là chúng ta đôi khi phải nặng lòng nhớ những điều không đáng nhớ, và đã quên đi những điều không đáng quên! Nhà thơ Trạch Gầm, thay vì những điều không đáng nhớ, ông phải chôn vào huyệt quên, thì trớ trêu thay, ông đã chôn lầm vào huyệt nhớ nên phải nhớ suốt đời!

Người xưa khuyên người đời nên quên đi những oán thù và những điều gì người khác làm tổn hại mình, nhưng phải nhớ kỹ những điều người khác đã ra ơn, làm tốt cho mình.

Chuyện có hai người thương buôn thân thiết cùng đi qua sa mạc. Trong cuộc hành trình, họ cũng có những chuyện va chạm. Một lần hai người cãi nhau, một người bị đánh đến đổ máu. Sau đó, không nói một lời, trước khi tiếp tục ra đi, nạn nhân bình tĩnh viết lên đồng cát ven đường: “Hôm nay bạn tôi đã đánh và chửi tôi…” Một lần khác, cũng nạn nhân này bị trượt chân sa xuống suối, được người bạn đồng hành nỗ lực cứu sống. Lần này, người được cứu, dùng dao khắc trên đá: “Hôm nay bạn tôi đã cứu sống tôi…”

Ngạc nhiên trước hành động của bạn mình, người kia hỏi: “Sao chuyện lần trước, anh viết lên cát, và lần này, anh lại khắc lên đá?” Người kia trả lời: “Những gì bạn làm tổn thương tôi, tôi muốn quên, nên viết lên cát cho gió thổi bay đi, nhưng những gì bạn đã làm tốt cho tôi, tôi nguyện không quên, nên đã phải khắc vào đá!”

Tâm lý người đời, người ta thường quên ơn nhưng hay nhớ hận.

Câu ngạn ngữ “Người quân tử mười năm trả thù chưa muộn!” nói về nhân vật Câu Tiễn mang mối hận mất nước, phải lưu vong. Sau khi thua trận Cối Kê, Vua Ngô Phù Sai bắt hai vợ chồng Câu Tiễn về nước, cho ở trong một ngôi nhà đá, hằng ngày phải đi chăn ngựa, quần áo lam lũ, ăn toàn cám và rau dại (một lối tù “cải tạo” dành cho người thua trận!).

Nuốt hận, sau khi bị bắt làm “tù binh” từ nước Ngô trở về, không bao giờ quên mối nhục mất nước, Câu Tiễn ngày đêm un đúc ý chí phục thù. Vị vua mất nước cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm, khi buồn ngủ thì lấy cỏ lục xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở, chân lạnh muốn co thì dầm vào nước lạnh, mùa Ðông lạnh thì ôm băng tuyết. Mùa Hè nóng nực thì ngồi bên lửa, lấy gai, lấy củi lót làm giường mà nằm. Một quả mật luôn luôn được treo trước mắt, thỉnh thoảng lại nếm mật đắng để đừng quên những nỗi tủi nhục, khổ đau, đêm nào cũng sùi sụt khóc.

Nhờ ý chí “không quên,” về sau Câu Tiễn đã đánh bại được nước Ngô, báo thù cho nước Việt.

Trong Cổ Học Tinh Hoa có chuyện, “một chiếc đò sang sông. Có chiếc thuyền không có người lái ở đâu trôi đến, đâm phải. Người lái đò tuy hẹp bụng đến đâu cũng không lấy làm giận. Giả sử trên thuyền có người ngồi, thì người lái đò tất đã tru tréo, rồi đến buông lời chửi rủa thậm tệ!” Có điều khi chúng ta ra ơn cho ai đó, một người xa lạ, không biết tên biết tuổi thì chúng ta không nhớ, nhưng những ai đó, quen thân đã chịu ơn mình, thì khó mà quên được, nhất là lúc họ không biết điều! Nhất là khi kẻ hàm ơn chúng ta ngày nay đã trở nên thành đạt giàu có mà ngoảnh mặt làm ngơ ơn nghĩa cũ, hẳn chúng ta sẽ nguyền rủa không tiếc lời.

