Đọc Hồi ký của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh. Tác giả: Phùng văn Phụng

Tác giả: Phùng văn Phụng        

            Đọc xong hai cuốn sa’ch “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.

             

Tôi đã học Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.

             Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định,Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)

             Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…

             Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.

             Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng…

             Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà… Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)

             Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện… Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ  là  một ảo ảnh. Từ  lúc đó  trở  đi, suốt buổi  chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ  đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)

             Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã  thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.

             Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ Bình Triệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”(3)

 GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo (4)

 Paris, Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc. Trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt: Ông đã thấy ơn Đức Mẹ.

  Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

 Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo Sư  đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.

 Tác giả: Phùng văn Phụng

               17-04-2012

 (1)   trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II

(2)   trang 542 Sđd

(3)   trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).

Chị tôi, người đào mộ – Truyen ngan HAY

Chị tôi, người đào mộ

-::-

Đêm Văn Điển hun hút gió. Nghĩa trang mênh mông những gò mả mới, ánh trăng loang loáng trên bia đá lạnh. Phượng ngồi thu mình bên gốc bạch đàn, hai bàn tay gầy run rẩy ôm chiếc cuốc cũ. Bụng đói cồn cào, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt hai đứa em gầy guộc đang ngủ trong căn nhà dột.

“Chỉ một lần thôi,” Phượng thì thầm, rồi quỳ xuống trước ngôi mộ vừa mới đắp. Cô thắp ba nén hương, giọng run rẩy:

– Con xin lỗi… Con chỉ muốn các em con được đi học…

Chiếc cuốc cắm xuống đất. Ngôi mộ vừa chôn. Đất còn chưa khô. Những vòng hoa vẫn tươi. Âm thanh khô khốc vang vọng giữa đêm, như cứa vào da thịt chính cô. Mồ hôi rịn ra lạnh buốt, mùi đất tanh nồng trộn lẫn mùi tử khí. Khi lớp ván mộ bật ra, cô thấy những vật dụng nhỏ lấp ló. Tay run bần bật, nước mắt chảy xuống hốc mộ. Cô cầm lên từng món, khấn lạy, rồi bỏ vào túi. Đêm ấy, lần đầu tiên, Phượng trở thành “kẻ đào mộ”.

Nhưng rồi một lần biến thành trăm lần. Năm năm ròng rã, cái cuốc cũ in hằn bao dấu vết trong nghĩa trang Văn Điển. Lần nào cũng có ba nén hương, có lời xin lỗi run run. Lần nào cô cũng tự nhủ: “Đây là lần cuối.” Nhưng sáng hôm sau, khi thấy hai đứa em ngủ gục trên sách, bụng lép kẹp, Phượng lại ra đi.

Có một đêm, khi bật ván mộ, trong khi loay hoay lột quần áo của thi thể một người đàn bà to béo nặng nề, bất ngờ bà đổ sập xuống, đè lên thân hình mảnh khảnh của cô. Cái lạnh bủa vây, mùi tử khí xộc thẳng vào ngực. Cô ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới cái xác đã bốc mùi, cô òa khóc như đứa trẻ, vừa run vừa khấn: “Con sẽ dừng lại… con thề sẽ dừng lại.”

Nhưng rồi, cô lại xách cuốc ra nghĩa trang.

Một sáng Hà Nội se lạnh, cái tên Phượng vang lên trên loa phóng thanh trước Tòa án Nhân dân. Người ta tụ lại, không phải chỉ vì tò mò, mà còn vì căm phẫn. Thân nhân của những gia đình bị một cô gái trẻ cậy mộ quây kín toà án. Phiên toà mở công khai cho toàn dân chứng kiến.

Trong phòng xử, cô bước vào, dáng nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian luật pháp. Người ta nhìn cô như nhìn một bóng ma. Bản cáo trạng đọc dõng dạc: “Đào trộm mộ tại nghĩa trang Văn Điển, tái phạm nhiều lần.”

Chủ tọa cất giọng cứng rắn:

– Bị cáo có hiểu tội danh không?

Phượng cúi đầu:

– Dạ… con hiểu.

– Vì sao bị cáo lại làm như vậy?

Giọng ông rơi xuống, nặng nề như hòn đá. Cả phòng xử nín thở.

Phượng im lặng rất lâu. Rồi cô ngẩng lên, đôi mắt trũng sâu, giọng khàn đặc:

– Vì… hai đứa em của con.

Một làn sóng rúng động tràn khắp khán phòng. Người ta thì thầm, rồi lặng đi. Chủ tọa gật đầu ra hiệu, giọng bớt gay gắt:

– Nói rõ hơn.

