Hồng y Zen, nhà bất đồng chính kiến với Cộng Sản Hồng Kông

Bình luận của nhật báo phố Wall

Linh mục Robert Sirico, ngày 2-5-2025.

Những người cộng sản Trung Quốc tìm cách làm im tiếng nói mạnh mẽ của Hồng Y Zen về tự do. Ông có thể làm nhiều điều tốt hơn ở Rome nếu chọn sống lưu vong, ở lại Roma.

hình ảnh

Đức Hồng Y Joseph Zen trong thánh lễ tại Nhà thờ Holy Cross ở Hồng Kông, ngày 24 tháng 5 năm 2022. Ảnh: peter parks/Agence France-Presse/Getty Images

La Mã

Theo truyền thuyết, Thánh Peter, chứng kiến ​​cuộc đàn áp những người theo đạo Thiên chúa dưới thời Hoàng đế Nero , đã rời Rome nhằm tránh bị bách hại nhưng rồi, ông đã chỉ gặp Chúa Jesus trên đường, đi theo hướng ngược lại. “ Domine, quo vadis ?” Peter hỏi—“Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?” Chúa Jesus trả lời, “Ta sẽ đến Rome để chịu đóng đinh lần nữa.” thế là Peter quay lại tiến vào Rome. Quyết định của ông đã đảm bảo cho sự tử đạo anh dũng của ông.

Khi Bắc Kinh siết chặt quyền kiểm soát Hồng Kông, hoàn cảnh của Hồng y Joseph Zen , giám mục danh dự 93 tuổi của thành phố này, đòi hỏi sự chú ý khẩn cấp. Lập trường dũng cảm của ông về nhân quyền, tự do tôn giáo và các giá trị dân chủ đã khiến ông trở thành mục tiêu của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Được phép đến Rome để dự tang lễ của Giáo hoàng Francis , Hồng y Zen hiện phải đối mặt với một lựa chọn quan trọng: trở về Hồng Kông, nơi đang chờ đợi sự đàn áp, hoặc ở lại Rome và tiếp tục làm chứng tiên tri của mình trong sự an toàn.

Biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông, 2014.

Biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông, 2014.

Tôi chưa tham khảo ý kiến ​​của Hồng y Zen về vấn đề này, nhưng với tư cách là một linh mục và là bạn của phong trào dân chủ Hồng Kông, tôi thúc giục ông ở lại Rome. Sự hiện diện của ông tại Vatican sẽ là lời khiển trách mạnh mẽ đối với sự áp bức của Bắc Kinh và là ngọn hải đăng hy vọng cho các tín đồ.

Sinh ra tại Thượng Hải, Hồng y Zen đã chạy trốn khỏi chế độ cộng sản khi còn trẻ, cuối cùng trở thành một trong những nhà lãnh đạo Công giáo nổi tiếng nhất Châu Á. Được thụ phong năm 1961, ông giữ chức giám mục Hồng Kông từ năm 2002 đến năm 2009. Giáo hoàng Benedict XVI đã phong ông làm hồng y vào năm 2006. Năm 2022, ở tuổi 90, ông bị bắt và xét xử vì liên quan đến Quỹ cứu trợ nhân đạo 612, một quỹ hỗ trợ những người biểu tình ủng hộ dân chủ. Bị kết án và phạt tiền, ông vẫn liên tục bị đe dọa trả thù thêm. Hồng Kông, từng là trung tâm sôi động của quyền tự do ngôn luận, giờ đây không còn an toàn cho một người có niềm tin như ông nữa.

Đức Hồng y Zen đang dựa vào một cây gậy để hỗ trợ khi ông đến tòa cùng với các bị cáo khác – học giả Hui Po-keung, bên trái, luật sư Margaret Ng và ca sĩ Denise Ho – vào tháng 5-2022. [ảnh của Kin Cheung/AP]

Vatican là trái tim tinh thần và ngoại giao của Giáo hội Công giáo. Nơi đây có thể cung cấp cho Hồng y Zen một chỗ ẩn náu để ông có thể tiếp tục sứ mệnh của mình. Bằng cách ở lại Rome, ông sẽ không rút lui mà định vị lại, khuếch đại tiếng nói của mình trên trường quốc tế. Cuộc đàn áp của Bắc Kinh không chỉ giới hạn trong chính trị mà còn trong tôn giáo. Chế độ này đã thắt chặt quyền kiểm soát đối với cộng đồng Công giáo Hồng Kông và gây sức ép buộc giáo sĩ phải tuân theo chương trình nghị sự của Đảng Cộng sản. Giống như Hồng y người Hungary József Mindszenty , người đã sống lưu vong nhiều năm sau khi phản đối chế độ cộng sản, Hồng y Zen có thể vạch trần những vi phạm này. Sự hiện diện của ông tại Rome sẽ buộc thế giới phải đối mặt với thực tế về cuộc tấn công của Trung Quốc vào quyền tự do tôn giáo. Sự đào tẩu của ông cũng sẽ báo hiệu cho những người Công giáo đang bị bao vây ở Hồng Kông rằng cuộc đấu tranh của họ không bị lãng quên.

