Chủ tiệm nail gốc Việt ở Maryland bị trục xuất đã về tới Việt Nam

Ba’o Nguoi-Viet

November 20, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bà Melissa Trần (Trần Thị Mộng Tuyền), chủ tiệm nail ở Maryland bị bắt khi trình diện Cảnh Sát Di Trú (ICE) hồi tuần trước để trục xuất, đã về đến Việt Nam, theo luật sư của bà cho CBS News biết hôm Thứ Năm, 20 Tháng Mười Một.

“Luật sư của bà Melissa Trần cho biết bà đã đến Hà Nội, thủ đô Việt Nam, chiều Thứ Tư,CBS cho biết, nhưng không ghi tên vị luật sư là ai.

Bà Melissa Trần (trái) và Luật Sư Bernie Semler trong lần trả lời phỏng vấn đài WJZ, chi nhánh của CBS News, hôm 16 Tháng Mười, ba ngày sau khi được thả ra khỏi trại giam ở Tacoma, Washington, đoàn tụ với gia đình. (Hình: Chụp từ màn hình WJZ/CBS News)

Bài báo “Chủ tiệm nail gốc Việt về nhà sau 5 tháng bị giam, trình diện ICE, và bị trục xuất” của nhật báo Người Việt đăng ngày 16 Tháng Mười Một có đề cập ông Bernie Semler là luật sư của bà Melissa Trần, cư dân Hagerstown, Maryland.

Theo nhật báo The Baltimore Banner hôm Thứ Tư, 19 Tháng Mười Một, bà Melissa Trần bị trục xuất ngày Thứ Hai, 17 Tháng Mười Một.

Bà Melissa Trần bị ICE bắt giam ngày 12 Tháng Năm, do một lệnh trục xuất hơn 20 năm trước, vì một sai lầm của bà lúc bà 19 tuổi và đã hoàn tất bản án sáu tháng tù giam.

Sau năm tháng bị bắt giữ, và hai lần ra tòa di trú ở Baltimore, Maryland, lúc 5 giờ sáng ngày Thứ Hai, 13 Tháng Mười, bà được thả ra khỏi trại giam ở Tacoma, Washington, đoàn tụ với chồng và bốn người con, sau khi bị nhốt ở Louisiana và Arizona trước đó.

Cho dù được thả, bà vẫn phải đối diện với chuyện bị trục xuất và phải trình diện ICE.

Ngày 20 Tháng Mười, bà trình diện ICE lần đầu tiên sau khi được thả, bị bắt phải đeo vòng điện tử vào cổ chân để ICE theo dõi. Sau khi luật sư phản đối vì hành động này không đúng luật, bà được đi lại tự do mà không cần đeo vòng chân.

Theo lời kể của ông Danny Dũng Hoàng, chồng bà Melissa Trần, với nhật báo Người Việt hôm 14 Tháng Mười Một, bà trình diện ICE lần thứ nhì theo lịch hẹn vào ngày Thứ Tư, 12 Tháng Mười Một, nhưng người quản lý hồ sơ của bà vắng mặt. Một nhân viên ICE hỏi bà: “Chúng tôi nghe nói bà nói xấu ICE trên tivi, báo chí, nói không được tắm rửa, đối xử tệ, không được khám sức khỏe, thức ăn có giòi.”

Lúc 5 giờ sáng ngày Thứ Hai, 13 Tháng Mười, bà Melissa Trần được thả ra khỏi trại giam ở Tacoma, Washington, đoàn tụ với chồng và bốn người con tại phi trường Baltimore, Maryland. (Hình: Danny Dũng Hoàng cung cấp)

Vẫn theo chồng bà Melissa Trần, bà bình tĩnh trả lời: “Tôi chỉ nói sự thật là tôi không được tắm rửa suốt năm ngày. Ơn trên phù hộ cho tôi suốt năm tháng không bị bệnh nên tôi không cần đòi khám sức khỏe. Tôi nghĩ các ông nhầm lẫn với ai khác.”

Lần trình diện thứ ba là ngày Thứ Sáu, 14 Tháng Mười Một, bà Melissa Trần bị ICE giữ lại và cho biết “bà đã có số thông hành do phía Việt Nam cấp và chờ trục xuất.”

Bà Melissa Trần là mẹ của bốn người con và là chủ tiệm nail ở Hagerstown, Maryland.

“ICE bắt bà Melissa Trần, một di dân tội phạm bất hợp pháp Việt Nam, có tiền án bao gồm giả mạo, ăn cắp, gian lận, và viết chi phiếu giả. Một chánh án di trú ra lệnh trục xuất bà hồi năm 2004. Bà có hơn 20 năm để rời Hoa Kỳ và trải qua đầy đủ các thủ tục một cách công bằng,” bà Tricia McLaughlin, phát ngôn viên Bộ Nội An, nói qua một tuyên bố gửi cho CBS News.

Theo luật sư của bà Melissa Trần, bà đến Mỹ một cách hợp pháp hồi thập niên 1990 trong tư cách một người tị nạn với quy chế thường trú nhân (có thẻ xanh).

Năm 2001, bà thừa nhận có lấy cắp chi phiếu của chủ nhân nơi bà làm việc lúc còn là trẻ vị thành niên. Bà nhận tội và bị trục xuất năm 2003. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam không nhận bà vì lúc đó Hà Nội không nhận người đến Mỹ trước năm 1995. Vì thế, bà Melissa Trần ở lại Mỹ và bị yêu cầu thường xuyên trình diện ICE.

Vẫn theo luật sư của bà Melissa Trần, bà luôn trình diện ICE đầy đủ trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, bà bắt đầu bị bắt hồi Tháng Năm khi trình diện ICE ở Baltimore.

“Tôi biết điều tôi làm trước đây là sai, và tôi chịu trách nhiệm cho việc này,” bà Melissa Trần nói với đài WJZ, chi nhánh của CBS News, hôm 16 Tháng Mười. “Nhưng để con cái tôi phải trải qua việc này thì thật là kinh khủng đối với tôi. Tại sao? Chúng ta luôn nói nếu thay đổi, chúng ta xứng đáng có cơ hội thứ nhì để làm lại cuộc đời.” (Đ.D.) [kn]


 

RẤT ĐỜI ĐỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”.

