CÁC TÔNG ĐỒ ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHÚA VỀ TRỜI?- Trần Mỹ Duyệt

Legio Mariae Senatus Viet Nam

Trần Mỹ Duyệt

Trong những ngày đầu của biến cố Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Ngài. Thánh Luca ghi lại: “Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariot là kẻ phản bội” (Lk 6:12-16). Vậy “các tông đồ đã sống và chết như thế nào sau khi Chúa về trời?”

Thánh Kinh ghi lại, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm ra đi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, các Tông Đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Ngài đã căn dặn (Acts 1: 4), để nhận lãnh Thánh Thần. Và lịch sử của Giáo Hội đã khai mở sau biến cố lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1- 4).

Nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Thánh Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các ông, mặc dù chúng ta vẫn tin rằng các ông đã đi rất xa để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mk 16:15), và đã sống và đã chết như những chứng nhân cho Tin Mừng mà các ông rao giảng. Sau đây là tóm lược lịch sử truyền giáo và những cái chết của các ông, theo thứ tự danh sách các Tông Đồ đã được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại. Thêm vào danh sách đó là Phaolô (Tông Đồ Dân Ngoại) do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, và Matthias thay thế Giuđa Iscariot.

1.Simon/Phêrô – Quê ở Bethsaida gần biển Galilee.

Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta đã xây một thánh đường bao trên đó.

Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Acts 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa cùng ngày. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem ông đã tới Rôma với Máccô thư ký của ông. Máccô đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.

Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông. Phêrô cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.

Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Gal 2:11) và có thể ở Corinth (1 Cor 1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).

Ông bị hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma, nơi ông đã lãnh phúc tử đạo.

  1. Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô.

Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mk 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa Giêsu, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Ngài.

Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp. Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả ông và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ Constantinople.

Ở những tài liệu khác, cái chết của ông được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours lại cho rằng ông bị trói vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Nhưng theo Dorman Newman nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là thì khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánh đòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích ngôi mộ của ông.

Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).

  1. Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida.

Ông và em là Gioan là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của ông không rời xa tên em ông là Gioan trong Mk 1:19-20; Mt 4:21, và Lk 5:1-11. Ông là Tông Đồ đầu tiên tử đạo năm 44 AD.

Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng em đã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi hai ông, lúc cả hai đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.

Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Acts 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn: Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.

Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.

  1. Gioan – Con ông Zebedee, em của Giacôbê.

Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Lk 9:51-54), và tham vọng do mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa cho hai ông (Mk 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Jn 19:24-27).

Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.

Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin, trước đó ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.

  1. Philip – Quê làng Bethsaida.

Là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Sau này truyền giáo ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.

Philip là người thứ sáu trong số 12 Tông Đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Jn 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Jn 1:46). Ông đã được Phúc Âm nhắc đến ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Ngài muốn thử xem ông phải làm gì (Jn 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Jn 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Jn 14:8-11).

Tông Đồ Công Vụ ghi, sau khi Chúa về trời ông đã tới Samaria rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã đi gặp một người Ethiopia tại Gaza, vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8). Cũng theo Tông Đồ Công Vụ, ông có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).

  1. Bathôlômêô/ Nathanael – Người Cana, Galilee.

Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô (Nathanael) sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotamia, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.

Cũng theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô mới đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến đây, ông mang theo Phúc Âm của Mátthêu và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.

Có nhiều tài liệu khác nhau nói về cái chết của ông. Một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác lại cho rằng ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.

  1. Mátthêu/Lêvi – Con của Alphaeus.

Là con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông được Thánh sử Máccô gọi là Lêvi (Mk 2:14), trong khi đó, Phúc Âm Thánh Luca gọi ông Mátthêu thu thuế, và ở Phúc Âm của mình tên ông viết là Mátthêu. Theo tiếng Do Thái, Mátthêu có nghĩa là “quà tặng của Jehovah”.

Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.

Cũng có truyền thống cho rằng, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Heraclius cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.

  1. Thomas – Ngư phủ, người Galilee.

Ông rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.

Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ tại Bữa Tiệc Ly, ông đã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Jn 14:5). Cũng trong Tin Mừng của Thánh Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin.

Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Ngài như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.

Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Sử sách cũng ghi lại, ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, đã tử đạo trên ngọn “Đồi Lớn” gần Madras, và đã để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.

  1. Giacôbê – Con của Alphaeus.

Ông không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mk 3:14-19, Lk 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống vào buổi sáng Phục Sinh. Ông được gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.

Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Mátthêu.

Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá, sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.

  1. Simon Nhiệt Thành – Con của Clopas.

Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.

Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia, ông đã bị cưa đôi vì từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời.

Tuy nhiên nơi ông rao giảng Tin Mừng và cái chết của ông không được rõ ràng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì cho rằng ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng theo tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông truyền giáo tại Persia, và tử đạo tại Suanir. Nơi an táng của ông không được ghi lại. Sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Giuđa (Thaddaeus/Judas) được cho là đã cùng nhau đến giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.

Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông là bổn mạng những người thuộc da.

11.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê.

Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamia (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.

Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Máccô 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Còn trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.

Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotamia. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.

Trong Tân Ước, ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới” (Jn 14:22). Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.

  1. Matthias – Thay thế Giuđa Iscariot.

Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Ngài về trời (Acts 1:21-22). Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Joseph Barsabbas, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.

Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judea, rồi sau đó ở Ethiopia (miền Colchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.

Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sau đó bị chém đầu. (cf. Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.

Liên quan đến cuộc sống và cái chết của ông, theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Nhưng theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.

  1. Phaolô – Tông Đồ Dân Ngoại.

Được Chúa Giêsu gọi khi ông đang trên đường ông đến Damas bắt các Kitô hữu. Ông có tên là Saul (Saulê). Ông sinh năm c.5 AD. Tại Tarsus, Cilicia thuộc Đế Quốc Rôma, ngày nay là Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tử đạo năm c. 64/65 AD., tại Roma, Ý, trong Đế Quốc Roma. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành được xây trên nơi ông đã bị chém đầu.

Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàng đế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, việc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết trong Tân Ước.

——————————————

Tài liệu tham khảo

– Ken Curtis, Ph.D.

Church History Timeline

6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now

– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.

– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.

https://en.wikipedia.org/wiki/Paul_the_Apostle


 

 

Thi hài không hề phân hủy của Thánh Bernadette

 Joseph Vu

Thi hài không hề phân hủy của Thánh Bernadette vẫn sống động như thật trong hơn 140 năm—mà không cần bất kỳ biện pháp ướp xác nào.

Các nhà khoa học bối rối. Các tín đồ thì xúc động rơi nước mắt.

The incorrupt body of St. Bernadette has remained lifelike for over 140 years—without any embalming.

Scientists are baffled. Faithful are moved to tears.

MƯỜI BÀI HỌC THIÊNG LIÊNG TỪ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA – Lm. Ed Broom, OMV 

Lm. Ed Broom, OMV 

Chỉ cách nhau hai tuần trong Lịch Phụng Vụ, chúng ta kính nhớ hai vị thánh tuyệt vời, đầy cảm hứng và đáng mến, những người thật sự yêu thương chúng ta và cũng mong chúng ta đáp lại tình yêu của họ: thánh Têrêsa Lisieux và thánh Têrêsa Avila.

Chúng ta mừng kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ngày 1 tháng 10; còn ngày 15 tháng 10 là lễ nhớ thánh Têrêsa Avila.  Vậy điểm chung giữa hai vị thánh này là gì?  Cả hai đều là phụ nữ, đều thuộc số ít nữ Tiến sĩ Hội thánh, đều là những nhà chiêm niệm tuyệt vời, đều là những nữ tu dòng kín Cát Minh, nhưng điều quan trọng nhất là họ đều đã, đang, và sẽ mãi đến muôn đời là những hiền thê vĩ đại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta.

 Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn tri ân thánh Têrêsa Avila và nêu bật mười đóng góp vĩ đại của thánh nữ cho Giáo hội Công giáo và cho mỗi người chúng ta, như một mẫu gương về sự thánh thiện mà tất cả chúng ta đều được mời gọi noi theo.  Hãy nhớ lại những lời của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta, đã nói trong Bài giảng trên núi: “Anh em hãy nên thánh, như Cha anh em trên trời, là Đấng thánh.” (Mt 5, 48)

 Nên thánh và đạt tới một đời sống thánh thiện không phải một điều kiện phụ thuộc, một ước muốn viễn vông, càng không phải là điều chỉ riêng một số ít được mời gọi, mà là điều dành cho tất cả chúng ta.  Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đặt ra cho ta một thách thức với những lời đánh động này: “Nên thánh không phải là đặc ân của thiểu số, mà là bổn phận của tất cả mọi người.”

 Bây giờ, hãy cùng hướng nhìn lên thánh Têrêsa Avila, người sẽ dẫn dắt ta đến với Đức Giêsu, Đấng là Chúa, là Đấng Cứu Thế, và là Người Bạn trung tín của chúng ta.

 1.Cầu nguyện

Một trong những điểm nổi bật về các mức độ thiêng liêng sâu xa của thánh Têrêsa Avila là tầm quan trọng của việc cầu nguyện.  Dù gặp không ít khó khăn trong nhiều năm dài, thánh nữ vẫn dạy ta một chân lý thiêng liêng căn bản nhưng không thể thiếu: Hãy kiên trì trong việc cầu nguyện!  Hãy suy ngẫm và ghi nhớ những lời bất hủ đầy khôn ngoan này của thánh nữ: “Chúng ta phải có một quyết tâm vững chắc để không bao giờ từ bỏ việc cầu nguyện.”

 Đức Giêsu đã dạy chúng ta chân lý tối quan trọng này qua dụ ngôn bà góa kiên trì và quan tòa bất chính.  Nhờ lòng kiên trì và bền chí, người đàn bà góa cuối cùng cũng nhận được sự giúp đỡ từ vị quan tòa vô tâm lạnh lùng (Lc 18, 1-8).  Thánh Têrêsa nhấn mạnh rằng chúng ta không bao giờ được từ bỏ việc cầu nguyện.  Nếu bạn cần một phép ví von: không khí cần thiết cho phổi thế nào thì cầu nguyện cũng cần thiết cho linh hồn như thế.  Một lá phổi khỏe mạnh cần nguồn khí trong lành và liên tục; một linh hồn khỏe mạnh cũng cần hít thở không ngừng bằng việc cầu nguyện liên lỉ— nguồn ôxy của linh hồn! 

  1. Định nghĩa việc cầu nguyện

Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta một lời khuyên đơn giản nhưng vô cùng chắc chắn: hãy định nghĩa một chủ đề thật rõ ràng trước khi nói về điều đó.  Bằng cách này, ta có thể tránh được nhiều hiểu lầm.  Thánh Têrêsa Avila đã đưa ra một trong những định nghĩa kinh điển về cầu nguyện trong lịch sử Giáo hội: “Cầu nguyện không gì khác hơn là dành thời gian dài lâu một mình bên Đấng mà tôi biết là Ngài yêu tôi.”

Một đúc kết ngắn gọn?  Hai người bạn yêu thương nhau!  Chính Đức Giêsu đã gọi các tông đồ là bạn hữu – và chính chúng ta cũng được mời gọi để nên bạn hữu với Thầy Giêsu! 

  1. Tình yêu với Chúa Giêsu 

Thánh Têrêsa cho chúng ta một gợi ý để thăng tiến trong đời sống cầu nguyện.  Vị nữ Tiến sĩ Hội thánh này từng nói rằng ngài nhận được rất nhiều ân sủng khi suy ngẫm về nhân tính của Chúa Giêsu.  Dành thời gian cùng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, và bước vào cuộc trò chuyện với Người là con đường vững bền để thăng tiến trong cầu nguyện.  Hãy thử xem!  Trong tập sách Linh Thao, thánh Inhaxiô Loyola nhấn mạng việc cầu xin ân sủng này: “Ơn hiểu biết sâu sắc về Chúa Giêsu để chúng ta yêu Ngài cách nồng nhiệt hơn và bước theo Ngài cách gần gũi hơn.” 

  1. Yêu mến Chúa Giêsu trong những đau khổ của Người

Dường như giữa các vị thánh có một mẫu số chung – lời mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu qua cuộc thương khó đau khổ của Người – thánh Piô Năm Dấu, thánh nữ Catarina thành Siêna, thánh nữ Faustina và thánh nữ Têrêsa Avila.  Phần thánh Têrêsa, thánh nữ đã có một trải nghiệm thần bí về Chúa Giêsu Chịu Khổ Nạn (Ecce Homo: này là Người); ngài đã nhìn Đức Giêsu đầu đội mạo gai, và điều này đã thúc bách thánh nữ yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. 

  1. Chúa Thánh Thần: Vị Thánh Sư trong cầu nguyện

Có một lần, thánh nữ gặp khó khăn trong việc cầu nguyện và đã tìm đến một linh mục Dòng Tên để xin lời khuyên về cách vượt qua khó khăn này.  Lời khuyên của vị linh mục rất đơn giản và đi thẳng vào trọng tâm, nhưng nó đã làm thay đổi đời sống của thánh nữ!  Cha đã nhấn mạng việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.  Kể từ đó, khi nghe theo lời khuyên này mà cậy dựa nơi Chúa Thánh Thần, đời sống cầu nguyện của thánh Têrêsa đã cải thiện đáng kể.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô cũng nhắc lại điều tương tự: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.” (Rm 8, 26).  Hãy để chúng ta được dẫn dắt bởi Thầy Dạy tốt nhất trong các thầy, Bậc Thầy nội tâm của việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần. 

  1. Hướng dẫn thiêng liêng

Để thăng tiến không ngừng trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cần một hình thức hướng dẫn thiêng liêng nào đó.  Chúng ta ai cũng từng kinh nghiệm về sự mù tối trong đời sống thiêng liêng.  Ma quỷ có thể trá hình hoặc giả trang thành thiên thần ánh sáng.  Và ta càng tiến xa trên con đường thiêng liêng, những chiêu trò và cám dỗ của ma quỷ càng tinh vi – “như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8-9). 

Trong suốt cuộc đời mình, thánh nữ Têrêsa Avila đã tìm đến sự hướng dẫn từ nhiều vị linh hướng, và một số trong đó hiện nay đã được phong thánh: thánh Gioan Thánh Giá (dòng Cát Minh), thánh Phanxicô Borgia (Dòng Tên), thánh Phêrô thành Alcantara (dòng Phan Sinh), và cuối cùng là cha Jerome Gracian – một học giả và nhà thần học nổi tiếng dòng Đa Minh.  Đúng là không phải ai trong chúng ta cũng có ba vị thánh và một thần học gia dòng Đa Minh làm người hướng dẫn, nhưng chúng ta có thể và phải tìm một hình thức hướng dẫn thiêng liêng định kỳ nào đó.  Thánh Gioan Thánh Giá đã nói rất thẳng thắn: “Ai tự mình làm người hướng dẫn thì sẽ có một kẻ ngốc làm môn đệ.” Rất chuẩn! 

  1. Hoán cải và Canh tân

 Một dấu ấn nổi bật trong cuộc đời Thánh Têrêsa Avila nằm ở toàn bộ phạm trù hoán cải và canh tân.  Cùng với Thánh Gioan Thánh Giá, ngài là khí cụ chính mà Thiên Chúa chọn để cải tổ dòng Cát Minh.  Tuy nhiên, thánh Têrêsa luôn ý thức rõ một điều: để hoán cải người khác, ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình trước – và đó cũng là điều thánh nữ đã làm trong suốt cuộc đời trần thế của mình.  Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi rao giảng đã là: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

 Nguyện cho chúng ta luôn không ngừng hoán cải cách sâu sắc hơn nữa qua lời cầu thay nguyện giúp của thánh nữ Têrêsa Avila. 

  1. Những kiệt tác thiêng liêng – Các tác phẩm của thánh nữ

Chắc chắn, một trong những đóng góp lớn nhất của thánh Têrêsa Avila cho Giáo hội cũng như cho toàn thế giới chính là những tác phẩm, hay những kiệt tác thiêng liêng của ngài.  Một trong những chủ đề chính yếu mà thánh nữ nhấn mạnh là tầm quan trọng của cầu nguyện, và việc nỗ lực tiến sâu xa hơn trong cầu nguyện cho đến khi hồn ta đạt tới sự hiệp nhất huyền nhiệm với Chúa Giêsu, Đấng Tình Quân Thiên Quốc.  