Và cũng có nhiều điều chúng ta có thể tha thứ, nhưng không bao giờ quên!

Những người quên hẳn hạnh phúc hơn người nhớ. Bệnh lãng quên hay lú lẫn không làm hại ai, nhưng bệnh nhớ chất chồng trong lòng có thể làm cho người ta điên loạn. Khi đời sống nhọc nhằn chúng ta muốn quên, nhưng vì sao chúng ta thường có khuynh hướng trăn trở nhớ đến những khổ đau trong đời, mà ít khi nhớ đến những hạnh phúc chúng ta đã có.

Rồi một ngày nào đó, chúng ta cũng vậy, trí óc trống không, không biết “tiết” còn “trực” không, nhưng “tâm” hoàn toàn “hư.” Chẳng nhớ gì, chẳng biết thương ai, ghét ai, mọi sự như để ngoài cửa, ta như người sống trong mộng, đi trên mây. Rồi cầm tay người vợ hiền, ngọt bùi năm mươi năm mà hỏi: “Ai đây!”

Thánh nhân thì cũng vậy thôi.

Nhưng trước khi đi vào thế giới quên hãy ráng nhớ một vài điều.

Chuyện đại sự thì phải hỏi: “Tôi là ai, từ đâu đến và vì sao mà ta đến đây?”

Thật ra, trên đời này, có những điều không nhớ, thì không lớn nổi thành người!

Chuyện tiểu tiết thì nhớ trả bills kẻo trễ, kéo thùng rác ra đường, cuối tuần này nhớ ghé qua Peek Family viếng bạn già mới ra đi. Buổi sáng sợ ngủ quên thì để đồng hồ báo thức, chuyện khác thì ghi vào tấm giấy để trước mặt. Tuổi này không ai trách móc, lên án những chuyện quên, nhưng chớ bao giờ “giả vờ quên!”

Bây giờ bạn già gặp nhau thường than thở bệnh quên, quên nhiều thứ.

Được nhớ cũng là tốt, nhưng quên được cũng là vui, nhiều khi đó là thứ hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ nghĩ đến!

Nhớ như Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!” thì thôi xin hãy quên đi, cho đời bớt khổ!

Image may contain: one or more people, people sitting, ocean, sky, beach, outdoor, water and nature

MUÔN DẶM TÌM CHỒNG (của HUY PHƯƠNG)

Image may contain: 2 people, text
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 2 people, text
Image may contain: 2 people, people standing and text
+2

baotreonline.com – TRE Magazine

Một quả phụ VNCH miệt mài tìm di cốt của người chồng trong suốt 50 năm… và cuối cùng, bà đã được toại nguyện..

Tro cốt của sĩ quan phi công VNCH tử nạn tại Hạ Lào năm 1971 được cất giữ cùng với 4 phóng viên báo chí Mỹ tại Newseum, Hoa Thịnh Đốn.

MUÔN DẶM TÌM CHỒNG (của HUY PHƯƠNG)

Vào ngày thứ ba của cuộc hành quân 719 Lam Sơn (10 tháng 2, 1971) có một trực thăng UH-1 Huey của VNCH bị bắn rơi tại Hạ Lào. Tất cả những người có mặt trên chuyến bay này đều bị tử nạn, đó là Ðại Tá Cao Khắc Nhật trưởng phòng 3, Trung Tá Phạm Vi, trưởng phòng 4 thuộc Bộ Tư Lệnh QÐ 1, hai phi công là Trung Úy Nguyễn Diếu, Trung Úy Tạ Hòa và hai nhân viên phi hành đoàn là TS Cơ Khí Nguyễn Hoàng Anh, HS Xạ Thủ Trần Công Minh thuộc Không Ðoàn 41-Phi Ðoàn 213- SÐ1KQ đóng tại Ðà Nẵng. Trên chuyến bay này còn có 4 phóng viên Mỹ là Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, Kent Potter của UPI và phóng viên người Nhật Keisaburo Shirnamoto của tờ Newsweek.