Vua Frederick – theo thuyết bất khả tri – trong một bữa tiệc, giễu cợt Chúa Giêsu. Tướng Von Zealand đứng dậy, “Tâu bệ hạ, thần không sợ chết, đã thắng 38 trận cho ngài. Thần sẽ sớm ra trước Đấng ngài đang xúc phạm – Đấng đời đời, rất đời đời! Vĩnh biệt!”. Cả phòng lặng thinh. Vua run giọng, “Xin tha lỗi cho trẫm!”. Yến tiệc kết thúc trong thinh lặng.

Kính thưa Anh Chị em,

Đấng đời đời, ‘rất đời đời’ của Von Zealand chính là “Thiên Chúa của kẻ sống” mà Tin Mừng hôm nay tiết lộ. Để hiểu được lời này, Karl Rahner nói, “Bạn hãy thả mình vào cung lòng của Thiên Chúa một cách vô điều kiện!”.

Tin Mừng tường thuật việc giới Sadducêô đưa ra một kịch bản trái khoáy để gài bẫy Chúa Giêsu: một phụ nữ – vợ của bảy anh em; khi sống lại, nàng là vợ ai? Chúa Giêsu nói, “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Hôn nhân chỉ dành cho đời này, không cho đời sau, sẽ không ai là chồng của nàng! Với giáo huấn này, một số người sẽ gặp khó khăn. Họ mong vẫn là vợ, là chồng của người phối ngẫu trên thiên đàng. Hãy yên tâm, các mối dây yêu thương đã hình thành trên dương thế sẽ vẫn còn, thậm chí, được củng cố hơn trên trời! Tuy nhiên, hôn nhân, theo nghĩa trần thế, sẽ chấm dứt; nó được thay thế bằng tình yêu trong sáng của một cuộc sống mới. “Điều chúng ta sống như tình yêu trong thời gian sẽ được biến hình, chứ không bị xoá bỏ, trong cõi đời đời!” – Von Balthasar.

Karl Rahner nói, “Niềm tin vào sự phục sinh mai ngày của Kitô hữu được đính chặt tận chóp trên cùng bản tính hằng sống của Thiên Chúa; Ngài hằng sống, đời đời, ‘rất đời đời’… nên tình yêu của Ngài cũng vĩnh hằng, miên viễn và vô cực như Ngài!”. Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ niềm tri ân, “Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát!”. Không có thiên đàng, không có cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ ‘giảm giá’ và chỉ còn là đạo đức học hay một triết lý sống. Niềm tin vào sự phục sinh là cần thiết để mọi hành động yêu thương không phải là phù du và tự nó kết thúc, nhưng có thể trở thành hạt giống định hình hoa trái vĩnh cửu trong khu vườn nhà Cha. “Niềm vui gặp lại trên thiên đàng không phải là trở về điều đã qua, nhưng là khám phá điều mà tình yêu lẽ ra phải trở thành!” – C.S. Lewis.

Anh Chị em,

Vì “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!” nên sống đức tin không chỉ là chờ đợi một “đời sau”, nhưng là ‘để sự sống đời đời’ thấm vào từng chọn lựa hôm nay. Tin vào Chúa của kẻ sống, chúng ta học ‘yêu không mà chiếm hữu’, ‘cho mà không sợ mất’, ‘tha mà không hối tiếc’. Mỗi hy sinh, mỗi trung tín nhỏ bé đều là một bước chạm vào cõi ‘rất đời đời’. Trong Chúa Kitô Phục Sinh, cái chết không còn là ngõ cụt, nhưng là ngưỡng cửa; không còn là chia lìa, nhưng là biến đổi; không còn là mất mát, nhưng là khởi đầu trong ánh sáng vĩnh cửu! Và chính trong niềm hy vọng này, đời sống mong manh của chúng ta được neo chặt vào sự sống vô tận của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sợ chết, không thắng trận nào cho Chúa, lại sợ sớm trình diện Ngài. Cho con dám thả mình vào ‘vực Giêsu’, hầu con không sống như không có đời sau!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên, Năm Lẻ

Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 20,27-40

27 Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này : Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ?”

34 Đức Giê-su đáp : “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” 40 Thế là họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.


 

18 Hiểu Lầm Phổ Thông Trong Lĩnh Vực Sức Khỏe  – Huỳnh Chiếu Đẳng

Huỳnh Chiếu Đẳng

Nguồn tin và chi tiết: https://www.cnet.com/health/do-eggs-cause-high-cholesterol-plus-17-other-health-myths-were-busting/

HCD : Tóm tắt nội dung bài báo (có thể bản dịch nguyên văn nằm dưới phần tóm tắt) Bài báo “Do Eggs Cause High Cholesterol? Plus, 17 Other Health Myths We’re Busting” của Amanda Capritto (CNET) nói về 18 hiểu lầm phổ biến trong lĩnh vực sức khỏe — những điều từng được nhiều người tin tưởng nhưng đã bị khoa học hiện đại bác bỏ hoặc làm sáng tỏ.

Dưới đây là bản tóm tắt chi tiết và dễ hiểu từng “huyền thoại sức khỏe”: 

1. Tập thể dục ban đêm làm mất ngủ – Sai

Lầm tưởng: Tập thể dục buổi tối sẽ làm hỏng giấc ngủ.

Sự thật: Không phải với tất cả mọi người. Một số bài tập như yoga hoặc cử tạ có thể không ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ. Với một số người, tập thể dục trước khi ngủ thậm chí còn giúp họ ngủ ngon hơn.

2. Trứng và Cholesterol Cao

Lầm tưởng: Ăn trứng gây tăng cholesterol trong máu.

Sự thật: Trứng hầu như không ảnh hưởng đến lượng cholesterol trong máu của bạn. Khuyến nghị cũ (năm 1968) rằng người lớn không nên ăn quá ba quả trứng mỗi tuần đã bị bác bỏ. Nghiên cứu gần đây thậm chí còn cho thấy ăn trứng có thể cải thiện sức khỏe tim mạch.

3. Uống Nước Hàng Ngày

Lầm tưởng: Bạn phải uống 64 ounce (khoảng 2 lít, tương đương 8 cốc 8 ounce) nước mỗi ngày.

Sự thật: Mỗi người có nhu cầu cấp nước khác nhau. Mặc dù nước rất quan trọng, nhưng quy tắc “8×8” là lỗi thời và không chính xác cho tất cả mọi người. Bạn nên điều chỉnh lượng nước nạp vào dựa trên mức độ hoạt động và các dấu hiệu mất nước của cơ thể.

4. Lượng Bước Đi Lý Tưởng

Lầm tưởng: 10.000 bước là chìa khóa để có một cơ thể khỏe mạnh.