Lời chỉ trích của Hồng y Zen về thỏa thuận tạm thời năm 2018 của Vatican với Trung Quốc, mà ông gọi là “bán rẻ” giáo dân Công giáo thầm lặng, nhấn mạnh vai trò của ông như một tiếng nói lương tâm (gióng lên) cho giáo hội. Ở lại Rome sẽ cho phép ông thúc đẩy việc đánh giá lại thỏa thuận bí mật này, đã được gia hạn ba lần và nó khuyến khích Bắc Kinh tăng cường (thêm lên sự) đàn áp giáo hội (ở Trung Cộng).

Tòa thánh Vatican cho biết thỏa thuận bổ nhiệm Giám Mục giữa Vatican và
Trung Cộng sẽ giải quyết sự chia rẽ kéo dài hàng thập kỷ giữa một giáo hội ngầm tuyên thệ trung thành với Vatican và Hiệp hội Công giáo Yêu nước do nhà nước giám sát.
Thỏa thuận này chưa bao giờ được công bố mà chỉ được các viên chức ngoại giao mô tả. Vatican cho biết giáo hoàng vẫn giữ quyền quyết định cuối cùng trong việc bổ nhiệm các giám mục Trung Quốc.
Đức Phanxicô đã bổ nhiệm khoảng 10 giám mục mới theo thỏa thuận này, và 15 giám mục (quốc doanh) khác có chức vụ trước đây bị vô hiệu, nay họ đã được chính thức hóa, tác động đến khoảng 25% giới lãnh đạo Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc, Chambon cho biết.
 Quyết định gia hạn hiệu lực áp dụng thỏa thuận giữa Vatican và Trung Quốc ký kết  ngày 22 tháng10, 2024 về việc bổ nhiệm các giám mục Công giáo tại quốc gia cộng sản này, thời hiệu được gia tăng lên tới bốn năm thay vì 2 năm, nó cho thấy mức độ tin tưởng mới giữa hai bên, các nhà phân tích cho biết. (theo Tin của TTX Reuters)
Phát biểu vào tháng 9-2024 khi kết thúc chuyến công du Đông Nam Á và Châu Đại Dương, Đức Phanxicô cho biết kết quả của thỏa thuận năm 2018 “là tốt”.
“Tôi hài lòng với cuộc đối thoại với Trung Quốc”, vị giáo hoàng 87 tuổi cho biết. “Chúng tôi đang làm việc với thiện chí”.
Hai giám mục Trung Quốc đã được có mặt tại Rome vào tháng 10-2024,  để tham gia các cuộc thảo luận tại công nghị Synod, kéo dài một tháng của các nhà lãnh đạo Công giáo tổ chức bởi Vatican . (theo Tin của TTX Reuters)

Một số người có thể cho rằng đào tẩu sẽ đồng nghĩa với việc bỏ rơi tín đồ của Hồng Kông. Nửa thế kỷ phục vụ của Hồng y Zen, giảng dạy tại các chủng viện, thăm tù nhân và rửa tội cho những người cải đạo như ông Lai, bác bỏ mọi cáo buộc như vậy. Quyết định ở lại Rome của ông không phải là chạy trốn mà là một lựa chọn chiến lược để bảo vệ khả năng chiến đấu của ông. Vatican có sức nặng ngoại giao để bảo vệ ông, và giáo hoàng mới, nhấn mạnh vào đối thoại với Trung Quốc, có thể chứng minh quyết tâm của mình bằng cách trao cho Hồng y Zen một vai trò chính thức tại Rome, có thể là cố vấn về vấn đề tự do tôn giáo.

Thế giới đang theo dõi. Sự đào tẩu của Hồng y Zen sẽ báo hiệu rằng giáo hội sẽ không khuất phục trước chế độ chuyên chế. Nó sẽ tôn vinh sự hy sinh của các nhà hoạt động dân chủ của Hồng Kông, từ ông Lai đến vô số người biểu tình vô danh đã phải đối mặt với dùi cui và song sắt. Quan trọng nhất, nó sẽ đảm bảo rằng tiếng nói của Hồng y Zen—bắt nguồn từ đức tin, được tôi luyện bởi đau khổ và không lay chuyển trong việc bảo vệ sự thật—tiếp tục vang vọng.

Tôi cầu nguyện rằng Đức Hồng y Zen sẽ chọn Rome, không phải là nơi lưu vong mà là thành trì để tiến hành cuộc chiến đạo đức cho tâm hồn Hồng Kông. Thế giới cần lời chứng của ngài hơn bao giờ hết.

Rev. Robert A. Sirico | Acton Institute

Cha Sirico là chủ tịch danh dự của Viện Acton và là cựu cha xứ của Giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Grand Rapids, Mich. Ngài là tác giả bài nhận định trên báo phố Wall, 2-5-2025.

***************************************************************

Thông Tấn Xã Công Giáo CNA, ngày 21 tháng 10, năm 2024

Một báo cáo mới đã làm sáng tỏ sự đàn áp mà 10 giám mục Công giáo ở Trung Quốc phải đối mặt khi họ chống lại nỗ lực kiểm soát các vấn đề tôn giáo của Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ thỏa thuận Trung Quốc-Vatican năm 2018 về việc bổ nhiệm giám mục. 