Vào năm 2008 Trưởng phòng Thông tấn AP tại Saigon ngày xưa là Richard Pyle đã đến Hạ Lào tìm xác các phóng viên tử nạn. Sau nhiều ngày cùng dân địa phương đào xới nơi máy bay bị bắn rơi, Richard Pyle đã tìm thấy hài cốt của tất cả những người tử nạn, nhưng qua thời gian 37 năm, tất cả di hài đã tan nát trộn lẫn với nhau, và sau đó tro cốt này đã được đem về để tại Newseum ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Vào tháng 4 năm 2008, Newseum đã cử hành một lễ tưởng niệm cho bốn phóng viên Mỹ tử nạn trong chuyến bay này, nhưng về phía Việt Nam không có một bảng tên nào được ghi dấu.

Tin tức này đã đến với bà quả phụ cố Trung úy phi công Nguyễn Diếu là bà Trương Thị Sen, hiện ở An Cựu, Huế từ năm 2008, nhưng vì không có phương tiện để sang Mỹ viếng nơi để tro cốt của chồng, nên mãi đến 4 ăm sau, bà quả phụ này mới có cơ hội đến Mỹ và đi thăm nơi để di cốt của chồng.
Nhờ sự giúp đỡ của Bảo Tàng Viện Việt Nam ở San José, các thân hữu trong các binh chủng, bạn bè và họ hàng thân quyến, tháng 5 năm 2012, bà quả phụ Nguyễn Diếu, đã từ Huế, vào Saigon, đến San Jose, Illinois, North Carolina và cuối cùng đã được đến thăm nơi lưu giữ tro cốt của chồng tại Hoa Thịnh Ðốn. Chúng tôi đã được gặp gỡ bà Trương thị Sen trong một cuộc họp mặt của nhóm cựu nữ sinh Bồ Ðề, Huế tại Little Saigon, tại đây bà Sen đã không giấu được giọt lệ trong khóe mắt, khi đã hơn 50 năm qua, bạn bè, có người nhớ kẻ không, nhưng ai cũng đối với bà trong tình thân ái, nhất là khi được biết bà Sen là một quả phụ của VNCH, đã ở vậy nuôi con trong suốt 41 năm dài, qua bao nhiêu biến cố của đất nước.

Bà Trương Thị Sen năm nay đã trên 78 tuổi. Bà kết hôn với Thiếu Úy Nguyễn Diếu năm 1968 tại Huế và hai ông bà sinh hạ được một trai một gái, hiện nay cô con gái là công nhân hãng dệt và con trai làm nghề thợ may, sống tại An Cựu, thành phố Huế. Sau khi có tin trực thăng của chồng rơi tại Hạ Lào, và trên máy bay không còn ai sống sót, bà được Phi Ðoàn 213 bố trí cho một công việc dọn dẹp trong phi trường để có sinh kế nuôi con. Sau khi Ðà Nẵng mất vào tháng 3 năm 1975, bà Sen bắt đầu bươn chải, buôn bán ngoài chợ trời, cho mãi đến năm 1978, bà mới trở về Huế nương nhờ cha mẹ của mình.

Cộng đồng người Việt hải ngoại mở rộng vòng tay đón người quả phụ VNCH

Một người bạn của cố Trung Úy Nguyễn Diếu, hiện cư ngụ tại San José, đã đem câu chuyện này kể với cựu Ðại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, giám đốc IRCC để nhờ ông tìm cách vận động bạn bè và chiến hữu của cố Trung Úy Nguyễn Diếu giúp cho người vợ chờ chồng 40 năm có phương tiện để sang Mỹ thăm nơi để chút tro cốt của chồng, cũng như liên lạc với ban giám đốc Newseum xem có thể giúp đỡ gì được cho bà Sen hay không?