Sự thật: Đó không phải là con số cố định cho mọi người. Đi bộ là một bài tập tuyệt vời, nhưng mục tiêu 10.000 bước không phù hợp với tất cả mọi người vì việc tập luyện không phải là “một kích cỡ vừa cho tất cả”. Việc kết hợp chế độ ăn uống lành mạnh và đáp ứng các hướng dẫn vận động chung có thể quan trọng hơn.

5. Cơ Bụng Sáu Múi

Lầm tưởng: Cơ bụng sáu múi là đỉnh cao của sức khỏe.

Sự thật: Sáu múi là kết quả của gen nhiều hơn là chỉ độ khỏe. Mặc dù cần tập luyện và ăn kiêng, nhưng đối với một số người, để có sáu múi có thể cần phải ăn kiêng quá mức hoặc hạn chế calo. Mục tiêu tốt hơn là hướng tới một bắp thịt mạnh mẽ thay vì chỉ chú trọng vào mặt thẩm mỹ.

6. Chất Béo Bão Hòa và Bệnh Tim

Lầm tưởng: Ăn chất béo bão hòa trực tiếp gây ra bệnh tim.

Sự thật: Vẫn còn nhiều tranh cãi trong tài liệu y khoa. Một số nghiên cứu cho rằng chất béo bão hòa không làm tắc nghẽn động mạch và nguy cơ cholesterol LDL “xấu” đã bị thổi phồng. Tuy nhiên, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) vẫn khuyến nghị nên hạn chế (nhưng không loại bỏ hoàn toàn) chất béo bão hòa.

7. Thực Phẩm Hữu Cơ

Lầm tưởng: Thực phẩm hữu cơ (organic) tốt cho sức khỏe hơn.

Sự thật: Bằng chứng rất hạn chế. Chưa có đủ bằng chứng khoa học hợp lệ cho thấy nông sản hữu cơ bổ dưỡng hơn nông sản thông thường. Việc hữu cơ không sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp có thể giảm tiếp xúc với dư lượng thuốc trừ sâu, nhưng tác động lâm sàng đến sức khỏe con người vẫn chưa rõ ràng.

8. Đường “tự nhiên” tốt hơn đường tinh luyện – Sai

Lầm tưởng: Đường tự nhiên (mật ong, mật mía,…) tốt hơn đường tinh luyện.

Sự thật: Đường vẫn là đường. Cơ thể bạn xử lý tất cả các loại đường đơn giản (như đường dừa, mật hoa agave, đường mía, mật ong,…) theo cùng một cách. Điểm khác biệt duy nhất là đường có trong trái cây đi kèm với chất xơ, vitamin và chất chống oxy hóa, làm cho nó bổ dưỡng hơn.

9. Cà Phê và Tăng trưởng

Lầm tưởng: Uống cà phê làm hạn chế sự phát triển chiều cao.

Sự thật: Di truyền quyết định chiều cao của bạn. Không có bằng chứng khoa học hợp lệ nào cho thấy cà phê có thể làm hạn chế sự phát triển của một người. Cà phê không liên quan đến bất kỳ tình trạng y tế nào ngoại trừ việc tăng nhẹ, tạm thời huyết áp.

10. Thực phẩm biến đổi gen (GMO) gây ung thư – Sai

Lầm tưởng: Thực phẩm biến đổi gen (GMO) gây ung thư.

Sự thật: Không phải vậy. Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy GMO gây ung thư hoặc bất kỳ vấn đề sức khỏe nào khác. Thực phẩm GMO tương đương về mặt dinh dưỡng với các loại không biến đổi gen và được coi là an toàn.

11. Lầm tưởng: lò microwave gây ung thư.

Sự thật: Không. Lò vi sóng chỉ làm nóng thức ăn. Chúng phát ra bức xạ không ion hóa (tương tự sóng điện thoại), loại bức xạ này không đủ mạnh để thay đổi cấu trúc tế bào và không gây ung thư ở người. Bức xạ cũng được chứa trong tường lò vi sóng. 

12. Lầm tưởng: Chất chống mồ hôi (antiperspirants) gây ung thư vú.

Sự thật: Không có bằng chứng mạnh mẽ. Mặc dù có những lo ngại về nhôm, nhưng các nghiên cứu dịch tễ học và Hiệp hội Ung thư Mỹ đều khẳng định không có mối liên hệ rõ rệt nào giữa việc sử dụng chất chống mồ hôi và nguy cơ ung thư vú.

13. Bữa sáng là bữa quan trọng nhất trong ngày – Không hẳn

Lầm tưởng: Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày.

Sự thật: Bỏ bữa sáng vẫn ổn. Việc bỏ bữa sáng không gây hại. Khoa học đằng sau nhịn ăn gián đoạn thậm chí còn gợi ý rằng việc bỏ bữa sáng có thể có lợi cho một số người, miễn là bạn kiểm soát được cơn đói.

14. Thời tiết lạnh khiến bạn bị cảm – Sai

Lầm tưởng: Thời tiết lạnh gây cảm lạnh.

Sự thật: Thời tiết không trực tiếp làm bạn bị ốm. Cảm lạnh là do virus. Lý do mọi người ốm nhiều hơn vào mùa lạnh là vì họ dành nhiều thời gian ở trong nhà kín (virus dễ lây lan hơn) hoặc không khí khô làm virus lây lan dễ dàng hơn, và thời tiết lạnh có thể làm suy yếu tạm thời hệ thống miễn dịch.

15. Ai cũng cần ngủ 8 tiếng mỗi ngày – Không đúng

Lầm tưởng: Mọi người đều cần ngủ 8 tiếng.

Sự thật: Mỗi người là khác nhau. Mặc dù 7 đến 9 giờ là khuyến nghị tiêu chuẩn cho người lớn, nhưng mỗi người có một nhịp sinh học độc đáo quyết định thời gian ngủ tối ưu. Hãy ngủ đủ để cảm thấy tốt nhất, không phải theo một con số cứng nhắc.

16. Tắm nắng an toàn hơn nằm giường tắm nắng – Sai 

Lầm tưởng: Ánh nắng mặt trời an toàn hơn giường tắm nắng (tanning beds).

Sự thật: Cả hai đều phát ra tia UV gây ung thư da. Cả tắm nắng ngoài trời và trong giường tắm nắng đều làm lộ da bạn trước tia cực tím, gây lão hóa sớm và là nguyên nhân gây ung thư da.

17. Bẻ khớp tay gây viêm khớp – Sai

Lầm tưởng: Bẻ khớp ngón tay gây viêm khớp (arthritis).