Báo cáo do Nina Shea biên soạn cho Viện Hudson, ghi lại những trải nghiệm đau thương của các giám mục (chui và vốn dĩ) được Tòa Thánh Vatican công nhận trước đây, những người đã bị giam giữ mà không qua thủ tục tố tụng hợp pháp, bị giám sát, bị cảnh sát điều tra và bị trục xuất khỏi giáo phận của họ vì từ chối tuân thủ, gia nhập vào Hiệp hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc (CPCA), một nhóm do nhà nước quản lý do Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của ĐCSTQ kiểm soát. 

Shea cho biết: “Báo cáo này cho thấy sự đàn áp tôn giáo đối với Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc đã gia tăng kể từ thỏa thuận Trung Quốc-Vatican năm 2018 về việc bổ nhiệm giám mục”.

Bà nói thêm: “Bắc Kinh nhắm vào 10 giám mục này sau khi họ phản đối Hiệp hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, một tổ chức yêu cầu các thành viên phải tuyên thệ độc lập khỏi Tòa thánh”.

Tổ Chức Nhân Quyền Thê Giới, ngày 28 tháng 10, năm 2024.

“Một trụ cột trong “Giấc mơ Trung Hoa” của Tập Cận Bình là nỗ lực của chính phủ nhằm định hướng lại lòng trung thành của người dân đối với Đảng, và do đó là trung thành đối với Tập Cận Bình. Những người thúc đẩy thế giới quan khác, như nhân quyền phổ quát (cho hết mọi người sinh ra), đức tin hoặc tâm linh, đều bị đàn áp và bị cưỡng bức “đi cải tạo”.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và nhiều tổ chức khác, bao gồm cả những tổ chức trong Giáo hội Công giáo La Mã, đã nhiều lần chỉ trích những thỏa thuận ( thỏa hiệp bí mật giữa Vatican và chính quyền Trung Cộng) đó. Ngay cả sau khi thỏa thuận được ký kết lần đầu, rõ ràng là Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình đã đàn áp rất nhiều, bao gồm cả đối với quyền tự do tôn giáo. Ở Tân Cương, chính phủ đã giam giữ tới một triệu người Duy Ngô Nhĩ và những người Hồi giáo Turkic khác, giám sát toàn bộ dân số và cố gắng xóa bỏ nền văn hóa thiểu số, bao gồm cả việc san bằng hàng nghìn nhà thờ Hồi giáo. Vào ngày 31 tháng 8, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc đã ban hành một báo cáo lên án chứng minh những hành vi lạm dụng này, kết luận rằng chính phủ Trung Quốc có thể đã phạm tội ác chống lại loài người.


XÔ TỚI TRƯỚC – Lm. Minh Anh, Gp. Huế

 (Lm. Minh Anh, Gp. Huế) 

“Chúa đó!”.

“Vinh quang lớn nhất không phải là không bao giờ ngã, mà là biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã!” – Khổng Tử.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay tường thuật lần hiện ra thứ ba sau phục sinh của Chúa Giêsu cho các môn đệ; Gioan kịp nhận ra Ngài khi nói với Phêrô, “Chúa đó!”. Để rồi Ngài dành cho Phêrô ba câu hỏi một nội dung, “Anh có yêu mến Thầy không?”. Câu trả lời của Phêrô – người biết đứng dậy – là điều kiện của một con người được ‘xô tới trước!’.

Với Phêrô, đây là ‘lần gọi thứ hai’. Lần gọi thứ nhất, cách đây ba năm, tại biển hồ này, Phêrô được gọi khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai; lần gọi thứ hai, cũng tại đây, Phêrô được ‘gọi lại’ khi khởi đầu sứ vụ công khai của các môn đệ Ngài. Lần này, Ngài chỉ hỏi Phêrô, “Anh có yêu mến Thầy không?”. Và người đã từng chối Thầy sẽ phải cúi mặt lí nhí, “Thầy biết hết mọi sự, Thầy biết, con yêu mến Thầy!”. Để sau đó, Ngài trao cho ông chiên mẹ, chiên con và cả đoàn chiên.

Vậy đâu là khác biệt giữa hai lần gọi? Sau lần gọi thứ nhất, Phêrô đã dứt khoát đi theo Chúa, nhanh nhẹn, chóng vánh nếu không nói là khá tự tin và không ít tự phụ để rốt cuộc, chối Thầy trước một nữ tỳ vô danh. Và lần gọi thứ hai cho thấy Thiên Chúa không bỏ cuộc với bất cứ ai, Ngài chỉ muốn ‘xô tới trước’ những con người Ngài yêu thương. Thiên thần hay ác quỷ, ánh sáng hay bóng tối, mạnh mẽ hay yếu nhược, nồng nàn hay dửng dưng, gần gũi hay xa cách, ngọt ngào hay cay đắng, thánh thiện hay tội lỗi… tất cả đều bộc lộ nơi một con người. Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nơi Phêrô; ấy thế, Ngài không loại trừ, Ngài vẫn chọn gọi ông một lần nữa vì nhất định Phêrô phải được Ngài ‘xô tới trước’.