Ai thật sự nghiêm túc với đời sống cầu nguyện của mình đều nên biết đến những tác phẩm của thánh Têrêsa và dành thời gian đọc những trang viết đầy tràn ơn Chúa của thánh nữ.  Những tác phẩm kinh điển của ngài là gì?  Đây là một số trong số đó: “Tự Thuật” (Her life), “Đường Hoàn Thiện” (The Way of Perfection), “Lâu Đài Nội Tâm” (The Interior Castle), “Các Nền Tảng” (Foundations).  Ngoài những sách này, thánh nữ còn để lại nhiều bức thư đầy truyền cảm.  Bạn muốn trở thành một vị thánh?  Hãy đọc và tận hưởng nguồn ơn thiêng từ những trang viết của các thánh, nhất là các thánh Tiến sĩ Hội thánh! 

  1. Thập giá – con đường vào Nước Trời

Chúa Giêsu từng nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”  Một điểm chung khác trong cuộc đời của các thánh là sự hiện diện của thập giá.  Thánh Luy Maria Montfort thường chúc lành bạn hữu mình như thế này: “Nguyện xin Chúa chúc lành cho anh và ban cho anh nhiều thập giá nhỏ!” 

Thánh nữ Têrêsa đã sống trọn đời mình với người bạn chí thiết là thập giá của Thầy Giêsu.  Sức khỏe của thánh nữ luôn rất yếu, và ngài từng suýt chết khi còn rất trẻ.  Hơn nữa, để thực hiện việc cải tổ dòng Cát Minh, thánh nữ còn chịu đựng nhiều chống đối và bách hại từ các nữ tu khác trong nhà dòng, những người ưa thích một đời sống dễ dãi hơn, từ các linh mục (dòng Cát Minh), và từ các đấng bậc khác trong Giáo Hội.  Thay vì nhụt chí hay nản lòng, thánh nữ càng hân hoan tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa – dù sao đi nữa, đây chính là công trình do tay Người thực hiện. 

  1. Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse

Trong suốt đời tu trì của mình, thánh Têrêsa Avila đã luôn hết lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria – một lòng sùng kính thường thấy ở các vị thánh, và hy vọng cả nơi bạn cũng vậy!  Tước hiệu Đức Mẹ mà thánh nữ sùng kính cách đặc biệt là Đức Mẹ Núi Cát Minh.  Khi tỏ lòng yêu mến Mẹ, đừng ai quên mang Áo Đức Bà Camêlô.  Đây sẽ là dấu chỉ bề ngoài của các con cho việc tận hiến dành cho Đức Maria. 

Hơn nữa, thánh Têrêsa Avila còn lấy lòng con thảo mà kính yêu Thánh Cả Giuse.  Thánh nữ tin rằng sự bình phục sau một cơn bệnh hiểm nghèo gần như đã kết thúc cuộc đời mình là nhờ lời cầu bầu quyền năng của Thánh Giuse.  Ngài cũng đặt tên cho tất cả các tu viện mới thành lập của dòng là San Jose – Thánh Giuse! 

Kết lại, nguyện xin cho vị nữ Tiến sĩ Hội thánh – Tiến sĩ của cầu nguyện – thánh Têrêsa Avila luôn là nguồn khích lệ cho bạn trên đường hành hương của linh hồn tiến về cõi Thiên Quốc.  Nguyện xin thánh nữ nâng đỡ để ta biết cầu nguyện nhiều và sâu sắc hơn, đạt tới sự hoán cải con tim sâu xa hơn, và đến cùng vẫn luôn yêu mến Chúa Giêsu là trọng tâm và là nguồn sống của đời ta!

 Lm. Ed Broom, OMV

Chuyển ngữ: Nam Anh

Từ: https://catholicexchange.com

Nguồn: dongten.net

Người Mỹ lo lắng về bảo hiểm y tế hơn khi chính phủ đóng cửa

Ba’o Nguoi-Viet

October 12, 2025

Thiện Lê/Người Việt

SAN FRANCISCO, California (NV) – Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đóng cửa vào ngày 1 Tháng Mười đang gây ra nhiều vấn đề, trong đó đáng chú ý nhất là giá cả của bảo hiểm y tế. Đây cũng là chủ đề của buổi hội thảo do Truyền Thông Cộng Đồng Mỹ (ACoM) tổ chức hôm Thứ Sáu, 10 Tháng Mười.

Người Mỹ đang gặp nhiều khó khăn về bảo hiểm y tế. (Hình minh họa: Karen Bleier/AFP via Getty Images)

Trong Tháng Mười, hàng triệu người Mỹ phải gặp khó khăn vì giá bảo hiểm gần như tăng gấp đôi vì tín dụng thuế từ đạo luật Affordable Care Act sắp hết hạn. Không chỉ vậy, bốn triệu người còn mất bảo hiểm.

Trong một khảo sát, 70% người Mỹ cho biết họ không thể mua được bảo hiểm giá cao hơn được mà không ảnh hưởng đến nhiều chi phí khác cho gia đình. Trong khi đó, những người có thu nhập thấp sắp mất bảo hiểm miễn phí.

Những cắt giảm về y tế này do một số luật lệ và giới hạn mới về Medicaid tạo ra, có thể làm đến 12 triệu người Mỹ mất bảo hiểm y tế.

Diễn giả đầu tiên là ông Anthony Wright, tổng giám đốc Families USA, cho biết Hoa Kỳ bỏ nhiều tiền cho y tế hơn mọi quốc gia công nghiệp khác, một phần là vì không có hệ thống y tế thống nhất.

Về việc tăng giá bảo hiểm, ông cho hay hàng triệu người sẽ đối mặt với vấn đề đó vào cuối năm nay, có giá tăng trung bình 18%, nhưng vì không có tín dụng thuế nên họ phải trả gấp đôi và thậm chí gấp ba lần. Điều đó có thể làm khoảng bốn triệu người mất bảo hiểm, trong đó là 1.5 người mất bảo hiểm chỉ vì tăng giá cho dù tín dụng thuế được gia hạn.

Bảo hiểm sẽ ngày càng khó mua hơn nếu không có tín dụng thuế. (Hình minh họa: Robyn Beck/AFP via Getty Images)

Theo ông Wright, đó là quyết định của Quốc Hội, chứ không phải là chuyện sớm muộn cũng xảy ra. Điều đó sẽ làm những khu vực hẻo lánh gặp nhiều khó khăn vì họ đã phải bỏ nhiều tiền hơn cho bảo hiểm, và mất tín dụng thuế y tế sẽ nhiều bệnh nhân không có điều kiện đi khám nữa và có nhiều người phải khám bệnh không được trả tiền, dẫn đến các phòng khám hay bệnh viện ở vùng hẻo lánh phải đóng cửa hoặc giảm dịch vụ.

Diễn giả thứ hai là bà Jenny Sullivan, giám đốc về bảo hiểm y tế của Beyond the Basics, cho biết những người có nguy cơ mất bảo hiểm cao nhất là 93% những người mua bảo hiểm từ các thị trường; 90% người có thu nhập thấp hơn mức nghèo khó liên bang đến bốn lần; gần một nửa người có thu nhập thấp gấp đôi mức nghèo khó liên bang; 25% chủ doanh nghiệp; và 25% thanh niên.

Không chỉ vậy, 25% người trong độ tuổi 55 đến 64 cũng gặp nguy cơ, và một điều cần chú ý là hơn một nửa người mua bảo hiểm là người thiểu số.

Theo bà, việc giữ bảo hiểm miễn phí cho cư dân rất quan trọng vì có đến 400,000 người không mua được bảo hiểm nếu không có bảo hiểm miễn phí, nhất là đối với những người tại các tiểu bang mà Medicaid không mở rộng. Những chương trình bảo hiểm y tế giảm số người thu nhập thấp không có bảo hiểm đáng kể trong nhiều năm.

Bà Sullivan cho hay chính phủ phải hành động khẩn cấp vì hàng triệu người sẽ mất bảo hiểm, và đây là một vấn đề mà ai cũng thấy từ năm 2022, đã có giải pháp và chỉ cần Quốc Hội giải quyết.