Sự thật: Đó chỉ là sự giải phóng khí vô hại từ dịch khớp (synovial fluid), chất lỏng bôi trơn các khớp của bạn.

18. Cơ thể cần “thanh lọc” bằng nước ép hoặc detox – Sai

Lầm tưởng: Cơ thể cần liệu pháp nước ép (juice cleanses) để thải độc.

Sự thật: Cơ thể bạn tự làm sạch. Gan, thận, da, hệ tiêu hóa và hệ bạch huyết sẽ tự hoàn thành nhiệm vụ thải độc. Bạn có thể hỗ trợ cơ thể bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục và uống đủ nước. Liệu pháp nước ép có thể gây hại vì làm cơ thể thiếu hụt các chất dinh dưỡng thiết yếu.

Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

From: Tu-Phung


 

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” – Cha Vương

 Một ngày vui vẻ với một trái tim rộng lượng để giúp đỡ những người nghèo khổ nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 21/11/2025.  (t5-24)

Chặng Đàng Thứ Năm- Người Kyrênê giúp Chúa Giêsu vác đỡ cây Thánh Giá

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Trích Phúc âm theo Thánh Matthêu ( Mt 27: 32; 16:24), Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

SUY NGẮM: Ông Simon người Kyrênê trên con đường trở về nhà ông từ công sở, khi ông bất chợt gặp thấy đoàn diễu hành buồn sầu của những người bị lên án, đối với ông có lẽ đó là một cảnh tượng thông thường. Quân lính bức hiếp một người lao nhọc này từ vùng nông thôn để vác cây Thập Giá trên chính vai của mình. Ông phải nghĩ tới khó chịu như thế nào khi chợt bắt gặp số phận của những người bị lên án! Ông làm những gì ông phải làm nhưng một cách miễn cưỡng. Đáng chú ý thay, Tác Giả Tin Mừng Maccô không những nói tên của ông mà còn nói đến hai người con của ông nữa, được biết họ là những người Kitô hữu và là thành viên trong cộng đoàn (x Mc 15:21). Từ lúc bất chợt này đức tin được sinh ra. Đi bên cạnh Chúa Giêsu và chia sẻ gánh nặng của cây Thánh Giá, người Kyrênê đến để thấy rằng đó là một hồng ân để được đồng hành với Chúa chịu đóng đinh và giúp đỡ người. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, thầm lặng và chịu đau khổ đã đánh động tâm hồn ông. Chúa Giêsu là Đấng mà một mình tình yêu Thiên Chúa có thể cứu độ tất cả nhân loại, muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá người để chúng ta có thể hoàn tất những gì còn thiếu sót trong sự đau khổ của người (x Cl 1:24). Bất cứ khi nào chúng ta tỏ ra lòng nhân ái đến người đang đau khổ, người bị cưỡng bức và người cô thế, và chia sẻ những nỗi khổ đau của họ, là chúng ta có thể giúp mang cùng cây Thánh Giá đó của Chúa Giêsu. Bằng cách này chúng ta nhận được ơn cứu độ và giúp góp phần đến sự cứu rỗi cho thế giới.

LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa đã mở đôi mắt và tâm hồn ông Simon người Kyrênê, và Chúa đã cho ông ân sủng đức tin qua việc chia sẻ vác cây Thánh Giá của Chúa. Xin giúp chúng con biết giúp đỡ những người lân cận thiếu thốn, ngay cả khi điều này quấy rầy đến những dự định và ước muốn của chúng con, bằng cách này để chúng con biết rằng chúng con đang bước đi một mình với Chúa. Xin giúp chúng con cảm kích với niềm vui rằng, khi chúng con chia sẻ trong sự đau khổ của Chúa và những đau khổ của thế giới này, chúng con trở nên những người tôi tớ của sự cứu rỗi và có thể giúp xây dựng Thân Mình của Chúa là Hội Thánh.

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

**************************

Trái Tim Khát Mong (sáng tác: Sr. Tigon) | Angelo Band

TRẦN THỊ MỘNG TUYỀN BỊ TRỤC XUẤT KHỎI HOA KỲ – Lê Thanh Tùng

Đinh Hữu Thoại

– Lê Thanh Tùng –

Câu chuyện bà Melissa Trần (tên Việt: Trần Thị Mộng Tuyền) – một chủ tiệm nail sống ở Maryland, có thẻ xanh, có chồng và bốn con, trình diện ICE đầy đủ hơn 20 năm – bị bất ngờ trục xuất về Việt Nam vào cuối năm 2025 đã gây chấn động cộng đồng người Việt tại Mỹ. Sự việc đặt ra câu hỏi: vì sao một người sống ổn định và tuân thủ pháp luật ngần ấy năm lại bị đưa khỏi nước Mỹ?

Để hiểu điều này, cần nhìn vấn đề dưới góc độ luật di trú Hoa Kỳ, vốn rất phức tạp và đôi khi đi ngược cảm nhận công bằng của người dân.

  1. Xuất phát điểm: bà đến Mỹ hợp pháp, có thẻ xanh

Bà Melissa đến Hoa Kỳ từ thập niên 1990 theo diện tị nạn. Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp (LPR) – tức là người có thẻ xanh. Bà lập gia đình, sinh bốn người con, mở tiệm nail và sống tại Hagerstown, Maryland.

Về mặt đời sống, bà là một người mẹ, một người vợ, một người lao động chân chính như bao người.

  1. Sai lầm tuổi trẻ và bản án hình sự

Khoảng năm 2001–2002, khi mới 19 tuổi, bà vướng vào các hành vi liên quan đến:

– gian lận,

– giả mạo,

– ăn cắp hoặc viết chi phiếu giả.

Bà nhận tội và thi hành 6 tháng tù giam. Đó là một sai lầm khi bà còn rất trẻ, và bà đã trả giá cho nó bằng bản án hình sự.

Tuy nhiên, trong luật di trú, những tội danh này thuộc nhóm gọi là “Crimes Involving Moral Turpitude” (CIMT) – tức là các tội bị xem là vi phạm đạo đức xã hội. Công dân Mỹ phạm tội này thì đi tù rồi về, hết chuyện. Nhưng người có thẻ xanh thì có thể bị đưa ra tòa di trú để trục xuất.

Chính điều này dẫn đến bước ngoặt tiếp theo.