Cuối cùng vào tháng 4 năm 2012, nhờ sự bảo trợ của anh Nguyễn Hữu Thanh Lam và các cháu ở Illinois, chị Trương Thị Sen bắt đầu lên đường đi Mỹ. Ðể được yên tâm hơn trên đoạn đường dài, khi 41 năm nay chị Sen chỉ quanh quẩn ở xóm làng và không biết tiếng Anh, chị đã đến San José trước và từ đây đi Illinois, trong khi chờ đợi ngày đi thăm Bảo Tàng Viện Truyền Thông. Tại San José, chị Sen đã được anh Trần Thạnh mở trương mục để quyên góp và ông Vũ Văn Lộc tổ chức cuộc họp cho những người quan tâm gặp gỡ chị.
Mãi đến tháng 11 năm nay (2012) chị Trương Thị Sen được anh Trương Ðình Thiện, nguyên là một sĩ quan nhảy toán, đại diện cộng đồng Việt Nam tại Raleigh, North Carolina mời chị sang thăm và đưa chị viếng Newseum. Tại Hoa Thịnh Ðốn. Chị Sen đã được cộng đồng người Việt và các bạn trong “Bản Tin Hoa Thịnh Ðốn – SBTN” cũng như nhân viên viện bảo tàng đón tiếp.

Tại nơi để tro cốt của 4 ký giả và phi hành đoàn của chuyến bay định mệnh, chị Sen đã xúc động quỳ xuống bên phiến đá cẩm thạch nói với người đã khuất: “Sau 41 năm, không hề có một tin tức về anh. Giờ đây em đã yên tâm. Xin anh hãy yên nghỉ.”

Trên đường đi thăm tro cốt của chồng, từ Nam hay Bắc Cali, Illinois, North Carolina, Washington D.C., ở đâu những chiến hữu của chồng và đồng bào cũng tiếp đón, giúp đỡ chị Trương Thị Sen tận tình. Sau Giáng Sinh năm nay, bà quả phụ cố Trung úy Nguyễn Diếu sẽ trở về Huế, Việt Nam, nơi bà hiện đang sống với hai con và bốn cháu nội ngoại.

Qua chúng tôi, bà Trương Thị Sen xin chân thành gửi lời cám ơn đến các ân nhân, bằng hữu đã tạo phương tiện cho bà muôn dặm xa xôi được đi thăm nơi để tro cốt của chồng, người phi công đã gãy cánh tại Hạ Lào 41 năm xưa.
Chúng tôi xin ghi lại địa chỉ và điện thoại của bà Trương Thị Sen sau đây, để bạn đọc có quan tâm, tiện liên lạc:

Trương Thị Sen: 33/209 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam – Điện thoại: 84-935-376-228

HP (Orange County, CA)

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Biết nhau qua một thời gian khá dài, trong và ngoài nước, chắc bạn đọc và bằng hữu của chúng tôi công nhận là tôi có thói quen dùng loại văn chương tử tế, chưa bao giờ phải nổi giận, dùng loại văn chương chì chiết, dung tục và thô bạo để diễn tả ý nghĩ của mình.

Nhưng hôm nay, xin tất cả bỏ qua, vì trong trường hợp này, Phật trên tòa sen cũng phải nổi giận, Chúa cũng phải cau mày vì một câu nói hỗn xược, ngang ngược của một viên tướng CSVN tên là Nguyễn Chí Vịnh. Câu nói đó lại được thốt ra trong ngày 30 Tháng Tư năm nay là: “Bảo là không có kẻ thắng người thua là không đúng. Thắng rồi nhưng tôi không có trả thù. Thắng rồi tôi khoan dung. Thắng rồi tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường. Đó là tấm lòng nhân ái của đảng và nhà nước mình.”

Câu nói này na ná phát biểu của tên tướng “đồ tể” Lê Đức Anh mấy chục năm về trước: “Lòng nhân ái làm nên ngày 30 Tháng Tư, 1975!”