Nhiều người có thu nhập thấp có thể mất bảo hiểm. (Hình minh họa: Justin Sullivan/Getty Images)

Người phát biểu cuối cùng là bà Ashley Kirzinger, cho biết bảo hiểm y tế là một trong những lo lắng tài chánh lớn nhất của người Mỹ, cao hơn cả tiền thuê nhà, tiền nợ nhà, tiền điện nước và tiền cho thực phẩm.

Theo bà, khoảng 50% người lớn ở Hoa Kỳ cho biết họ khó mua được bảo hiểm; khoảng 25% gặp khó khăn khi trả tiền bảo hiểm, kể cả khi có thêm tín dụng thuế. Thêm vào đó là vấn đề về hiểu biết của công chúng, vì chỉ có 40% cư dân biết về việc tín dụng thuế cho Medicaid sắp hết hạn.

Hiện nay, có 70% người Mỹ tự mua bảo hiểm cho biết sẽ không thể mua được nữa nếu tăng giá gấp đối, có 40% cho biết họ sẵn sàng chịu cảnh không có bảo hiểm. Những người không có bảo hiểm thường gặp nhiều khó khăn khi tìm các dịch vụ y tế, thường không muốn tìm các dịch vụ phòng bệnh, và phải chịu nhiều căng thẳng hơn khi phải đối mặt với chi phí của những trường hợp khẩn cấp về y tế. [kn]

Liên lạc tác giả: le.thien@nguoi-viet.com


 

TRÓI BUỘC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thật là ngốc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!

Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong – như Ngài nói – là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” – Phanxicô.

Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” – Søren Kierkegaard.

Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” – và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu – “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” – bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” – C. S. Lewis.

Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp – Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!

Anh Chị em,

“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” – Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” – Thánh Vịnh đáp ca!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy bố thí thì mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,37-41

37 Khi ấy, Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Này, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Thật là ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”


 

SỰ THA THỨ-Truyen ngan HAY

Từ một câu chuyện có thật:

Tại một quán ăn ở San Jose, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

 Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rơi xuống chiếc cặp của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng, tôi muốn nhảy dựng lên, nộ khí xung thiên. Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì thì đứa con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”.

 Cô hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”.

 Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch thôi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu.”

 Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn.

 Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

 Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

 Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, lúc hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự…

 Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm và để huấn luyện tính tự lập cho nó, chồng tôi quyết định không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, anh ấy muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn. Khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước. Những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

 Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

 Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

 Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.”… giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

 “Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: “Em gái, em không sao chứ?”

 Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: “Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!”

 Đối với con, ngay đến cả nửa câu trách móc cũng không có!”Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận, làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ. Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”. Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, rồi từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

 Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

 Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm. Tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

 Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết:

 “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thân thiết của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

 Các bạn thân mến của tôi,

 Chúng ta cảm động khi được người khác tha thứ. Điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình. Hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta, sẽ là mỗi ngày hạnh phúc và may mắn!

 THA THỨ, không dễ lắm đâu, nhưng hãy cố gắng bạn nhé!

 Nguồn: Hito Nakazomo, Trinh DinhDung

 From: Thunnguyen


 

Trời là gì? – Cha Vương

Một ngày an lành trong niềm hy vọng vào Chúa Cứu Thế nhân hậu nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/10/2025.  t5-22

GIÁO LÝ: Trời là gì? Trời là thời gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách nữa giữa Thiên Chúa và lình hồn đã yêu mến và tìm kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường. (YouCat, số 158)

SUY NIỆM: Đôi bạn trẻ nhìn nhau với đôi mắt tình tứ, một em bé đang bú mẹ tìm đến cái nhìn của mẹ nó, như muốn giữ gìn mỗi nụ cười đó mãi mãi…. đó là những thí dụ có thể cho ta một ý niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như thời gian độc nhất của tình yêu kéo dài đến vô tận. (YouCat, số 158 t.t.)

❦ Một người có thể mất hết của cải đời này trái với ý muốn của mình, nhưng không bao giờ họ mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ý muốn của mình. (Thánh Augustinô)

LẮNG NGHE: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. (1 Cr 13:12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là con người thì có lẽ ai cũng có những lần lo âu xao xuyến, nhất là khi con đang sống trong một thế giới bất ổn, xin Chúa củng cố niềm tin cho con để con luôn xác tín vào lời Chúa dạy: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)

THỰC HÀNH: Để hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, bạn cần phải sạch tội. Tội nào đang làm bạn xa lìa Chúa? Hãy cố gắng tránh xa dịp tội hôm nay nhé.

From Do Dzung

*********************

Xin Đưa Về Quê Trời – Paul Nguyen, Vincent Cao, R. Zaragoza

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

FATIMA NĂM 1917

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

LM Nguyễn Hữu Thy

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima, các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?  Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi).

Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác, hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó.

Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917, sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người.

Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09.1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay.  Vì thế, đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người đã tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó.  Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima,” hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo” kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.  Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó 

Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.  Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa.  Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật.  (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều.  Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bỗng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.  Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy.  Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời.  Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi, nhưng không làm lóa mắt.  (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây.  Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời.  Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh.  Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao.  Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó, bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh.  Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ.  (…) Tất cả những hiện tượng này, tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả.  Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”[1]

Phải chăng đám đông bị thôi miên?

Hàng chục ngàn người đều đổ nhìn về phía mặt trời đang quay lộn kỳ lạ.  Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi.  Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin.”  Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54  km.  Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau: “Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.  Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả.  Mặt trời vào lúc bấy giờ trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bỗng chốc nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa.  Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận.  Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.  Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc,” cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê.  Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời.  Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”[2]

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:

  1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
  2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
  3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
  4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn, bỗng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bỗng chốc khô ráo hoàn toàn.  Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay, là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: “Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.”  Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó.  Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau.  Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào.  Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x.  Mt 24,37-44).  Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: “Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!” (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây, không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước.  Đó là:

  • Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;
  • Hằng ngày hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;
  • Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.

Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

LM Nguyễn Hữu Thy

Nguồn: vietboston.com

 From: suyniemhangngay1& ThuNNguyen


 

Lại nói về sự tha thứ – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đề tài này rất nhiều người đã viết. Tôi cũng có viết đề tài này rồi, tuy nhiên tôi cũng xin thêm vài ý nghĩ về sự tha thứ.

Làm sao tha thứ cho người đã hãm hại mình, đã vu khống, nói xấu mình, có khi còn giết chết mình và gia đình mình. Tha thứ không phải là việc dễ dàng, sự tha thứ nó vượt quá khả năng của con người bình thường. Có thể không nhắc tới, không liên hệ, nhưng nói đến tha thứ kẻ đã gây quá nhiều đau khổ cho mình, cho gia đình mình thì thật là quá khó khăn. Tuy nhiên, tôi xin nêu vài trường hợp đã xảy ra để giúp cho ta suy nghĩ và học hỏi.

Lời nói cuối cùng của Chúa Giê-Su:

Lời cầu xin cho những kẻ hành hạ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lu-ca 23:34). Đây là một trong những lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá, thể hiện lòng thương xót bao la ngay cả đối với những kẻ làm Ngài đau khổ.

 1)   Phó tế Stêphanô.

Phó tế Stephanô là người tử đạo đầu tiên tại Giêrusalem năm 35.

Stêphanô đã tranh luận nhiều lần với người Do Thái cứng lòng, Ngài đã nói lên những lời khôn ngoan, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, khiến đối phương phải im tiếng. Vì thế họ tức giận rồi vu khống cho ngài tội phạm thượng, chống lại Môisen và Thiên Chúa.

Họ đã dẫn Ngài ra ngoài thành rồi ném đá cho đến chết. Nhưng trước khi tắt hơi, thánh Stêphanô còn ngước mắt lên trời xin Chúa tha tội cho những người hành hạ mình. 

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-26-12-thanh-stephanotu-dao-tien-khoi-43756

 2)   Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II

Vào ngày 13 tháng 05 năm 1981 Đức Giáo Hoàng đã bị một người đàn ông Hồi giáo, gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca, bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh quãng trường thánh Phêrô

Viên đạn xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, dù Ngài bị mất nhiều máu nhưng vẫn được cứu sống kịp thời.

Về phần mình Ngài lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Đức Mẹ Maria.