  1. Lệnh trục xuất ban hành từ hơn 20 năm trước

Sau khi mãn hạn tù, vào khoảng năm 2003–2004, một thẩm phán di trú đã ra lệnh trục xuất đối với bà Melissa.

Lệnh này được xem là lệnh trục xuất cuối cùng (Final Order of Removal) – nghĩa là:

– hoặc bà không nộp đơn kháng cáo,

– hoặc kháng cáo nhưng thua.

Từ thời điểm đó, về mặt pháp lý, bà đã có lệnh phải rời khỏi Hoa Kỳ.

Thế nhưng bà vẫn ở lại.

  1. Vì sao bà không bị trục xuất từ năm 2003?

Điều then chốt nằm ở chỗ:

– Việt Nam thời điểm đó không chấp nhận nhận lại những người từng rời Việt Nam trước một mốc thời gian nhất định (thường được nhắc đến là năm 1995).

– Muốn trục xuất một người, ICE phải có giấy thông hành (travel document) do nước gốc cấp. Nếu nước đó không cấp, ICE không thể ép.

– Khi Việt Nam không đồng ý nhận bà, Mỹ đành phải “treo” lệnh trục xuất, không thi hành được.

Nhưng họ cũng không huỷ lệnh. Vì vậy, bà rơi vào diện:

  1. “Order of Supervision” – phải trình diện suốt hơn 20 năm

Khi không thể trục xuất một người có lệnh cuối cùng, ICE dùng biện pháp:

– Order of Supervision – Lệnh giám sát.

– Người trong diện này:

– phải trình diện ICE định kỳ,

– phải báo cáo mọi thay đổi nơi ở,

– đôi khi bị áp điều kiện ràng buộc như đeo vòng theo dõi hoặc xin phép khi đi xa.

Bà Melissa trình diện đều đặn hơn 20 năm, không trốn tránh, không vi phạm thêm.

Nhiều người nghĩ rằng thời gian dài như vậy sẽ “tự động xoá” lệnh. Nhưng luật di trú không có điều khoản đó. Lệnh trục xuất vẫn nằm im đó.

  1. Năm 2025: Bị bắt lại khi trình diện

Ngày 12/5/2025, trong một lần trình diện bình thường tại ICE Baltimore, bà bị bắt giữ.

Sau đó bà bị đưa qua các trại giam ở:

– Louisiana,

– Arizona,

– Tacoma (Washington).

Tổng cộng bị giam khoảng 5 tháng.

Trong thời gian bị giam, bà kể rằng có lúc bị giữ đến 5 ngày mà không được tắm, không có bàn chải đánh răng, không có đồ vệ sinh cá nhân. Điều kiện ăn uống và sinh hoạt rất tệ.

Những điều này không phải lời đồn, mà do chính bà nói trên CBS Baltimore, Newsweek và các báo Mỹ.

  1. Bà lên tiếng trước truyền thông – ICE “để ý”?

Sau khi được thả tạm thời vào tháng 10/2025, bà tiếp tục phải trình diện.

Theo lời chồng bà kể lại:

Một nhân viên ICE hỏi bà:

“Chúng tôi nghe bà nói xấu ICE trên TV và báo chí. Có đúng không?”

Chi tiết này báo Mỹ chưa kiểm chứng độc lập, nhưng phù hợp với nhiều vụ việc ICE bị tố “trả đũa” những người lên tiếng về điều kiện giam giữ.

Dù không có bằng chứng rằng ICE trục xuất bà vì lý do này, nhưng thực tế:

Việc bà công khai nói về điều kiện giam giữ tệ hại

Trong lúc ICE đang bị kiện tụng nhiều nơi

khiến họ không còn thiện chí nương tay.

  1. Bước ngoặt lớn: Việt Nam bất ngờ cấp giấy thông hành

Khoảng giữa tháng 11/2025, điều mà suốt 20 năm chưa từng xảy ra đã xảy ra:

Việt Nam cấp giấy thông hành, đồng ý nhận lại bà Melissa Trần.

Đây chính là “mảnh ghép cuối cùng” để ICE có thể thực hiện lệnh trục xuất từ năm 2003–2004.

Và khi điều kiện đầy đủ:

ICE phải thi hành lệnh,

Không còn lý do pháp lý nào để trì hoãn vô thời hạn.

Chỉ vài ngày sau khi có giấy thông hành, bà bị đưa lên máy bay.

Ngày 17/11/2025, bà đã có mặt tại Hà Nội.

  1. Kết luận: Vì sao bà bị trục xuất?

Gộp tất cả lại, có ba nhóm lý do chính:

(1) Lý do gốc rễ: Lệnh trục xuất từ 20 năm trước

Lệnh trục xuất vẫn còn tồn tại,

Chưa bao giờ được mở lại hay huỷ bỏ.

(2) Lý do quyết định: Việt Nam đồng ý nhận lại

Suốt 20 năm, Việt Nam từ chối → ICE không trục xuất được.

Năm 2025, Việt Nam thay đổi → ICE có đủ điều kiện pháp lý để thi hành.

(3) Lý do thực tế – yếu tố môi trường và thái độ ICE

Bà tố cáo điều kiện giam giữ trên TV, báo Mỹ.

ICE bị chú ý, bị soi xét.

Bà bị chất vấn vì “nói xấu ICE”.

Việc này không phải lý do hợp pháp, nhưng có thể khiến ICE cứng rắn hơn, không dùng sự “linh hoạt” để trì hoãn hay khoan nhượng.

10. Góc nhìn con người

Về mặt pháp lý, ICE có quyền trục xuất bà khi có đủ điều kiện.

Nhưng về mặt lẽ phải và nhân tính:

– Một người đã sống ở Mỹ hơn 20 năm,

– Nuôi 4 đứa con,

– Đóng góp lao động,

– Đã trả giá cho sai lầm tuổi trẻ,

– Trình diện nghiêm túc suốt mấy chục năm,

Việc bị tách khỏi gia đình và đưa về Việt Nam chỉ vì một lệnh cũ từ thời thiếu niên là một điều đau lòng, gây tranh cãi và khiến nhiều người cảm thấy bất công.

Xem them:

https://www.nguoi-viet.com/…/chu-tiem-nail-goc-viet…/


 

 “ANH TRỘM LÀNH ” CÓ ĐÁNG ĐƯỢC LÊN THIÊN ĐÀNG KHÔNG?- Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà

 CHÚA NHẬT 34 TN 

(Suy niệm Tin mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) Lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ)

 Sứ điệp : Can đảm làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người.