Cả triệu triệu người Việt Nam còn ở trong nước hay đã ra hải ngoại, có mắt thấy tai nghe, đã biết những kinh nghiệm xương máu, thực tế phũ phàng, đã trải qua những ngày dở chết dở sống từ khi quân Bắc Việt tiến chiếm Sài Gòn, như là một đại họa cho dân tộc, như cơn đại hồng thủy nhấn chìm số phận bi thảm của con người, đã cho chúng ta thấy cái đại ác mang mặt nạ “nhân ái, khoan dung,” mà bọn xâm lược Hà Nội dành cho những người thua trận, được Nguyễn Chí Vịnh và Lê Đức Anh ca tụng, chính là thứ nhân ái, khoan dung “chó đẻ,” không hơn không kém.

Nguyễn Chí Vịnh là con trai của Nguyễn Chí Thanh, năm 1975 còn là học sinh trường cấp 3 Lý Thường Kiệt.

Trước hết câu nói của Nguyễn Chí Vịnh là hỗn xược, đã tạt gáo nước lạnh vào mặt những giới chức đi trước, cao cấp, tiền bối của y, là không nhập nhằng gì cả, phải có kẻ thắng người thua.

Trước đó, tướng của Vịnh là Trần Văn Trà đã từng phát biểu: “Đối với chúng ta không có kẻ Thua người Thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta Thắng Mỹ.”

Võ Văn Kiệt cũng đã từng nói: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…”

Từ đó đến nay, CSVN luôn luôn hô hào hòa hợp, hoà giải, kêu gọi người Việt hải ngoại xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, để cùng nhau bắt tay xây đựng đất nước. Bộ Ngoại Giao CSVN đã lập ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội đã thường xuyên tổ chức Hội Nghị người Việt ở nước ngoài, Sài Gòn tổ chức đoàn văn nghệ phục vụ kiều bào nhân dịp Tết, vinh danh những người bỏ nước ra đi vì chế độ là … “khúc ruột ngàn dặm…,” “máu thịt của tổ quốc,” tất cả đều vì đồng đô la, nghe là lợm giọng! Chúng ca tụng “Những nghĩa cử cao đẹp, trân quý của kiều bào ta thể hiện tinh thần “tương thân tương ái” – vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam!” Gần đây, ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, đã động viên và khen ngợi việc ủng hộ, đóng góp cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 của đồng bào nước ngoài. Mặt khác, còn tư duy hận thù, đắc thắng, Nguyễn Xuân Phúc lại kêu gọi “chống dịch phải tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.”

Trước hết câu nói ngụy biện để bệnh vực cho chế độ của tướng Phát-Xít quân phiệt, Nguyễn Chí Vịnh là “không có trả thù!” Bắn giết, chôn sống, dội nước sôi xuống đầu (*) ngay cả những người đầu hàng, san bằng nghĩa trang của phe thua trận, giam cầm gần một triệu người đối đầu và khác chính kiến vào trại tập trung! Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Kỳ thị kẻ mới người cũ, phân biệt “gia đình có công với Cách Mạng” với “tàn dư Mỹ Ngụy,” “có nợ máu,” hạn chế con em miền Nam không có cơ hội học hành. Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Nói đến Cộng Sản Việt Nam là nói đến cái ác. Biểu tượng của lòng nhân ái, khoan dung chính là một cây búa hiện nay đang được trưng bày tại ở bảo tàng quân đội Việt Nam, Hà Nội, được chú thích như sau: “BÚA. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội phó huyện Mỏ Cày (Bến Tre) đã dùng để bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.”

Một cây búa lừng danh “nhân ái” khác là cây búa “khảo cổ” mà đàn em Lê Duẫn đã dùng để đập đầu Giáo Sư Nghiêm Thẩm, giám đốc Bảo Tàng Viện Sài Gòn, chỉ vì vị giáo sư anh hùng này không chịu hoàn thành đơn đặt hàng của bí thư Lê Duẩn, chứng minh “dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu!”