Phượng bắt đầu kể. Bố mẹ mất sớm, cô gánh lấy mái nhà khi mới chưa đầy 16. Hai đứa em đang tuổi ăn học, còn cô làm thuê, bán hàng rong, cấy thuê, đổi công, làm hàng xáo, mò cua bắt ốc thôi thì không từ việc gì. Đầu tiên, cô chỉ mò vào nghĩa trang lấy trộm bát cơm quả trứng mấy chị em ăn cho qua bữa, sau là tấm áo manh quần, rồi đào những ngôi mộ mà cô biết người ta chôn theo những đồ quý giá… Mỗi lần đều thắp nhang, đều khấn xin. Mỗi lần đều hứa “chỉ một lần thôi.”

Đến đoạn thi thể đổ sập xuống, Phượng bật khóc, giọng nghẹn đặc. Nước mắt chảy dài xuống hai gò má hốc hác.

Bỗng từ hàng ghế khán giả, hai đứa trẻ òa khóc, lao lên phía trước. Đó là hai đứa em của Phượng. Chúng quỳ sụp, ôm lấy chị, nghẹn ngào:

– Chị ơi! Chúng em không biết… Chúng em không biết…

Khán phòng chấn động. Người tham dự phiên toà cúi mặt, nhiều người đưa tay lau vội nước mắt.

Thẩm phán im lặng rất lâu. Ông nhìn xuống hồ sơ, rồi nhìn cô gái gầy gò quỳ trong vòng tay hai đứa em. 

Toà xử án treo.

Mấy hôm trước nhà mình vừa xem xong bộ phim 150 tập của Hàn quốc. Bộ phim nói về cuộc đời của ba người chị thay cha mẹ đã chết nuôi em trai ăn học thành tài. Họ không ai đi ăn trộm, càng không trộm mộ- vì của nả cha mẹ để lại đủ ăn cả đời. Nhưng ông xã mình kể cho mình nghe vụ án chị gái đào mộ nuôi hai em, được xử khoan hồng do yếu tố nhân đạo. Nửa thế kỷ trước- chồng mình khi đó còn nhỏ, đã đi xem xử án.

Không biết ai ở Hà nội những năm đó còn nhớ vụ này không? Mình chỉ biết nghe rồi kể lại thôi…

Hồi đó… con người ta cũng thật biết thương lấy nhau. Giờ vì nghèo mà làm bậy- không biết toà xử sao? Lương tâm phán thế nào?

Hả các cụ?

Cụ Ka

Kiều Thị An Giang


 

Thư gửi cho chính mình khi về già

Vanhoa Nguyen – Chuyện tuổi Xế Chiều

Thư gửi cho chính mình khi về già

Con à, khi con già đi…

Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.

Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ.

Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh.

Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn.

Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:

“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,

“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,

“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.

Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.

Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con.

Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.

Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi.

Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.

Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.

Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.

Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.

Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con.

Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.

Sưu tầm


 

Nỗi sợ lớn nhất của tuổi già

Anh Chi -Tâm Thức Việt

Nỗi sợ lớn nhất của tuổi già

“Con có biết điều khó nhất khi già đi là gì không?”

“Là gì ạ?”

“Là trở nên vô hình. Khi còn trẻ, con vẫn là ‘ai đó’: xinh đẹp, vui vẻ, lôi cuốn, mạnh mẽ… ít nhất cũng là người được chú ý. Nhưng rồi tất cả phai tàn. Và bỗng nhiên, con chỉ còn là ‘ông già khoác áo sờn cũ’ hay ‘bà cụ đội mũ len và mặc chiếc áo len bạc màu’. Cảm giác như mình chẳng tồn tại nữa. Như thể mình trong suốt.”

Đoạn thoại này lấy từ một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Anh. Nghe buồn, nhưng lại đúng lắm.

Quá nhiều khi, thứ duy nhất người ta nhìn thấy ở một người già chính là… tuổi tác. Không ai nói: “bà từng là cô giáo dạy ngoại ngữ” hay “ông từng là kỹ sư.” Họ chỉ buông một câu: “bà ấy ngoài tám mươi rồi,” “ông chắc cũng gần chín mươi.”

Theo thời gian, số người thực sự biết câu chuyện đời bạn — bạn từng là ai, yêu thích điều gì, giỏi điều gì — ngày một ít đi. Bạn bè mất dần. Người còn sống thì chẳng ra ngoài nổi. Chuyến đi xa nhất trong ngày có khi chỉ là xuống cửa hàng tạp hóa mua ổ bánh mì.