Lần dỡ các trang Tin Mừng, đã bao lần chúng ta chứng kiến Chúa Giêsu xô những con người tới phía trước. Ngài xô Zakêu, “Hãy xuống mau vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”; Ngài xô Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, “Hãy theo tôi” để ông trở thành tông đồ thánh sử; Ngài xô biệt phái Nicôđêmô trong đêm bước ra với ánh sáng để ông trở thành tông đồ táng xác Thầy; Ngài xô Saolô trên đường Đamas để ông trở thành tông đồ dân ngoại; Ngài xô người nữ ngoại tình khỏi vòng tròn nghiệt ngã về nhà bình an, cũng như đã kịp xô anh trộm lành vào nước thiên đàng.

Anh Chị em,

“Chúa đó!”. “Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh biến đổi mọi thứ: bóng tối trở thành ánh sáng, công việc vô ích một lần nữa trở nên có kết quả và đầy hứa hẹn, cảm giác mệt mỏi và bị bỏ rơi nhường chỗ cho một động lực mới và niềm tin chắc chắn rằng, Ngài đang ở cùng chúng ta!” – Phanxicô. Dù ở đấng bậc nào, hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang gọi, đang hỏi mỗi người chúng ta, “Con có yêu mến Thầy không?”. Chúng ta sẽ nhanh nhảu trả lời hay sẽ nín thinh? Với Ngài, tình yêu thuở ban đầu nơi chúng ta còn nồng nàn hay đã nhạt phai? Chúng ta có cảm nhận được như Phêrô, “Ôi, tình yêu che lấp muôn vàn tội lỗi!”. Chúa đã quên hết quá khứ xấu xa hầu xô mỗi chúng ta về phía trước. Ước gì bạn và tôi có thể nói, “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa!” và Ngài chỉ cần ngần ấy!  

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thì ra, Chúa chỉ muốn con yêu mến Chúa. Cho con đừng phí thời giờ vào những việc không đâu hầu luôn sẵn sàng để Chúa xô con tới trước!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Gp. Huế) 

*******************************************************

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, NĂM C

Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 21,1-19 

1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông : “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” 16 Người lại hỏi : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Người nói : “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17 Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có thương mến Thầy không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có thương mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông : “Hãy theo Thầy.”

MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG MIỀN BẮC NHƯ THẾ NÀO?

Duthapsang Tran

 Fw. Bài hay và đúng sự thật

Hòa hợp, hoà giải, và hòa bình thực sự để đất nước phát triển là nhu cầu bức thiết của dân tộc hiện nay. Sau 50 năm chia cắt, thì lòng người vẫn có “Triệu người vui, triệu người buồn!” theo như nhận xét của ông Võ Văn Kiệt. Đây là bài toán nan giải không dễ giải quyết, nhưng chúng ta phải làm, để theo kịp đà tiến hoá của nhân loại!

Thực ra, nếu hiểu nghĩa vui buồn theo dựa trên kẻ thắng người thua thì cả hai miền Nam – Bắc đều có vui lẫn cả buồn!!!

Miền Bắc vui vì đã thống nhất đất nước qua sức mạnh cứng bằng súng đạn. Công lao này không ai phủ nhận, miễn là đừng lấy cái thế của kẻ thắng trận mà kiêu căng chà đạp lên nỗi đau của dân miền Nam. Miền Nam thì đã giải phóng được miền Bắc qua sức mạnh mềm!

Tự lúc nào văn hóa sống cởi mở, nhân bản của dân Miền Nam đã thức tỉnh dân Miền Bắc, văn chương, âm nhạc đầy tình người, tình tự quê hương của Miền Nam át đi những bài nhạc đầy hận thù, sắc máu với những giai điệu chói tai. Người Miền Nam chia sẻ với dân Miền Bắc tình cảm qua Nhạc Vàng Bolero đầy tình người như bài hát Tôi Muốn của Nhạc sĩ Lê Hựu Hà với câu: “… Tôi muốn mọi người biết thương nhau không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu…”

Trong một bài viết nhân dịp 50 năm ngày 30/4 của người bên thắng cuộc, tác giả Trần Lệ Bình muốn nói lên cảm nghĩ thật lòng dù có khi bị ném đá: “Tối tối mỗi khi có điện, đám bạn đến đầy nhà để nghe bài nhạc Pháp “Bang Bang”… Khi sống trong cảnh cả ngày chỉ nghe đài phát thanh phát những bài hát như hét như gào: “…không cho chúng nó thoát, chúng bay vào sẽ không có đường ra nó….” quen tai, bây giờ được nghe hai tiếng “bang bang” với âm điệu du dương đến mê hồn, khiến chúng tôi không ngờ trên đời nay lại có những loại nhạc làm lay động lòng người đến như vậy.”

Ở một đoạn khác, tác giả Trần Lệ Bình nói về chị bán mướp: “… Lúc này chị cầm trong tay chiếc dao gọt tôi chưa thấy bao giờ, tay chị lướt nhẹ nhàng từ trên xuống dưới quả mướp, vỏ mỏng như tờ giấy đều đều chui từ giữa kẽ dao rơi xuống vẫn đúng chiều dài của quả mướp. Chỉ trong tích tắc, quả mướp hết vỏ vẫn tròn trịa như nguyên. Với nét mặt thật sung sướng, chi nói: “Cái thứ dao của bọn ngụy hay thật!”. Mấy chị đang đứng chờ mua cũng xen vào: “Thế đấy, cái dao đơn giản và thuận tiện thế mà miền Bắc XHCN cũng không làm nỗi…”. Tác giả kết luận: “Một sự thật mà bất cứ ai còn có lòng trung thực đều không thể phủ nhận là 30-4-75 đã giải phóng Miền Bắc khỏi nghèo nàn lạc hậu, đã cho dân Bắc được tiếp cận với văn minh của nhân loại.