Sau khi hồi phục, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ali Agca: “Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?” Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ali Agca.

 Năm 1983, Ngài đến thăm Agca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ngài còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Agca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Agca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Agca năm 1987.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II

 3)   Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Đức Hồng Y bị giam 13 năm, 9 năm biệt giam, bị bỏ đói, tưởng chết trong trại kiên giam.  Nhưng Đức Hồng Y không nhắc đến giai đoạn bị đày đoạ, đau khổ tột cùng đó và Ngài vẫn đi rao giảng về yêu thương và tha thứ.

Cáo thỉnh viên Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên phụ trách tiến trình phong thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nêu nhận định của ông về cố Hồng y:[112]

Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất.

Linh mục Trần Đức Anh, Giám đốc Ban Việt ngữ Đài phát thanh Vatican, đưa ra nhận định:[106]

Bản thân tôi, tôi có dịp được tiếp xúc với Đức Hồng y rất nhiều, và tôi rất khâm phục Ngài ở chỗ không bao giờ Ngài than trách, nói xấu hoặc phê bình những người đã hại Ngài, những người đã tạo đau khổ cho Ngài trong quá khứ. Đó là điều mà tôi rất cảm kích.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Phanxic%C3%B4_Xavi%C3%AA_Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thu%E1%BA%ADn

 *******

Đức Hồng Y viết: “

Có một hôm mấy anh gác hỏi tôi:

–          Ông có thương chúng tôi không?

–          Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

–          Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả.?

–          Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

–          Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

–          Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

–          Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

–          Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.”

(Sách Sách” Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” trang 76)

  4)Thánh nữ Maria Goretti, đồng trinh, tử đạo

Một di sản đạo đức quý giá khác mà thánh Maria Goretti để lại cho hậu thế đó là lòng từ bi và sự tha thứ. Sự tha thứ mà thánh Maria Goretti dành cho kẻ đã hạ sát mình đã làm trổ sinh hoa trái là sự hoán cải của Alessandro Serenelli, kẻ đã hãm hại và tước đi mạng sống của thánh nữ. Alessandro bị tuyên án 30 năm tù khổ sai lưu đày vì tội cố sát. Sau khi thụ án, anh đã tìm đến nhà Goretti gặp bà Assunta, mẹ của thánh nữ để xin được tha thứ. Anh cũng đã có mặt tại quảng trường thánh Phê-rô tham dự lễ phong thánh của Maria Teresa Goretti cùng với bà Assunta.

Sau đó, anh đến xin làm lao công trong một tu viện dòng Phanxico: để sống cuộc đời hoán cải và đền tội. Có thể thấy rằng, hai phép lạ đã xảy ra khi sự tha thứ làm nảy sinh ơn hoán cải. Khả năng tha thứ xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa và sự quảng đại của một tâm hồn thánh thiện, liêm chính đã thúc đẩy Maria Goretti nói những lời này: ‘Tôi muốn kẻ giết tôi cũng được như tôi trên Thiên Ðàng’.

https://vntaiwan.catholic.org.tw/thuongde/thuongde200.htm

Kết:

Trong suốt giòng lịch sử từ khi Chúa Giê-su chịu tử nạn cho đến ngày hôm nay (2025) vẫn có rất nhiều Kitô hữu là môn đệ của Thầy chí thánh, đã học tập, noi gương Thầy Giê-su đã quãng đại yêu thương và tha thứ đối với những kẻ đã nói xấu, vu khống, hãm hại mình.

Người Kitô hữu thường nhớ và áp dụng lời Chúa Giê-su dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em” (Mt 5,44)

Phùng Văn Phụng

12/10/2025

VỰC TỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”.

Một chú mèo rơi xuống một giếng cạn, người ta xúm lại tìm cách cứu nó bằng việc xúc đất lấp giếng. Ai đó lo lắng, “Làm thế, nó sẽ chết!”. Nhưng họ vẫn tiếp tục. Lạ thay, cứ mỗi lần một lớp đất rơi xuống, con mèo lại phủi đất rồi bước lên cao hơn. Cuối cùng, nó ra khỏi giếng – bình an, tự do – dẫu khá lấm lem!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy, như con mèo kia, nhiều khi chúng ta cũng bị vùi lấp giữa những lớp đất của thử thách, tội lỗi hay nỗi sợ. Thế nhưng, chính trong những ‘vực tối’ đó, Thiên Chúa lại tỏ mình cách sâu thẳm nhất.

Bị ném xuống biển sâu, chôn vùi trong bụng cá, nhưng chính ở đó, Giôna bắt đầu trải nghiệm thế nào là bóng tối, thế nào là nổi loạn, là hoán cải; và điều quan trọng là Thiên Chúa có mặt ở đó! Đức Kitô cũng đã bước vào nấm mồ, vực sâu của sự chết, để ở đó, Ngài cũng trải nghiệm thế nào là sự dữ, là tội lỗi, là chết đi để từ đó trỗi dậy và bừng lên ánh sáng phục sinh. Như vậy, Thiên Chúa không ở ngoài vực thẳm u tối; Ngài ở trong đó, để biến ‘vực tối’ thành nôi sự sống. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen.

Phaolô cho thấy lý do của mầu nhiệm ấy. Đức Kitô “xuất thân từ dòng dõi Đavít xét như người phàm”, nhưng “đã từ cõi chết sống lại” – bài đọc một. Để cứu con người Con Thiên Chúa phải bước xuống ‘vực tối’ của nó. Nếu Ngài chỉ đứng trên cao, nó sẽ không bao giờ được chạm đến Ngài; nhưng một khi Ngài cúi xuống, Ngài biến vực sâu của nó thành cầu thang dẫn về trời, ban cho nó ơn cứu độ vốn không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong vực tối nhân sinh. “Bóng tối không phải là kết thúc; nó là lòng mẹ sinh ra sự sống mới!” – Richard Rohr. “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” – Thánh Vịnh đáp ca. Đúng vậy, Thiên Chúa không biểu dương ơn Người cứu độ bằng tiếng sấm trên trời, nhưng bằng thập giá trên đất. Ở nơi tưởng chừng Ngài vắng bóng, Ngài lại hiện diện viên mãn hơn bao giờ hết.

Anh Chị em,

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”. Nếu Giôna đã gặp Chúa trong bụng cá, nếu Đức Kitô đã tỏ mình trong mồ sâu, thì mọi ‘vực tối’ của chúng ta – tội lỗi, cô đơn, thất bại, sợ hãi – đều có thể trở thành ‘vực gặp gỡ’ Thiên Chúa. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen. Ở đó, Ngài vẫn âm thầm tạo nên ánh sáng như chính Ngài đã làm trong buổi đầu sáng thế. ‘Vực tối’ không kết thúc bằng tuyệt vọng, nếu chúng ta biết phủi bụi và đứng lên. Mỗi lần chúng ta chỗi dậy, mỗi lần bạn và tôi để ánh sáng Chúa chiếu soi, chính là một lần chúng ta bước cao hơn trên con đường phục sinh. ‘Vực tối’ không vắng Chúa, mà chính là nơi Ngài đợi ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ vực thẳm đời con; cho con tin rằng, nơi tận cùng yếu đuối và tội lỗi của con, tình yêu Ngài vẫn mạnh mẽ hơn mọi đổ vỡ!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,29-32

29 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”


 

 Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại – 50 Năm Nhìn Lại – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

BS Vĩnh Chánh

Sau nhiều làn sóng di cư rời khỏi Việt Nam, ngay trước ngày 30 tháng 4, 1975 và tiếp tục về sau, qua các cuộc di tản, vượt biên vượt biển, Đoàn Tụ Gia Đình, Ra Đi Có Trật Tự ODP, Tái Định Cư Nhân Đạo HO, Chào đón Con Lai qua nghị định American Home Coming Act, rồi về sau với di dân hợp pháp, di dân kinh tế…cộng đồng người Việt tỵ nạn CS ở Hải Ngoại lớn dần, mạnh dần, qua những nỗ lực quả quyết từ bàn tay trắng đạt được thành công vượt bực. Họ và các thế hệ tiếp nối đã không ngừng tích cực hội nhập vào xứ sở tạm dung đã cho họ cơ hội, đóng góp tài năng trí tuệ, văn học nghệ thuật, chính trị xã hội trong khi vẫn cố gắng duy trì văn hóa quê hương. Sự lớn mạnh trong 50 năm vừa qua của cộng đồng VN là một trang sử kiêu hùng, là niềm kiêu hãnh của đa số dân chúng từng sống tại Miền Nam Việt Nam, viết lên được ý chí và quyết tâm gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, như tinh thần hiếu học, giáo dục gia đình, tính siêng năng, kỷ luật có trên nhường dưới, tình đoàn kết cộng đồng, tôn trọng lẫn nhau trong xã hội. Bên cạnh, sự dung hòa thiết thực và dễ dàng chấp nhận giữa văn hóa gốc và văn hóa nước tạm dung đã đóng góp phần quan trọng trong hội nhập cho cộng đồng người Việt tại Hải Ngoại.