* * *

Nhiều người cho rằng : Vào thiên đàng dễ ợt ! Cần gì phải tuân giữ Lời Chúa cho mất công. Cần gì phải ăn năn sám hối cho đời mất vui… Cứ thoải mái tận hưởng cuộc đời, có ăn chơi thác loạn cũng không sao… Đến khi sắp lìa đời thì chỉ cần bắt chước tên trộm lành thưa với Chúa một câu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” với kỳ vọng chỉ cần có thế, Chúa sẽ tha thứ và đón nhận mình vào thiên đàng như đã đón nhận tên trộm lành năm xưa. Khỏe re!

Nghĩ như vậy là sai lầm tai hại, vì anh trộm lành được vào thiên đàng không phải vì anh đã van xin có một câu ngắn gọn đó, nhưng anh ta còn có những nhân đức đáng khâm phục khác như sau:

 Thứ nhất: Anh đã đền tội đủ quá rồi!

 Anh trộm lành bị tuyên án tử hình và phải chịu đóng đinh tay chân vào thập giá cho đến chết. Đây là một hình phạt quá ư nặng nề giáng xuống đầu anh, trong khi anh chỉ mang tội trộm cắp! Thế là anh phải chịu chết đau đớn để đền tội và do đó, tội anh đã được xóa bỏ hết; vì vậy, chẳng còn lý do gì để trừng phạt anh thêm.

 Thứ hai: Anh là người bênh vực Chúa Giê-su.

– Đang khi các thủ lãnh cùng những người Do Thái cười nhạo Chúa Giê-su: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn” (Lc 23,35).

– Trong khi đó, quân lính thì chế giễu rằng: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi” (Lc 23,37).

– Và ngay cả một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23,39).

Đứng trước bao nhiêu lời gièm pha, phỉ nhổ, nhạo cười… của bao người chứng kiến trút xuống đầu Chúa Giê-su, chỉ có anh trộm lành can đảm bênh vực Ngài qua lời đáp trả với tên trộm kia: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông nầy, ông có làm gì xấu đâu?” (Lc 23, 41).

 Thứ ba: Anh là người có lòng tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Giê-su, nhờ đó anh được nên công chính, tức thành người tốt lành thiện hảo (xem Galát 2,16. Rm 3,22…).

Anh bày tỏ lòng tin vào Thiên Chúa khi lên tiếng trách tên trộm cùng bị đóng đinh vào thập giá với anh rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao?” (Lc 23, 40). Nói như thế là anh đã tin có Thiên Chúa.

Và anh thể hiện niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giê-su và vào sự sống đời sau, khi anh thưa cùng Chúa Giê-su rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).

 Như vậy, anh “trộm lành” xứng đáng được hưởng phúc thiên đàng vì anh đã hội đủ những điều kiện cần thiết để vào quê trời, chứ không phải là nhờ cầu xin bằng một câu ngắn gọn.

 Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con tự vấn chính mình:

Con có can đảm đứng ra giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa và bênh vực Chúa giữa đám đông những người phỉ báng Chúa không?

Nếu chưa thì xin ban thêm đức tin và lòng can đảm làm chứng cho Chúa cũng như dám giới thiệu Chúa cho mọi người. Amen.

 Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà

 Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 23, 35-43).

 Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “NGƯỜI NÀY LÀ VUA DÂN DO THÁI”.

Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

 From: ngocnga_1m & NguyenNThu


 

 Bê bối email Epstein khiến Chủ tịch Harvard rút khỏi các hoạt động công

 BBC Vietnamese

Tác giả,Max Matza

18 tháng 11 2025

Cựu Chủ tịch Đại học Harvard Larry Summers cho biết ông sẽ ngừng tham gia các hoạt động công sau khi các email của ông với nhà tài chính tai tiếng Jeffrey Epstein bị công khai.

“Tôi vô cùng xấu hổ vì hành động của mình và nhận ra nỗi đau mà những hành động đó đã gây ra. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định sai lầm khi tiếp tục liên lạc với Epstein,” ông Summers nói trong một tuyên bố mà đối tác của BBC tại Mỹ là CBS News có được.

Các email được Quốc hội Mỹ công bố tuần trước cho thấy ông Summers, cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ, đã liên lạc với ông Epstein cho đến ngày trước khi ông Epstein bị bắt năm 2019 vì tội mua bán người cho mục đích tình dục đối với trẻ vị thành niên.

Vào ngày 18/11, các nghị sĩ Hạ viện dự kiến sẽ bỏ phiếu về việc công khai toàn bộ hồ sơ liên quan đến nhà tài phiệt ấu dâm đã qua đời này.

Động thái này diễn ra sau khi Bộ Tư pháp Mỹ thông báo sẽ điều tra “mức độ liên quan và mối quan hệ” của ông Epstein với cựu Tổng thống Bill Clinton, nhân vật cũng là bạn của ông Epstein, cùng với một số chính trị gia nổi bật khác thuộc đảng Dân chủ.

Quyết định của Bộ Tư pháp Mỹ được đưa ra theo yêu cầu của Tổng thống Donald Trump. Ông Trump cũng đề nghị điều tra cả ông Summers, nhà sáng lập LinkedIn Reid Hoffman, cùng các ngân hàng JP Morgan và Chase.

Ông Trump cũng được nhắc đến trong các email, nhưng điều này không ám chỉ ông có hành vi sai trái nào.

“Epstein là một người Dân chủ, và đó là vấn đề của Dân chủ, không phải vấn đề của Cộng hòa!” – ông Trump viết trên mạng xã hội.

 “Họ đều biết về ông ta, đừng lãng phí thời gian với Trump. Tôi còn phải điều hành một quốc gia!

Cựu Tổng thống Clinton đã kiên quyết phủ nhận rằng ông không biết gì về các tội ác của ông Epstein.

Ông Summers từng giữ chức Bộ trưởng Tài chính dưới thời Tổng thống Clinton và Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia dưới thời cựu Tổng thống Barack Obama.

Ông cũng là Chủ tịch Đại học Harvard từ năm 2001 đến 2006 và hiện đang là giáo sư tại trường này.

Trong tuyên bố đưa ra vào tối 17/11, cựu Chủ tịch Đại học Harvard cho biết mình muốn “xây dựng lại niềm tin và hàn gắn các mối quan hệ với những người gần gũi nhất với tôi.”

“Trong khi tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ giảng dạy của mình, tôi sẽ rút khỏi các hoạt động công, là một phần trong nỗ lực lớn hơn của mình,” ông nói.