Dân Miền Nam sẽ rất vui và nên tự hào nếu họ biết được chính họ đã giải phóng người dân Miền Bắc khỏi bức màn sắt của giáo điều đã che đậy tầm nhìn, sự hiểu biết của dân Miền Bắc với thế giới văn minh, nhân bản hơn. Miền Nam vui vì được người bên thắng cuộc, bà Dương thu Hương, công nhận là xứ văn minh tiến bộ ngay trưa ngày 30/4/1975 chứ không phải đợi mãi đến giờ này ông Tô Lâm mới dám xác nhận Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông!

Đến đây thì người dân Miền Nam có thể dùng tựa của một bài hát của nhạc sĩ Nhật Ngân để đặt câu hỏi “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh” và dân Miền Nam nên vui mừng vì họ đã giải phóng được Miền Bắc qua quyền lực mềm: tinh thần khai phóng, nhân bản và nghĩa đồng bào. 

Nguyễn văn Lợi


 

2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trong thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 03/05/2025

Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

    Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó. 

Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy

Đêm đó, tôi hiểu tình yêu đích thực là gì.-Truyện ngắn HAY

Chau Doan 

 Cha mẹ tôi đã kết hôn được 55 năm. Một buổi sáng, mẹ tôi đi xuống cầu thang để chuẩn bị bữa sáng cho cha, nhưng bà bị đau tim và ngã. Cha tôi cố gắng hết sức nâng mẹ dậy và gần như kéo bà lên xe tải. Ông lái xe với tốc độ tối đa, không tuân theo đèn giao thông, để đưa mẹ đến bệnh viện.

Khi đến nơi, đáng buồn là mẹ tôi đã không còn nữa.

Trong tang lễ, cha tôi không nói gì, ánh mắt ông lạc lõng và hầu như không khóc.

Đêm đó, các con của ông đã ở bên ông. Trong không khí đau buồn và hoài niệm, chúng tôi nhớ lại những kỷ niệm đẹp, và ông yêu cầu anh trai tôi – một nhà thần học – nói về nơi mẹ tôi đang ở lúc đó. Anh trai tôi bắt đầu nói về cuộc sống sau cái chết và suy đoán về nơi mẹ có thể đang ở.

Cha tôi lắng nghe chăm chú. Đột nhiên, ông yêu cầu chúng tôi đưa ông đến nghĩa trang.

“Cha!” chúng tôi đáp, “bây giờ là 11 giờ đêm, chúng ta không thể đến nghĩa trang ngay lúc này được!”

Ông cao giọng, ánh mắt đượm buồn: “Đừng cãi cha, xin đừng cãi lại người vừa mất đi người vợ 55 năm của mình.”

Chúng tôi im lặng đầy tôn trọng, không cãi thêm nữa. Chúng tôi đến nghĩa trang, dùng đèn pin để tìm đến mộ mẹ.

Cha tôi ngồi xuống, cầu nguyện và nói với chúng tôi: “Đó là 55 năm… các con biết không? Không ai thực sự có thể nói về tình yêu đích thực nếu chưa từng sống cả đời với một người.”

Ông dừng lại, lau mặt.

“Mẹ và cha đã cùng nhau trải qua những điều tốt đẹp và tồi tệ,” ông tiếp tục. “Khi cha đổi việc, chúng tôi cùng thu dọn đồ đạc khi bán nhà và chuyển đi. Chúng tôi chia sẻ niềm vui khi thấy các con trở thành cha mẹ, cùng nhau đau buồn trước sự ra đi của những người thân yêu, cùng cầu nguyện trong phòng chờ của một số bệnh viện, cùng nâng đỡ nhau trong đau đớn, ôm nhau mỗi ngày, và tha thứ cho những sai lầm.”

Rồi ông dừng lại và nói thêm: “Các con, tất cả đã kết thúc và cha hạnh phúc tối nay. Các con biết tại sao cha hạnh phúc không? Vì mẹ đã ra đi trước cha. Mẹ không phải chịu đựng nỗi đau và sự cô đơn khi chôn cất cha, khi bị bỏ lại một mình sau khi cha rời đi. Cha sẽ là người chịu đựng điều đó, và cha cảm ơn Chúa vì điều này. Cha yêu mẹ đến mức không muốn mẹ phải chịu khổ…”

Khi cha tôi nói xong, tôi và các anh em nước mắt lăn dài. Chúng tôi ôm cha, và ông an ủi chúng tôi: “Không sao đâu. Chúng ta có thể về nhà. Hôm nay là một ngày tốt.”

Đêm đó, tôi hiểu tình yêu đích thực là gì. Nó không chỉ là sự lãng mạn và tình dục, mà là hai người luôn ở bên nhau, cam kết với nhau… qua tất cả những điều tốt đẹp và tồi tệ mà cuộc sống mang lại.

Bình an trong trái tim các bạn.

Nguồn: Susan Arnold


 

ĐÊM TRƯỚC NGÀY 30/4/2024: BUỒN VÀ THƯƠNG CHO DÂN MÌNH NƯỚC MÌNH

Phêrô Nguyễn Văn Khải added 7 new photos from April 29, 2024 at 5:37 PM.