Trong phạm vi hạn hẹp của hiểu biết, tôi xin chú trọng bài viết nhiều về cộng đồng người Việt tại Mỹ, hơn là với cộng đồng người Việt sống tại các nước Canada, Âu Châu hay Úc Châu. Điều này cũng dễ hiểu khi có đến 2.4 triệu người Việt sống tại Mỹ, so với khoảng 280 ngàn tại Canada, 400 ngàn tại Pháp, 335 ngàn tại Úc, 219 ngàn tại Đức (mà đa số từ Đông Đức qua), vài chục ngàn tại các nước khác như Bỉ, Hà Lan, Anh, Na Uy, Thụy Điển và …

Cho dù hiện tại, người Việt Hải Ngoại theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng cần phải khẳng định căn cước chung của tất cả người Việt rời khỏi Việt Nam là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS. Và ngay từ đầu, chính vì mẫu số chung tỵ nạn CS, có sẵn căn bản tôn tri trật tự của một xã hội nhân bản qua giáo dục từng trân trọng nhân phẩm, tư cách con người, truyền thống gia đình, nên người Việt Hải Ngoại dễ dàng thông cảm, chỉ dẫn cho nhau, giúp nhau tìm nơi ăn chốn ở, rồi chỉ cho nhau bất cứ công việc gì để nuôi sống gia đình, tìm trường lo xây dựng tương lai cho con cháu qua học vấn, mở những cơ sở thương mãi chú trọng vào sở thích hay nhu cầu của đồng hương, tập hợp với nhau thành nhóm nhỏ, hội đồng hương, hội thân hữu đồng môn hay đồng nghiệp – đơn cử Hội Y Sĩ VN tại Canada, Hội đầu tiên có tổ chức bình diện thế giới tự do, mở màn cho các hội chuyên nghiệp có tầm vóc quốc tế về sau – hội đoàn các cựu quân nhân, rồi từ từ mới thành ra được một cộng đồng người Việt Hải Ngoại lớn mạnh theo thời gian. Người Việt thường có khuynh hướng tụ tập sinh sống gần nhau, nên các khu thương mãi, siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, dược phòng, văn phòng luật sư, cùng các dịch vụ đi kèm, các quán rồi các nhà hàng sang trọng to lớn xuất hiện dần với ẩm thực Việt Nam, trong các khu vực thương mãi xung quanh Little Saigon, Quận Cam, trung tâm thương mãi ở Houston , Dallas, Austin, San Jose; trung tâm Eden và Little Saigon, Arlington, Virginia; ở Montreal,Vancouver, Toronto, Ontario, Alberta; ở Sydney, Melbourne, Perth, Brisbane; quận 13 tại Paris; Cha mẹ lại được khuyến khích cho con học thêm tiếng Việt tại các trung tâm cộng đồng tự nguyện dạy thêm tiếng Việt với mục đích gìn giữ văn hóa cổ truyền và ngôn ngữ Việt …

Năm qua năm, cộng đồng người Việt lớn dần, mạnh dần, thế hệ thứ nhất ổn định, an cư lạc nghiệp. Họ đã sống qua những cố gắng phi thường, chịu khó chịu khổ, cần cù xây dựng học hỏi; những trái ngang trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, vì buồn tủi của kiếp tha hương, vì bao vấn nạn cam go trong mưu sinh, cùng với mất mát bỏ lại trên quê hương hay trên biển cả, những vết sẹo trên cơ thể, kể luôn cả chấn thương tâm lý không chảy máu… đã và đang từ từ dịu dần, nhường lại cho sự phấn chấn và biết ơn đất nước đón nhận mình, liên tục cho mình cùng gia đình và cộng đồng mình nhiều cơ hội vươn lên, hội nhập vào vườn hoa muôn sắc muôn màu, đa văn hóa, đa chủng tộc. Sau 50 năm, cây xương rồng nở hoa, cây trái cho hoa quả ngọt ngào; cứ thế, thế hệ thứ 2 và thứ 3 hội nhập mạnh mẽ vào xã hội nước sở tại. Không thiếu những thành công vượt bực, những thành đạt đáng ngưỡng mộ của các thế hệ thứ nhất, thứ hai rồi thứ ba trong cộng đồng VN tại Hải Ngoại, là niềm hãnh diện chung, không những của cộng đồng người Việt chúng ta, mà còn là sự trân trọng của chính quyền nước sở tại. Trong mọi ngành nghề. Từ hệ thống chính trị cấp liên bang, tiểu bang đến các quận hạt địa phương, từ hệ thống quân đội, giáo dục, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, nhân văn xã hội, trong thương trường, báo chí, văn học nghệ thuật, kỹ nghệ giải trí, ca nhạc điện ảnh, thể dục thể thao… đâu đâu cũng có những tên tuổi Việt Nam, đâu đâu cũng có đề tài thành công của người Việt chia sẻ với người Việt để tạo thêm niềm tin cho nhau

Với sự kém hiểu biết, với trí nhớ kém dần, và khuôn khổ của bài viết, tôi biết mình sót tên của vô số nhân vật đồng hương có công đóng góp cho sự tiến mạnh của cộng đồng người Việt. Mong quý vị thông cảm.

Dưới đây là danh sách cắt ngắn của một số những danh nhân trong các lãnh vực nói trên:

*** Các chính trị gia, các quan chức trong chính phủ liên bang:

*Đinh Đồng Phụng Việt. Cựu thứ trưởng Tư Pháp nội các Tổng thống 43 George W. Bush, tác giả của Patriot Act năm 2001, giáo sư Luật Khoa ĐH. Georgetown

*Hùng Cao, được hành pháp đề nghị vào chức vụ thứ trưởng Bộ Hải Quân, đang chờ Thượng Viện chuẩn y.

*Joseph Cao, cựu dân biểu liên bang của TB Louisiana.

*Derek Trần, dân biểu liên bang, địa hạt 45th, tiểu bang California.

*Stephanie Murphy, cựu dân biểu liên bang địa hạt 7, tiểu bang Florida

*Đạt Trần, quyền bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, tháng 1, 2020- tháng 2, 2021.

*Tony Phạm, Phụ tá bộ trưởng Bộ Home Land Security, và từng là quyền giám đốc US Immigration & Customs Enforcement.

*Giao Phan, giám đốc điều hành NAVSEA, đồng chức với một đô đốc 3 sao của Hải Quân Hoa Kỳ, điều khiển 85 ngàn người, vừa quân sự vừa dân chính, trách nhiệm nghiên cứu, phát triển, mua sắm, bảo trì, thiết kế những tàu chiến, từ nhỏ cho đến lớn như các hàng không mẫu hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ.

* Joe Nguyễn, thượng nghị sĩ TB Washington.

*Jacqueline Nguyễn, Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Washington DC..

*Miranda Mai Du, thẩm phán tòa án liên bang vùng Nevada.

* Michele Ginda, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao về Public Diplomacy + Public Affairs.

*Danny Lam Nguyễn, thẩm phán tòa án Tối Cao của District of Columbia.

*J. Peter Phan, đại sứ gốc Việt đầu tiên, cho vùng Sahel Region của Africa.

*Dương Như Nguyện, thẩm phán Mỹ gốc Việt đầu tiên, Houston,Texas, cựu GS. Luật ĐH Denver.