Trong khi đó, con cháu ai cũng bận rộn với guồng quay riêng. Thỉnh thoảng mới gọi điện. Hiếm hoi lắm mới ghé thăm. Ở khu chung cư, đã có hàng xóm mới: những cặp vợ chồng trẻ, ông bố bận rộn xách túi đồ, những chiếc xe nôi lăn qua lại. Không ai biết tên bà cụ sống ở tầng hai. Cửa hàng góc phố cũng đổi nhân viên mới, chẳng còn khuôn mặt thân quen. Nhiều nhất, người ta chỉ biết số phòng và chừng tuổi của bạn. Còn sau cánh cửa ấy là gì? Chẳng ai quan tâm. Và thế là khoảng trống len vào.

Chúng ta thường thắc mắc: tại sao mẹ gọi điện mười lần một ngày chỉ để nói chuyện vụn vặt? Sao cha cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi?

Sự thật là: họ chỉ sợ bị lãng quên. Họ muốn được chú ý. Muốn được lắng nghe. Dù chỉ qua điện thoại.

Bởi già đi không chỉ là cộng thêm tuổi. Già đi còn là cảm giác dần bị xóa khỏi thế giới.

Già đi còn là nỗi cô đơn.

Già đi còn là khao khát vẫn còn ý nghĩa với ai đó.

Đừng đợi đến khi quá muộn. Hãy gọi điện. Hãy ghé qua. Hãy hỏi một câu: “Hôm nay bố mẹ thế nào?”

Với bạn, đó chỉ là một phút.

Với họ, đó là cả một thế giới.

Đôi khi, chỉ một câu đơn giản: “Con vẫn nhớ” cũng đủ để ai đó thấy mình vẫn còn sống — được nhìn thấy, được trân trọng, không bị bỏ quên.

St


 

LS thứ Sáu Các triệu chứng bệnh tâm lý ở người cao tuổi – Dr. Wynn Tran

LS thứ Sáu Các triệu chứng bệnh tâm lý ở người cao tuổi.

Đây là các bệnh hay gặp với ông bà cha mẹ của chúng ta:

-Sa sút trí tuệ (Dementia): phổ biến nhất là Alzheimer, ngoài ra có sa sút trí tuệ mạch máu, thể Lewy

-Trầm cảm người già (Late-life depression): nhiều quý vị thường bị bỏ qua, dễ nhầm với suy giảm trí nhớ hoặc mệt mỏi tuổi già.

-Rối loạn lo âu: lo âu lan tỏa, ám ảnh, hoảng loạn.

-Rối loạn giấc ngủ: mất ngủ, rối loạn nhịp thức-ngủ.

-Rối loạn tâm thần do bệnh lý cơ thể: Parkinson, sau tai biến mạch máu não, bệnh tim mạch, bệnh nội tiết.

-Rối loạn tâm thần do thuốc: thuốc ngủ, thuốc chống Parkinson, corticosteroid

-Tâm thần phân liệt (Schizophrenia) khởi phát muộn

YouTube player

Bấm huyệt, phần cổ, cột sống rất phải cẩn thận

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

  Việc này xảy ra quá nhiều rồi và tôi tin là sẽ còn xảy ra nữa với người lao động ít cập nhật thông tin. Các bạn đi mát-xa, bấm huyệt, phần cổ, cột sống rất phải cẩn thận. Tôi có ông bạn đi mát-xa ở NY, liệt cho 6 tháng sau khi bẻ cổ, may mà sau đấy khỏi. Nhiều năm trước có mấy cậu thợ đóng gạch, giờ nghỉ giải lao tẩm quất bẻ cổ cho nhau, cố tạo ra tiếng rắc, khiến bạn chết ngay lập tức.

Trường hợp này thì là gặp bác sỹ nắn chỉnh xương.

“Vào năm 2022, Caitlin Jensen đến gặp một bác sĩ nắn chỉnh xương ở Georgia để điều chỉnh cổ và phải chịu những chấn thương thay đổi cuộc đời. 

Ngay sau khi thực hiện thủ thuật, cô cảm thấy không khỏe và được đưa đến phòng cấp cứu, nơi các xét nghiệm cho thấy bốn động mạch ở cổ bị rách. 

Điều này dẫn đến ngừng tim, đột quỵ và mất mạch hơn 10 phút trước khi được hồi sinh. 

Cô đã sống sót nhưng không còn khả năng nói và bị hạn chế vận động.”

Nguồn: Morbid Knowledge


 

ĐÁNH BẮT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá!”.

“Phép lạ không tự nó là cùng đích; chúng là những dấu chỉ hướng đến một phép lạ lớn hơn: những tâm hồn được đổi thay!” – Fulton Sheen.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến những cuộc ‘đánh bắt’ kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử, những cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ.