Trung tâm Tiến bộ Mỹ, một tổ chức nghiên cứu tự do tại Washington, cơ quan mà ông Summers từng là nghiên cứu viên cao cấp, thông báo trên trang web hôm 17/11 rằng ông không còn là thành viên trung tâm này nữa.

Ông Summers vẫn còn tên trong danh sách thành viên Hội đồng quản trị của OpenAI, công ty phát triển ChatGPT, tổ chức mà ông gia nhập vào năm 2023 sau một nỗ lực bất thành nhằm lật đổ Giám đốc điều hành Sam Altman.

BBC đã liên hệ với OpenAI và một đại diện của ông Summers để hỏi liệu ông có tiếp tục giữ vai trò giám đốc tại công ty hay không.

Các email được Ủy ban Giám sát Hạ viện Mỹ công bố vào tuần trước cho thấy rằng ông Summers và ông Epstein thường xuyên gặp nhau ăn tối, trong đó tỷ phú Epstein thường tìm cách kết nối ông Summers với các nhân vật tiếng tăm trên thế giới.

Đã có lúc, vào tháng 7 năm 2018, ông Epstein đề xuất một cuộc gặp với “chủ tịch Liên Hợp Quốc [nguyên văn sai chính tả], một nhân vật thú vị dành cho ông”.

Trong một email riêng biệt ngay sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ lần đầu tiên của ông Trump vào năm 2016, ông Summers đã nói với nhà tài phiệt Epstein rằng “đừng tốn bất kỳ công sức nào vào bất cứ chuyện gì liên quan đến tôi với Trump.”

Do “cách tiếp cận xung đột lợi ích” của ông Trump, sự “gần gũi với Putin” và “phản ứng vô tâm” trước cái chết của lãnh đạo Cuba Fidel Castro, Summers nói rằng ông “tốt nhất là nên cách xa một triệu dặm”.

Một đại diện của ông Summers trước đó đã nói với truyền thông Mỹ rằng ông “vô cùng hối tiếc vì đã liên lạc với Epstein sau khi ông này bị kết án vào năm 2008 vì tội môi giới mại dâm trẻ em.”

Các email này bao gồm nhiều nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn. Một cuộc rà soát của The Wall Street Journal cho thấy ông Trump xuất hiện trong hơn 1.600 trên tổng số 2.324 chuỗi email.

Ông Trump là bạn của ông Epstein nhiều năm, nhưng tổng thống Mỹ cho biết họ đã cơm không lành, canh không ngọt từ đầu những năm 2000, hai năm trước khi nhà tài phiệt bị bắt lần đầu.

Ông Trump liên tục phủ nhận mọi hành vi sai trái liên quan đến vị tỷ phú ấu dâm này.

Mặc dù tên ông Trump được nhắc đến trong một số tin nhắn được công bố tuần trước, nhưng ông không phải là người gửi hay nhận các tin nhắn đó.


 

TÒNG THUỘC – Lm. Minh Anh Tgp. Huế

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

“Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi!”; “Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Bài đọc Zacharia được chọn cho lễ Mẹ Dâng Mình nêu bật mối quan hệ mật thiết giữa Israel và Thiên Chúa: Ngài sẽ cư ngụ giữa dân thánh, và họ ‘tòng thuộc’ vào Ngài.

Thiếu nữ Sion trong Zacharia không chỉ là Israel, mà còn là hình ảnh của Đức Maria, người được tuyển chọn cách tuyệt đối. Như Israel, Maria ‘ở cùng’ Thiên Chúa; như Ngài ‘ở giữa’ dân, Thiên Chúa ở trong Mẹ. “Mẹ được xác định là Thiếu nữ Sion, là Israel đích thực, nơi Cựu và Tân Ước hoà làm một. Cũng là hiện thân của Israel mới, là nơi cư ngụ chân thật nhất của Đức Chúa!” – Louis‑Marie Montfort. Và để cảm nhận hồng ân “ở giữa, ở cùng” này, Zacharia mời gọi, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Tin Mừng hôm nay cũng nhấn mạnh ‘sự lặng thinh và chìm sâu’ này. Khi Mẹ Maria và anh em Chúa Giêsu tìm đến, Ngài thốt ra những lời gây sốc, “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nghe dường như cứng cỏi, nhưng thực ra Ngài muốn lời này được nghiền ngẫm. Chỉ tay vào các môn đệ, Ngài giải thích, “Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”. Qua đó, Ngài tiết lộ, quan hệ huyết thống quan trọng, nhưng ‘tòng thuộc’ vào Thiên Chúa còn quan trọng hơn. Một Maria sống Lời Chúa trở nên mẹ Ngài ‘nhiều hơn’ một Maria máu mủ; Mẹ hiểu và vui với điều đó. Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”. “Có lẽ Maria cuối cùng cũng phải nói ‘Xin vâng’ với toàn bộ số phận của Con Mẹ, vì Mẹ đã vui tươi ưng thuận ngay từ đầu định mệnh ấy!” – Von Balthasar.

Một hình ảnh có thể giúp chúng ta cảm nhận chiều sâu này. Một người mẹ có thói quen rất lạ. Mỗi khi con trai bất ổn, cô dắt nó vào rừng, đặt lên tảng đá, bảo nó nhắm mắt. Rồi cô thổi sáo, từ khúc trầm buồn đến réo rắt, cho đến khi con mỉm cười mới ra về. Đây là cách chìm sâu vào trong, tìm lại an bình. ‘Rừng’ tượng trưng cho Thánh Thể; ‘sáo’ tượng trưng cho Lời Chúa – nơi chúng ta lặng thinh, tìm lại hướng đi mỗi khi đời sống rối ren.

Anh Chị em,

Gioan Phaolô II gọi Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Chúng ta có sẵn lòng để Mẹ dẫn vào ‘rừng’ mỗi ngày để chìm sâu trong Thánh Thể Giêsu, thay vì chạy tìm những câu trả lời nơi đâu khác? Chúng ta có để cho ‘sáo Lời Chúa’ ngân nga cho đến khi có thể mỉm cười? Cứ vào ‘rừng’, và ở đó, chúng ta học chờ đợi thánh ý Chúa như Mẹ, lắng nghe Thánh Thần nói qua Lời Chúa như Mẹ, và đặt câu hỏi quan trọng, “Con thuộc về ai?”; “Con có ‘tòng thuộc’ vào Đấng đã dựng nên con, cho con tất cả những gì con có, con là?”. “Con không thể tách Maria ra khỏi Đức Giêsu. Kính mừng, Lạy Thân Thể sinh ra từ Mẹ. Kính mừng Maria, bình minh của Thánh Thể!” – Maria Giuseppa Fiasella.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, dạy con vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, hầu con có thể chìm vào ‘vực Giêsu’; nhờ đó, con không lệ thuộc vào điều gì hay ai khác – ngoài Chúa!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

**************************************

Lời Chúa lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thờ, 21/11, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên

Đức Giê-su giơ tay chỉ các môn đệ và nói : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 12,46-50

46 Khi ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”


 

NGƯỜI THẦY

Một ông cụ đang ngồi hóng nắng trong công viên, chợt có một người đàn ông trung niên đến chào và hỏi:

– “Thưa thầy, thầy nhớ em không?”