Ngay đối với những người dân thường không có “nợ máu,” Bắc Việt với chính sách trả thù nhắm vào nhân dân miền Nam vì “chúng” quá tự do, quá giàu sang, quá sung sướng bằng chính sách tịch thu nhà cửa, cướp cạn tài sản của người giàu, hai lần ăn cướp công khai bằng thủ đoạn đổi tiền, đày ải dân lành đi vùng kinh tế mới. CSVN dùng chính sách hộ khẩu, phân bố lương thực, dân không kiếm ra công ăn việc làm, xô đẩy người miền Nam vào bước đường cùng, phải rời nước ra đi, bỏ thây trên biển cả. Điều này Nguyễn Chí Vịnh chắc không đến nỗi ngu đần mà không nhận ra, nhưng chẳng qua vì tham vọng mà bỏ lương tri, nói cương để được lòng chế độ.

Bây giờ là lúc Nguyễn Chí Vịnh nói huỵch toẹt ra, là không hòa hợp, hòa giải gì cả, là tao thắng là mày thua.

– “Thắng rồi, tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường.”

Nguyễn Chí Vịnh nếu có đủ trí khôn của thời niên thiếu, hay có đông đủ họ hàng, bạn bè nói lại cho nghe thì cũng biết rằng miền Nam thua trận có hằng trăm ngàn chuyên viên đủ mọi ngành nghề cấp cao, nhiều cán sự lành nghề… nhưng tất cả đều chỉ có một con đường đi cuốc đất, đạp xích lô, bán thuốc lá lẻ, xăng lẻ, vá xe vệ đường hay bôn ba chốn chợ Trời… Nếu không, cũng tìm đường ra đi, để công sở, trường học, nhà máy, công trường… lại cho bọn lợn lòi từ hang động trở về. Chính sách “hồng hơn chuyên” cố chấp, đầu đặc đã là tiêu hao bao nhiêu tài nguyên của đất nước, khi chúng quan niệm “chất xám” trí tuệ không giá trị bằng một nắm phân nơi “vùng kinh tế mới!” Đó là “tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường” đó ư?

Đúng là “không có kẻ thắng người thua là không đúng,” nhưng bất hạnh cho miền Nam thất trận, không may mắn thất trận vào tay một kẻ hào hiệp để có được một Hiệp Ước Của Người Quân Tử – The Gentlemen’s Agreement- mà mất nước vào tay thảo khấu, lục lâm, mới ra cớ sự “dãi thây trăm họ,” oán hận ngút trời, như sau cuộc chiến tương tàn Việt Nam…

Hôm nay đến ngày 30 Tháng Tư lần thứ 45, người dân miền Nam ai cũng mang một vết thương chưa lành. Bao nhiêu năm qua, chúng ta đã quá hiểu nhau tính cách của nhau. Đây không phải là lúc dùng những luận điệu tuyên truyền trẻ con và xảo trá ấy nữa! 45 năm trôi qua, thời buổi này mà kẻ côn đồ, dao búa còn nói chuyện trịch thượng tha thứ hay cho rằng mình là kẻ khoan dung, nhân ái, thì đây đúng là thứ khoan dung, nhân ái loại “bà Tú Để,” loại “chó đẻ” mà chẳng ai muốn nghe.

Một lần nữa, xin bạn đọc tha thứ nếu chúng tôi đã làm bẩn mắt quý vị, nhưng với loại người ấy, chúng ta không thể dùng một loại từ ngữ nào đúng hơn! Hồn ông Bùi Bảo Trúc có linh thiêng xin về chứng giám!

 
*** 

HÌNH:Các Thương Phế Binh VNCH, những người bị phân biệt đối xử sau 30 Tháng Tư, 1975, đang chờ đợi nhận quà từ thiện tại Chùa Liên Trì, thành phố Sài Gòn ngày 9 Tháng Tư, 2015. Hơn 40 năm sau cuộc chiến Việt Nam, CSVN vẫn cai trị đất nước bằng bàn tay sắt. Nhưng với chủ nghĩa tư bản hoang dã, tham nhũng và bất bình đẳng xã hội, lời tuyên bố “chiến thắng” chỉ là sự trống rỗng. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images).

Image may contain: 1 person, sitting and indoor