*Nguyễn Lâm Kim Oanh, GS TS. Giáo Dục, nguyên giám đốc chương trình Ngôn Ngữ/hệ thống ĐH TB CA, rồi giám đốc Nha Ngoại Ngữ và giáo dục Quốc Tế Liên Bang, và cố vấn cao cấp cho tòa Bạch Cung về liên hệ đến người Á Châu. Hiện tại bà đang giữ chức GS Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Cao Cấp tại Hoa Thịnh Đốn.

*Đinh Hân, giám đốc kỹ thuật và giao thông của Tổng Nha Bưu Điện Hoa Kỳ, người đưa ra và hoàn tất hệ thống xe thư chạy bằng điện, giải thưởng Giao Thông cao quý của Tổng Thống George W. Bush. Ts. Hân là em trai của Bs. Quân Y Nhảy Dù Đinh Hà.

*Phan Quang Tuệ, thẩm phán Tòa Di Trú liên bang ở San Francisco. Ông là con trai của Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán.

*Nguyễn Trọng Nho, cựu thẩm phán tòa án Thượng Thẩm, quận Cam, California.

*Bs. Philipp Roesler, nguyên là 1 bác sĩ ngành giải phẫu lồng ngực, là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng kinh tế của nước Đức khi ở tuổi 38.

*Ngô Thanh Hải, Thượng nghị sĩ liên bang, Canada.

*Hoàng Mai, dân biểu liên bang vùng Montreal, Canada.

*Hiến Văn Lê, Thống Đốc của South Australia.

*Tại thành phố Brimbank với khoảng 2 trăm ngàn dân, cách Melbourne chừng mười cây số, năm 2024, có đến 4 nghị viên thành phố là người Việt trên 11 nghị viên, lại toàn là phụ nữ. Như sau: Kim Thiên Trương, Thùy Đăng (mới 25 tuổi nhưng giữ chức thị trưởng), Lucy Nguyễn và Duyên Anh Phạm.

***Các chính trị gia, thị trưởng của các quận hạt địa phương và của tiểu bang, như:

Tony Lâm, thị trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên của thị xã Westminster, Quận Cam, Janet Nguyễn, Thượng Nghị Sĩ (TB CA), Văn Trần, Dân biểu (TB CA); Hubert Võ (dân biểu TB. Texas), Hoan Hùng (dân biểu TB. Illinois), Hoàn Nguyễn (dân biểu TB. Utah), John Trần (thị trưởng Rosemead, CA), Bao Nguyễn (thị trưởng Garden Grove, CA), Helen Trần (thị trưởng San Bernardino, CA), Michael Vu (thị trưởng Fountain Valley, CA), Richard Trần (thị trưởng Milpitas, CA), Andrew Võ (supervisor của OC, CA)…

*** Các tướng lãnh trong quân đội Hoa Kỳ

*Thiếu tướng Lương Xuân Việt.

*Thiếu tướng LapThe Chau Flora, Vệ Binh Quốc Gia

*Thiếu tướng William H. Seedy, TQLC

*Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn, mà toàn gia đình ông bị VC thảm sát trong Mậu Thân 1968.

*Chuẩn Tướng Danielle Ngô, Công Binh

* Phó Đề Đốc Vũ Thế Thùy Anh, Dịch vụ Y tế Công Cộng, Hải Quân

* Chuẩn Tướng John R. Adwards, Không Quân

Tính cho đến tháng 9, 2024 có trên 105 sĩ quan Cấp Đại Tá, cả nam lẫn nữ, trong các quân binh chủng phục vụ trong Quân Đội Hoa Kỳ. Không tính 57 vị đã hồi hưu. Mà trong đó Y Sĩ Đại Tá Nguyễn Dương, tốt nghiệp YK Saigon trước 1975, từng là y sĩ trưởng một sư đoàn Thiết Giáp trong trận chiến Desert Storm tại Iraq; và có 2 chị em đều là Đại Tá Quân Y: Y Sĩ Đại Tá Mylene Trần Huỳnh (Không Quân), và Y Sĩ Đại Tá Appolo Trần (Bộ Binh), là con gái và con trai của vợ chồng Bs. Trần Đoàn (RIP, bác sĩ Quân Y Nhảy Dù VNCH) và Dược sĩ Phan Thị Nhơn, VA, Hoa Kỳ. Tại Pháp, còn có Đại Tá Trần Đình Vị. Ông gia nhập Quân Đội Pháp sau khi rời VN 1975 với cấp bậc Thiếu Tá Quân Lực VNCH, và hồi hưu với cấp bậc Đại Tá của Quân Đội Pháp. Tại New Zealand, có Bs. Nguyễn Quang Giao, nguyên Y Sĩ Thiếu Tá VNCH, nay là Phó Giám Đốc Nha Quân Y của Tân Tây Lan.

*** Nghiên cứu, Khoa Học, Giáo Dục:

Về nghiên cứu, nhiều nhà khoa học người Việt đang làm việc tại các trường đại học và viện nghiên cứu uy tín tại Mỹ. Họ tham gia vào các nghiên cứu khoa học tiên tiến trong các lĩnh vực như khoa học máy tính, kỹ thuật điện, vật liệu, và y sinh học, tạo ra những đột phá và phát minh mới.

Trong giáo dục, nhiều người Việt Nam đang giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ. Họ truyền đạt kiến thức và kỹ năng cho thế hệ tương lai, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ cao, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành này.

Sau đây là danh sách ngắn của các khoa học gia, các giáo sư cùng các nghiên cứu gia tên tuổi:

*Eugene Trinh Trịnh Hữu Châu, tiến sĩ Vật Lý đại học Princeton, chuyên về Vật Liệu Học (Material Sciences), trước đó học ở CalTech, là phi hành gia NASA gốc Việt đầu tiên bay vào không gian với chuyến bay STS-50 (Columbia Space Shuttle). Ông là nhân viên cao cấp và trọng yếu của cơ quan hàng không và không gian quốc gia tại Washington DC và Jet Propulsion Lab, Pasadena California, giáo sư đại học California Institute of Technology (CalTech).

*Nguyễn Xuân Vinh, tiến sĩ Toán Học (Pháp), tiến sĩ Hàng Không Không Gian đại học Colorado, những nghiên cứu của ông tác động hữu hiệu trong việc sắp đặt quỹ đạo cho phi thuyền (optimization). Ông được giải thưởng Dirk Brouwer vinh danh những thành tựu trong chuyên môn về hàng không, không gian. Ông đã là Đại Tá cựu tư lệnh không quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cuốn sách “Đời Phi Công” với bút hiệu Toàn Phong đã là động lực cho rất nhiều thanh niên gia nhập không quân. Ông là giáo sư Emeritus ĐH Michigan.

*Trịnh Xuân Thuận, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn đại học Princeton, trước đó theo học CalTech, nổi tiếng không những trong chuyên môn Vật Lý Thiên Văn (Astrophysics), mà còn trong văn học, diễn giải những kiến thức chuyên môn qua văn chương, được UNESCO vinh danh, đoạt giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca, có huân chương Chevalier của Pháp. Nghiên cứu về tiến hóa các ngân hà, và hình thành sao, góp phần vào hiểu biết vũ trụ. Hiện tại, ông là GS ĐH Virginia.

*Ngô Bảo Châu, tiến sĩ Toán Học Université de Paris, trước đó Ecole Normal Superieure. Ông lãnh giải thưởng Field Medal, được coi như cao nhất về Toán Học, được tuần báo Time vinh danh, được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Toán Học đại học Chicago.

*Jane Lưu Lệ Hằng, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn MIT, trước học Stanford, có thực tập tại Jet Propulsion Lab của NASA, có tên trên bản đồ Thiên Văn với Asteroid 5430LUU, đánh dấu sự dầy công nghiên cứu về vòng đai Kuiper ở ngoài cùng của Thái Dương Hệ (Solar System). Có thêm giải thiên văn cao quý Kavli Prize. Đã là giáo sư của MIT và đại học Leiden (Hòa Lan), hiện là khoa học gia trong Lincoln Lab của MIT, 1 trong 5 trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu của Hoa Kỳ.

* Lê Duy Loan, kỹ sư tốt nghiệp đại học Austin, Texas, senior Vice President gốc Việt đầu tiên của ngành kỹ thuật và quản trị của Texas Instruments. Được mời nói chuyện về quản trị và lãnh đạo tại các đại học danh tiếng như Westpoint Academy của quân đội Hoa Kỳ, giúp cho nhiều sinh viên xuất sắc theo học các đại học hàng đầu của Mỹ.