April 29, 2024

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

 Năm nào cũng vậy cứ những ngày này tôi khó ngủ. Nhớ đến nguyên nhân, diễn biến và hậu quả, đặc biệt là các nạn nhân của cuộc chiến 54-75 tôi càng thấy thương cho dân mình nước mình và càng giận những kẻ gây chiến là cộng sản Việt-Nga-Tầu.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCS, trong đó có những người thân của tôi, có bố tôi, có chú tôi, có những người anh em của tôi, đã phải hy sinh tuổi trẻ, đã bỏ một phần máu thịt, hoặc bỏ cả mạng mình ở khắp bốn chiến trường A-B-C-D.

Vì họ đã bị tuyên truyền, đã bị tẩy não, đã bị nhồi sọ, đã bị lừa và bị lùa vào cuộc chiến khốc liệt! Họ đã bị đánh cắp tuổi trẻ và mạng sống mà rốt cuộc bản thân họ, gia đình họ và cả quốc gia dân tộc chẳng được lợi lộc gì! Chỉ có một số kẻ cơ hội, những kẻ đầu cơ chiến tranh là được lợi và họ vẫn tiếp tục hưởng lợi từ cuộc chiến này cho đến hôm nay.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCH đã phải gồng mình bảo vệ một quốc gia tự do được Liên hợp Quốc công nhận, một chế độ dân chủ do người dân chọn lựa. Họ đã thắng trong từng trận đánh, nhưng đã thua trong toàn cuộc chiến, vì bị đồng minh phản bội và bỏ rơi trong khi đối thủ lại được Nga-Tầu hậu thuẫn quá mạnh.

Tôi thương cho các thương binh của VNCH bị hắt hủi, phải sống lay lắt, cơ cực và nhiều người chết một thân một mình. Thế mà đến cái tên gọi là Thương Phế Binh VNCH, nhiều người cũng không dám gọi và lại càng không dám đưa tay giúp đỡ, nhưng miệng thì vẫn ra rả xưng mình là bạn đồng hành của những người nghèo, những người bị loại trừ, những người bị bỏ rơi, etc.

Tôi thương cho những người cha người mẹ bị mất con, những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những người con mất bố, những anh chị em mất nhau, ở cả hai miền Bắc-Nam, cả bên cộng sản lẫn bên cộng hoà. Tôi thương cho bao nhiêu thiếu nữ Miền Bắc phải đi dân công hoả tuyến đến khi chiến tranh kết thúc thì đã quá lứa lỡ thì và phải sống côi cút vất vả và bệnh tật cả đời.  

Tôi thương cho những tín đồ, những tu sĩ của các tôn giáo, đã phải vào tù trước sau và vì cái ngày 30 tháng 4 ấy, trong đó có cha đỡ đầu của tôi, có bác của tôi; thậm chí có cha bị bắt và bị đánh chết trong tù chỉ sau mấy ngày giam giữ như cha xứ của tôi. 

Tôi thương cho hàng triệu công dân VNCH bị đảo lộn cuộc sống, cho hàng chục nghìn gia đình quân dân cán chính VNCH bị tan cửa nát nhà, mất tài sản, mất công ăn việc làm và thậm chí phải vào tù hoặc bị lưu đầy chốn rừng thiêng nước độc.

Tôi thương cho những người vượt biên vượt biển, lao vào cõi chết để tìm cõi sống, bao nhiêu người đã bỏ mình trên rừng dưới biển trên đường đi tìm tự do, bao nhiêu người đã bị cán bộ, công an và cướp biển trấn lột, bỏ tù, hãm hiếp và cướp bóc mà thương tích trong tâm hồn còn hằn sâu đến hôm nay.

Tôi thương cho đất nước mình, man rợ thắng văn minh, độc tài thắng dân chủ, ma quỷ nhảy lên làm thần phật, những kẻ bất tài thất đức thâu tóm quyền lực trong khi những kẻ có tâm có tài thì hoặc bị bỏ tù, hoặc bị quản chế, hoặc bị cô lập, hoặc bị loại trừ, hoặc đã phải bỏ nước ra đi…

Nỗi đau buồn của tôi có thể sẽ giảm thiểu ít nhiều, nếu Việt Nam nay có tự do và quyền con người được tôn trọng, nếu môi sinh không bị tàn phá, nếu người dân không bị đè đầu cưỡi cổ và bị móc túi bằng đủ cách khác nhau, nếu đạo đức luân lý không ngày càng xuống cấp bởi tham nhũng, dối trá và bạo lực, nếu các tôn giáo không bị kiểm soát và thao túng, nếu nhiều chức sắc và nhà tu hành không bị tha hoá trở thành tay chân của bạo quyền, etc.

Đằng này…!

Một chế độ thực tâm yêu nước và thương dân sẽ không tổ chức “mừng chiến thắng”, một chính quyền biết chữa lành vết thương chiến tranh sẽ không tiếp tục ăn mày dĩ vãng để chia rẽ và thống trị dân.

Tôi nghĩ người có nhân bản, có đạo đức, có hiểu biết không ai lợi dụng dịp này để đi du hý. Ai lại đi ăn mừng trên nỗi đau của người khác và trên cái mất mát của chính dân tộc mình?