Phaolô nói đến cuộc ‘đánh bắt’ vĩ đại nhất từ tạo thiên lập địa; qua đó, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót hải hà của Ngài khi “Giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái!” – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!”. Câu chuyện Tin Mừng xoay quanh Chúa Giêsu và Phêrô – người đã chứng kiến nhạc mẫu mình được một người có tên “Giêsu” chữa lành – cũng là người đã mượn thuyền ông để giảng; giảng xong, bảo ông chống ra xa để thả lưới. Phêrô làm theo và bắt được rất nhiều cá.

Đó là mẻ cá thần kỳ trong đời các ngư phủ miền Galilê, nhưng điều thần kỳ không phải là ‘cá’, nhưng là ‘những người đánh cá’ vốn đã bị ‘đánh bắt!’. Phép lạ không thuộc về vật chất, nhưng hoàn toàn tinh thần! Ông Giêsu này không để Phêrô và các bạn trở nên chán nản sau một đêm hoài công, nhưng giúp họ trở nên tuyệt vời khi làm môn đệ Ngài – rồi đây – sẽ đi khắp tứ phương thiên hạ mà lưới người như lưới cá. “Chúa không làm phép lạ để gây choáng ngợp, nhưng để lôi kéo bạn vào kế hoạch cứu độ của Ngài!” – Von Balthasar.

Vậy điều gì đã dẫn đến cú ‘đánh bắt’ ngoạn mục mang tính cứu độ này? ‘Cứu độ’, vì đó là mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Những con người này đã để Đấng Cứu Độ bước xuống thuyền mình, ngoan nguỳ làm theo những gì Ngài dạy. Cũng thế, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta đón Ngài vào thuyền đời mình, giữ Ngài ‘đủ lâu’, đi với Ngài ‘đủ xa’, đến những vùng biển ‘đủ mới’. “Chúa Kitô không xin lưới của chúng ta, nhưng xin lòng tín thác: đi sâu hơn, xa hơn, mới hơn với Ngài!” – Fulton Sheen. Đừng để Ngài lừng khừng! Hãy nhớ, Ngài giỏi ‘đi trên nước’; vì thế, hãy ‘cột chân’ Ngài bằng dây yêu mến và tập ‘lắng nghe’ câu chuyện dài ‘Nghìn lẻ một đêm’ Ngài sẽ kể! Và tiếp nối Ngài, tiếp nối các ngư phủ đầu tiên, bạn và tôi ra khơi ‘quăng chài’.

Anh Chị em,

“Họ bắt được rất nhiều cá!”. Phép lạ thật lạ không ở chỗ thuyền đầy cá, nhưng nơi những tâm hồn đã để Chúa Giêsu chiếm lấy. Điều kỳ diệu không phải là ê hề vật chất, mà là biến đổi nội tâm. Chỉ khi để Chúa Giêsu bước xuống thuyền đời mình, con người mới thật sự trải nghiệm cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ: bóng tối được chiếu sáng, tội lỗi được thứ tha, cái chết được hồi sinh. Đời chúng ta không thiếu những đêm thả lưới mệt nhoài, những sáng về không; nhưng cũng từ những thất bại ấy, đáp lại một lời mời “chèo ra chỗ nước sâu” có thể làm nên tất cả. Chúa Giêsu không muốn chiếm lưới hay con thuyền, Ngài muốn chiếm trọn trái tim. “Thuyền đầy cá rồi sẽ vơi; trái tim đầy Chúa không vơi bao giờ!” – Augustinô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cá nhiều thì con mừng, nhưng Chúa nhiều thì con sống! Đừng để con chỉ ‘thả lưới’ cho vui, mà quên ‘thả mình’ cho Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*****************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ

Các ông bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giê-su.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 5,1-11 

1 Khi ấy, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.

4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.

8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.


 

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .

Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.

Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!

Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!

Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .

Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.

Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!

Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm ahy, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!

Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.

Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.

Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”

Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!

Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?

Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .

Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!

Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.

Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.

Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .

Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.

. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.

. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.

. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.

. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .

. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.

. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!

Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .

. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.

Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .

Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?

Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…

Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “

Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường . . .

Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!

Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .

* * *

Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”

Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .

Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa:

“ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...

tieutu_sign

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh – Cha Vương 

Chúc bạn và gia đình một ngày tươi vui bình an trong Chúa nhé. Hôm nay 03/09, Giáo Hội mừng kính Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 4: 03/09/2025   t3-24

Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp của ngài càng ngày càng lẫy lừng. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma. Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng thứ 64 kế vị Thánh Phêrô bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma. Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt và săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard. Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.” Cuốn sách của ngài “Cách Chăm Sóc Mục Vụ” nói về nhiệm vụ và đặc tính của một giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

Lời Bàn: Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những câu nói của ngài, mời bạn đọc và suy gẫm để đưa mình đến gần Chúa hơn:

(1) Những ai đã vấp ngã trên đất bằng, đừng nên đến gần vực thẳm.