– Ông cụ nhìn lên người đàn ông trước mặt, trả lời “Thưa không.”Song ông cũng lịch sự hỏi lại, “Anh giờ đang làm gì?”

– “Giờ em cũng là thầy giáo ạ!”

– “Ồ thế à? Mà tại sao anh lại chọn nghề giống như tôi?”

– “Dạ thưa, vì thầy là người đã khiến em chọn con đường này.” Rồi anh ta kể cho người thầy cũ đầu đuôi câu chuyện:

Một hôm nọ, anh bạn cùng bàn mang ra khoe một chiếc đồng hồ thật đẹp. Em chiếp trong bụng. Đợi lúc anh ta lơ đễnh em thò tay vào túi bạn mình và ăn cắp chiếc đồng hồ. Sau khi phát hiện bị mất đồng hồ, bạn em lên mách với thầy.

Thầy nói với cả lớp rằng có người vừa mất chiếc đồng hồ, nếu có ai lấy nhầm thì hãy trả lại. Không một ai giơ tay lên, và dĩ nhiên em cũng không nói gì cả. Thấy vậy, thầy bèn đóng cửa phòng lại và bắt mọi người đứng thành hình tròn rồi nói:

“Tôi sẽ lục túi tất cả mọi người để tìm chiếc đồng hồ, nhưng với điều kiện các em phải nhắm mắt lại khi tôi làm chuyện này.”

Cả lớp làm y theo lời. Thầy soát túi từng người, và sau khi tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi em thầy vẫn tiếp tục soát hết những trò còn lại. Xong thầy bảo mọi người mở mắt ra vì đã tìm được chiếc đồng hồ. Thầy không hề tiết lộ em là kẻ cắp, mà cũng không kể lại câu chuyện này với bất cứ ai.

Hôm đó thầy đã cứu danh dự em. Thầy không nói với em câu nào, không kéo em ra riêng để rầy la hoặc giảng luân lý. Hôm đó là ngày em cảm thấy xấu hổ nhất trong đời, và cũng là ngày em thề sẽ không bao giờ ăn cắp hay trở thành một người xấu bởi vì em nhận ra thông điệp của thầy, và hiểu được thế nào là một nhà giáo đúng nghĩa. Thầy có nhớ chuyện này không ạ?”

– “Tôi nhớ chứ,” ông cụ chậm rãi trả lời.

Tôi nhớ phải lục túi từng trò một. Nhưng tôi không nhớ anh, vì lúc ấy chính tôi cũng nhắm mắt..”

—————-

Bài và ảnh sưu tầm

 

Chặng Đàng Thứ Bốn- Chúa Giêsu gặp Mẹ Người – Cha Vương

Hôm nay trời lạnh, nguyện xin hơi ấm của Chúa sưởi ấm tâm hồn bạn nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 20/11/2025.  (t4-24)

Chặng Đàng Thứ Bốn- Chúa Giêsu gặp Mẹ Người

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Trích Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2:34- 35, 51).

Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

SUY NGẮM: Trên chặng Đàng Thánh Giá của Chúa Giêsu, chúng ta cũng tìm thấy Mẹ Maria, Mẹ của người. Trong đời sống công khai Mẹ đã đứng sang một bên, nhường chỗ cho dòng dõi gia đình mới của Chúa Giêsu, là gia đình của các môn đệ người. Mẹ cũng đã nghe những lời này: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? … Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12: 48-50). Giờ này đây chúng ta nhìn thấy Mẹ của Chúa Giêsu, không chỉ nơi thể lý nhưng nơi tâm hồn của Mẹ nữa. Mẹ Maria đã được nói: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người” (Lc 1:31 tt). Và Mẹ sẽ nghe từ miệng của ông Simon: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2:35). Rồi Mẹ sẽ nhớ lại những lời của các ngôn sứ, những lời như thế này: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng (Is 53:7). Giờ đây tất cả đều xảy ra. Trong tâm hồn Mẹ, Mẹ đã giữ những lời của sứ thần đã nói với Mẹ từ thưở ban đầu: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Các môn đồ bỏ chạy, còn Mẹ đã không lẫn trốn. Mẹ đứng đó, với lòng can đảm của một người Mẹ, với lòng trung thành của một người Mẹ, với đức hạnh của một người Mẹ và với một đức tin không hề nao núng trong giờ đen tối nhất: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:45). “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Đúng vậy, trong lúc này đây Chúa Giêsu biết: người sẽ tìm thấy lòng tin: trong giây phút này, đây là lúc an ủi cao độ của người.

LỜI NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria rất Thánh, Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ đã trung thành khi các môn đồ trốn chạy. Như khi Mẹ tin đến sứ điệp lạ lùng của các sứ thần, là Mẹ sẽ trở nên Mẹ của Đấng Tối Cao, rồi Mẹ cũng tin đến giờ phút nhục nhã cực độ nhất của người. Bằng cách này, trong giờ phút của Thập Tự Giá, trong giờ phút của đêm đen tối nhất của thế gian, Mẹ đã trở thành Mẹ của những người tin, Mẹ của Giáo Hội. Chúng con kêu cầu Mẹ: xin dạy cho chúng con tin, và ban cho chúng con để đức tin của chúng con sinh hoa trái trong sự phục vụ can đảm, và để đức tin của chúng con là dấu chỉ của một tình yêu sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ và cống hiến sự nâng đỡ.

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

**************************

Mẹ Đứng Đó – Phi Nguyễn ft Mai Thiên Vân 

Lễ Tạ Ơn-Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng 

Võ Thị Diệu Hằng    

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ 

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

 Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

 Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

 Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước. 

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh... 

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất  đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

 3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) LễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông

Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington  thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789. 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

 Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

 b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

 6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

 Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ) 

 8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

From: NguyenNThu