Đến như chính ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ hàng đầu của cộng sản Việt Nam, một người có vợ con chết trong cuộc chiến mà ông là tác nhân còn biết nói hồi hơn 20 năm trước rằng 30 tháng 4 là ngày “triệu người vui thì cũng có triệu người buồn”.

Tôi đọc kinh và làm lễ cầu nguyện cho các nạn nhân trong cuộc chiến 54-75, những người đã qua đời cũng như những người còn đang sống, Bắc cũng như Nam, quốc gia cũng như cộng sản, chết trước cũng như sau 75, chết trên chiến trường, chết trên rừng dưới biển, cũng như trong các trại tập trung của cộng sản.

Tôi cầu nguyện cho những người vì yêu nước và thương đồng bào, vì dấn thân cho tự do dân chủ, cho quyền con người đang bị lưu đầy ở các nước hoặc đang còn bị giam cầm hiện nay trong các trại tù của chính quyền cộng sản.

Xin Chúa cho người chết được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng các bậc tổ tiên và xin cho người sống được tìm thấy ý nghĩa cuộc đời bất chấp những gian nan, khốn khó.

Tôi cũng cầu nguyện cho mọi người Việt Nam sớm được sống như là một con người được tôn trọng và yêu thương chứ không phải như một con vật bị bạo quyền lạm dụng, được sống như con cái của Đức Chúa Trời chứ không phải như nô lệ cho các thế lực đen tối, được có đủ tự do và điều kiện để xây dựng cuộc sống của mình như Chúa muốn và người mong.

Tôi cầu nguyện cho mỗi người thức tỉnh!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT


 

THẤY THẦY LÀ THẤY CHA – Lm. Đaminh Trần Công Hiển

Lm. Đaminh Trần Công Hiển

Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!  Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.

 Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha!  Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên.  Người ta thích đi con đường dài và  hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế.  Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy!  Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ. 

Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy. 

Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không?  Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu!  Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ:  Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.  Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu.  Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu? 

Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha.  Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày!  Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai?  Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy!  Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư?  Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.

 Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào!  Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ.  Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi. 

Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh.  Amen! 

Lm. Đaminh Trần Công Hiển

From: Langthangchieutim


 

Tiểu khí của người nhỏ nhen.

Thái Hạo

 Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi.


 

2 đại sứ Việt Nam gây tranh cãi liên quan 30 Tháng Tư

Ba’o Nguoi-Viet

May 2, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Mạng xã hội hôm 2 Tháng Năm dấy lên tranh cãi xoay quanh bài đăng của hai đại sứ Việt Nam đương nhiệm tại Đức và Liên Hiệp Quốc, liên quan 30 Tháng Tư.

Ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, được nhìn thấy chia sẻ một bài đăng của Facebook “Tran Luong Son” về hành xử của cố Tổng Thống Abraham Lincoln sau nội chiến Hoa Kỳ, kèm bình luận bằng tiếng Anh: “Time for celebration. Time for reflection” (Thời để kỷ niệm. Thời để suy ngẫm.)

Bài đăng trên trang cá nhân của ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, hiện đã xóa. (Hình: Chụp qua màn hình)

Bên dưới bài đăng, ông Minh trả lời bình luận của một người đọc: “[Nước] Đức may mắn thống nhất trong hòa bình, nhưng các chính sách hòa hợp và tái thống nhất hai miền cũng cho ta rất nhiều bài học. Vấn đề là ta có quan tâm học không và có tin rằng những bài học đó đáp ứng lợi ích lâu dài của dân tộc ta.”

Bài đăng và phản hồi của ông Minh được hiểu là cách ông ngầm tán dương chủ trương hòa giải sau 1975 phải được tiến hành chân thành, cũng như bày tỏ sự không tán thành việc Hà Nội tốn hàng trăm triệu đô la tiền thuế dân cho việc tổ chức diễn binh ở Sài Gòn, “ăn mừng” 50 năm ngày 30 Tháng Tư.

Tuy vậy, ông Minh sau đó đã xóa bài đăng mà không giải thích.

Ông Hà Quang Minh, nhà báo của tờ Công An Nhân Dân, bình luận trên trang cá nhân: “Cách ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Đức, chia sẻ quanh sự kiện 30 Tháng Tư rất đáng quan ngại về nhận thức chính trị của quan chức ngoại giao này. Đề nghị Bộ NG [Ngoại Giao] xem xét lại tư cách nhân sự của mình.”

Cùng thời điểm, mạng xã hội dấy lên nhiều ý kiến chỉ trích Đại Sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, do ông này đăng hình ảnh Cờ Đỏ Sao Vàng ở Times Square (quảng trường Thời Đại), thành phố New York, hôm 30 Tháng Tư bị công luận phát giác là “hình chế.”

Tấm hình do ông Giang đăng tải sau đó được Báo Chính Phủ, Thông Tấn Xã Việt Nam, Facebook Thông Tin Chính Phủ, báo Tuổi Trẻ, VietnamPlus, Người Lao Động… và hàng loạt trang của giới dư luận viên đăng lại.