*Nguyễn Cường Charles, tiến sĩ điện tử đại học George Washington, DC, trước học ở Konstanz, Đức Quốc. Khoa trưởng gốc Việt đầu tiên ở một đại học có tầm vóc quốc gia (Catholic University of America), trong vòng 16 năm đã đưa vị trí của phân khoa kỹ sư (school of engineering) của trường này lên nhiều bậc cao hơn, có những nghiên cứu về tự động hoá (robotics) với Goddard Space Flight Center NASA, đại học này đã thiết lập giải thưởng Dean Charles Cuong Nguyen Leadership Award, phát thường niên cho các sinh viên ngành kỹ sư, ngoài ra ông là chủ bút nhiều tập san chuyên môn về tự động hóa (Automation). Hiện là dean emeritus.

*Võ Đình Tuấn, tiến sĩ học viện kỹ thuật Zuerich (Thụy Sĩ), trước đó Ecole Polytechnique Lausanne. Ông chuyên khoa về Photonics, sự chuyển động, tuần hoàn, vận hành của ánh sáng (physical science of light).Ông được xếp hạng là nhân vật số 43 trong 100 nhân tài xuất chúng trong khoa học. Ông được bầu vào hàn lâm viện khoa học các sáng chế gia (National Academy of Inventors). Là giáo sư của đại học Duke trong khu Research Triangle ở tiểu bang North Carolina, một trung tâm tập trung nhiều cơ sở khoa học hàng đầu của Mỹ.

*Thục Quyên Nguyễn, TS. GS Hóa Học của UC Santa Barbara. Bà ở trong danh sách top 1% các khoa học gia có ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới.

*Đàm Thanh Sơn, tiến sĩ Vật Lý Học Viện Nghiên Cứu Nguyên Tử (Institute for Nuclear Research, Moscow, Russia), ông là vật lý lý thuyết (theoretical physicist) xuất sắc, được bầu vào hàn lâm viện quốc gia về khoa học (National Academy of Sciences), được đại học Chicago phong danh hiệu hiếm hoi là university professor (cho tới giờ chỉ có khoảng 30 người được đại học này phong), được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Vật Lý đại học Chicago.

*Trương Công Hiếu, kỹ sư, Canada, phát mình cách in màu trên tiền đúc bằng kim loại, giải thưởng của Nữ Hoàng Anh.

*Đỗ Đức Cường, chuyên viên cao cấp ngân hàng Mỹ, được biết đến như là cha đẻ của máy ATM.

*Dương Nguyệt Ánh, khoa học gia trách nhiệm phát triển vũ khí Thermobaric cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Một phụ nữ chiếm nhiều cảm tình của người Việt hải ngoại.

*Võ Tá Hân. Tốt nghiệp MIT. Ngân hàng gia quốc tế (Bank of Montreal, Singapore Finance, UBS), CEO (Tập đoàn công ty bất động sản, khách sạn, kỹ nghệ Hong Leong Singapore) Thành viên Board of Trustees (Đại học Quản lý Singapore) & Board of Directors (Singapore Arts House – Bộ Văn Hóa Singapore). Sống và làm việc ở Á châu hơn 30 năm. Được xem như một trong những nhân vật ngoại quốc quan trọng đã giúp đảo quốc Singapore phát triển mạnh về kinh tế. Sáng lập MIT Club of Singapore và Singapore Classical Guitar Society. Khi về hưu tại Nam Cali. là CEO của Trung Tâm Y Tế Nhân Hoà, đưa Trung Tâm đạt tiêu chuẩn liên bang và thành lập chương trình MD100 giúp 100 sinh viên Mỹ gốc Việt vào trường Y. Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ với những nhạc phẩm về Huế và về đạo Phật rất nổi tiếng. Từ nhiều năm qua, ông mở lớp dạy guitar cho những người cao niên.

*Nguyễn Sơn Bình, GS. TS Hóa Học tốt nghiệp Ca. Tech, và giảng dạy tại ĐH Northwestern. Có 30 bằng sáng chế trong nhiều lãnh vực và nhiều giải thưởng cao quý của National Science Foundation Career.

*Mya Lê Thái, nữ TS UC Irvine với phát minh loại pin Nanobattery, có thể xử dụng đến 400 năm.

*Nguyễn Trọng Hiền, TS từ Princeton, trong lãnh vực nghiên cứu bức xạ nền vũ trụ. Khi làm việc cho NASA, ông có nhiều đóng góp lớn vào nghiên cứu Nam Cực.

*Vũ Thành Long, Định cư tại Mỹ năm 1980, lấy xong 2 bằng cử nhân cơ khí & kỹ thuật hàng không không gian, tiếp tục tốt nghiệp tiến sĩ. Một thành viên fellow cao cấp của cơ quan NASA.

*Nguyễn Viết Kim, du học Đức Quốc từ thập niên 60, định cư về sau tại Mỹ và tốt nghiệp Tiến Sĩ. Phục vụ NASA và NSA (National Security Agency) cho đến khi hồi hưu. Đáng ngưỡng mộ hơn nữa ông từng là một con người khiêm nhượng và từng là gà trống nuôi 3 con thành đạt.

* Amanda Nguyễn, người phụ nữ trong năm 2022 của tuần báo Time. Một hoạt động viên cho nhân quyền và là phi hành gia trong chuyến bay tiểu quỹ đạo (sub orbital) Blue Origin NS-31 của ông Jeff Bezos, vào ngày 14 tháng 4, 2025, cùng với 5 phụ nữ khác.

*Kelly Nguyễn, nữ TS Hóa Học, Đại Học Australia, vinh danh và nhận nhiều giải thưởng qua nghiên cứu làm chậm tiến trình Lão Hóa.

*Nguyễn Cẩm Vân: tốt nghiệp hạng nhì Naval Academy, bác sĩ y khoa, ĐH Stanford, BS. phi hành ở Pensacola, chuyên khoa ĐH. Pennsylvania. Phục vụ tại tổng y viện Walter Reed và trường đại học quân y quân lực Hoa Kỳ. Cấp bậc HQ Đại Tá (Navy Captain).

*Lê Tự Quốc Thắng, tiến sĩ Toán. Từng đạt huy chương vàng Olympic toán học quốc tế (IMO) lần thứ 23 tại Budapest, năm 1982, với số điểm tuyệt đối 42/42. Cựu học sinh trường Quốc Học Huế. Hiện là GS Học Viện Công Nghệ TB Georgia.

*Ông Huy, GS Emeritus, Khoa trưởng Dược Khoa, Đại Học Montreal, Canada. Ông Huy là con rể của GS YK Nguyễn Hữu, YK Saigon.

*Bùi Tiến Đài, GS TS Điện Toán và Phần Mềm, Khoa trưởng Đại Học Concordia, Montreal, Canada

*Nguyễn Hữu Trâm Anh, Bs. gây mê, là trưởng ban gây mê cho cuộc ghép mặt người đầu tiên trên thế giới. Bs. Trâm Anh còn là chủ tịch Hội Y Sĩ VN tại Canada.

*Bs. Võ Văn Cầu, tốt nghiệp 1968 ĐH YK Huế, là Chủ Tịch và sáng lập viên của United Care Medical Group, một HMO nổi tiếng tại Orange County, CA, xử dụng trên 200 bác sĩ gia đình và hơn 300 bác sĩ chuyên môn gồm đủ mọi ngành. Bs. Cầu là một khuôn mặt lớn trong cộng đồng VN tại Quân Cam và là người đóng góp thường xuyên cho các công tác xã hội thiện nguyện.

*Bs. Nguyễn Ngọc Thạch, thành viên Hội YK Huế Hải Ngoại, thành viên của ban chấp hành của American College of Cardiology, của hội American Heart Association, fellow của Society of Cardiovascular Angiography & Intervention, và của Advanced International Cardiology, từng là thuyết trình viên quốc tế về Tim Mạch, khoa trưởng ĐH YK Tân Tạo, VN. Tác giả của Practical Hand book of Advanced Interventional Cardiology, đứng hàng thứ 3 được mua trên online, và sách được dịch qua tiếng Tàu và tiếng Việt.

Vĩnh Chánh