Hình “Cờ Đỏ Sao Vàng Việt Nam ở Times Square, New York hôm 30 Tháng Tư” do Đại Sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, đăng trên trang cá nhân và gỡ bỏ sau khi bị phát giác là “hình chế.” (Hình: Chụp qua màn hình)

Vài giờ sau khi bị cộng đồng mạng tố cáo tấm hình “do AI (Artificial Intelligence – trí tuệ nhân tạo) chế ra,” các báo âm thầm gỡ đường dẫn mà không đăng lời cải chính, trong lúc ông Giang cũng khóa trang Facebook “Giang Dang” với hình “avatar” là một con mèo.

Nhiều Facebooker đặt câu hỏi về việc liệu ông Giang có bị phạt 7.5 triệu đồng ($288), tương tự trường hợp những người dân bị công an cáo buộc “đưa tin sai, gây hoang mang dư luận.”

Thậm chí, có những ý kiến đòi Bộ Ngoại Giao kỷ luật ông ta vì đăng tin giả.

Theo bản tiểu sử đăng trên trang web của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ông Đặng Hoàng Giang, 48 tuổi, có bằng cao học ngành Quan Hệ Quốc Tế do Học Viện Ngoại Giao ở Hà Nội cấp.

Trước khi làm trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Giang từng giữ ghế thứ trưởng Ngoại Giao. (N.H.K) [qd]


 

KHÔNG BAO GIỜ LẠC LỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

“Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!” – H. E. Fosdick.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa lễ kính hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ chứng thực câu nói của Fosdick, “Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!”. Ai chọn Chúa Kitô, người ấy ‘không bao giờ lạc lối’ vì đã chọn đúng tuyệt đối. Ngài nói, “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

Chúa Kitô là Thiên Chúa, cũng là con người! Vì thế, bước theo Chúa Kitô, bạn tìm thấy đường đến với Thiên Chúa; tin Chúa Kitô, bạn nhận ra lẽ thật là chính Thiên Chúa; chấp nhận Chúa Kitô, bạn có sự sống của Thiên Chúa! Là Kitô hữu, bạn không chỉ tuân theo một số quy tắc, một số tín điều; nhưng là đi theo một Con Người! Fulton Sheen thật gãy gọn khi nói, “Tất cả giáo lý là Chúa Kitô!”. Chúa Kitô là câu trả lời cho mọi vấn đề; vấn đề sự sống, sự chết; vấn đề bên kia cái chết và sự sống vĩnh cửu. Ai chọn Chúa Kitô sẽ ‘không bao giờ lạc lối’ vì đã chọn đúng đường – đúng đích – dẫn đến Thiên Chúa!

Philipphê nói, “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”; Chúa Giêsu đáp, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!”. Một câu trả lời khá mơ hồ cho một người thực dụng; ấy thế, đó là câu trả lời không thể đúng hơn! Bởi lẽ, không ai thấy Thiên Chúa mà không chết, nên Con Thiên Chúa làm người để ai ‘thấy’ Ngài thì luôn ‘sống!’. Cốt lõi giáo lý về Nhập Thể là – giờ đây – “khuôn mặt” Thiên Chúa đã hiển hiện nơi Chúa Kitô. Thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha, thấy sự sống, thấy thiên đàng. Rất nhiều điều kỳ diệu đang chờ đợi bên kia cuộc sống, nhưng chúng ta có thể hưởng nếm chúng trước trong Chúa Kitô. Ngài ‘mang trời xuống đất’ khi nhập thể; ‘mang đất lên trời’, khi đem chúng ta về ‘Nhà Cha’. Với tư cách con đường, Ngài đưa chúng ta đến với Chúa Cha; tư cách sự thật, Ngài mặc khải Chúa Cha; và tư cách sự sống, Ngài chia sẻ sự sống của Cha.

Một trùng hợp thú vị khi Phaolô – đến mấy lần – đề cập việc nhìn thấy Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh đã hiện ra “với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt”; Ngài cũng hiện ra “với Giacôbê, với tất cả các tông đồ”; và sau cùng, với Phaolô như “một đứa trẻ sinh non”. Nhờ việc thấy Ngài, các tông đồ mạnh dạn đi đến tận cùng trái đất, rao giảng Tin Mừng Phục Sinh; “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”. Mỗi ngày, đi trên con đường Giêsu, mỗi bước chân của chúng ta đã “chọn nơi nó dẫn đến” – Chúa Cha! Có Chúa Cha, bạn và tôi có tất cả; có thiên đàng, có sự sống hôm nay, có sự sống vĩnh cửu! Vậy Kitô hữu sẽ không còn gặp bất cứ vấn đề nào nữa sao? Có chứ! Vấn đề cuộc sống vẫn còn đó, nhưng vì Con Thiên Chúa đã đi qua mọi nẻo gian khó của nó, và trên đường, Ngài đã toàn thắng khi đánh bại thần chết; vì thế, Ngài có thể dẫn chúng ta đi, cứu thoát chúng ta ở bất cứ hoàn cảnh nào. Và chắc chắn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến cùng đích!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đường đời muôn hướng nhưng ‘không dẫn đến đâu’. Giúp con chọn đường Giêsu mỗi ngày; vì chọn Ngài, con sẽ ‘không bao giờ lạc lối!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Thứ Bảy Tuần II Phục Sinh

Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh em chưa biết Thầy ư ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 14,6-14

6 Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

8 Ông Phi-líp-phê nói : “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời : “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói : ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’ ? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy ; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.