(2) Ngay cả khi không có quyền lực trong tay, tâm trí con người vẫn hướng chiều về sự kiêu căng; thế thì khi có quyền lực nâng đỡ, họ còn tự đại đến đâu nữa.

(3) Linh hồn là bộ mặt bên trong của con người, theo đó, chúng ta được Đấng Tạo Thành nhận biết và chăm sóc.

(4) Chỉ cần yêu thích những sự trên cao là đã vươn cao rồi.

(5) Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình đó mới thật đáng kể.

(6) Đừng lo lắng anh em có gì, nhưng hãy lo lắng anh em là gì.

(7) Nếu biết thường xuyên trang bị tinh thần bằng nghị lực kiên cường để chống lại những xúi giục của các tập quán xấu xa, chúng ta có thể biến chính các tập quán xấu ấy thành vốn liếng của nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu số

  1. Còn bạn?

❦ Thánh Grêgôriô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

***********************

AVE MARIA – Gregorian Chant of the Annunciation (Video in NAZARETH)

YouTube player

HỌC BIẾT SỐNG THINH LẶNG TRONG VIỆC CẦU NGUYỆN – G. Võ Tá Hoàng 

G. Võ Tá Hoàng 

Đối thoại trong cầu nguyện được hình thành từ sự thinh lặng và lắng nghe.  Chúng ta nói chuyện với Chúa, thế nhưng chúng ta cũng cần lắng nghe Ngài.

Linh mục Emmanuel Albuquerque

 Chúng ta đang sống trong một thời đại thích thể hiện bản thân.  Người ta phô diễn hầu như tất cả mọi thứ.  Món ăn mà chúng ta ăn, quần áo chúng ta mặc, quan điểm của chúng ta… tất cả đều trở thành một bài đăng trên mạng xã hội cách dễ dàng.  Chúng ta thường phải đối mặt với tình trạng lộn xộn, ồn ào và những thứ đó cứ bủa vây chúng ta.  Vì thế mà thinh lặng trở nên ít hơn, rụt rè hơn, lãng quên nhiều hơn.  Để lắng nghe cần phải biết thinh lặng.  Lắng nghe người khác, Thiên Chúa hay chính mình là một bài tập rất khó, vì nó buộc chúng ta phải rời xa ánh đèn sân khấu, nơi mà chúng ta chỉ thể hiện những gì mà người khác muốn thấy, để bước vào trong thâm sâu của con người mình.

 Trong nền văn hóa âm thanh mà chúng ta đang sống, thinh lặng có thể làm chúng ta sợ, bởi vì sống trong thinh lặng là bước vào trong một mối tương quan khác, và điều này có thể ảnh hưởng đến mối liên hệ liên vị với nhau, cũng như ảnh hưởng đến mối quan hệ với Thiên Chúa.

 Kinh nghiệm Kitô giáo cho thấy có ba trong số các nền tảng căn bản của cầu nguyện.  Cầu nguyện không phải là tùy thích nếu chúng ta muốn trưởng thành trong sự mật thiết với Thiên Chúa, trong việc nhận biết Ngài và chính mình.  Cầu nguyện là một thực tại quý báu, nhưng bằng cách này hay cách khác chúng ta đã biết được điều đó.  Tuy nhiên, một số người cảm thấy duy trì việc cầu nguyện cách trung thành, cảm thấy cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn này sao cho được hiệp nhất trong một cuộc đối thoại đầy yêu thương thật khó biết là dường nào.

 Thinh lặng, cầu nguyện và đối thoại

 Cầu nguyện là đối thoại.  Nó phải là như vậy.  Chính Chúa Giêsu đã chỉ dẫn về việc này trong Matthêu 6, 6 “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo.  Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.”  Cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ.  Chúng ta mong đợi.  Trong sự mong đợi này, Chúa muốn đón tiếp chúng ta để thiết lập một cuộc đối thoại, trong đó có người nói, có người nghe.

 Trong cuộc gặp gỡ đó điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm là hãy cho thấy cách chúng ta có thể sống lời cầu nguyện của mình.  “Đóng cửa lại…” Chúng ta nghĩ rằng Chúa nói chuyện với chúng ta từ cánh cửa của căn phòng chúng ta ra vào, nhưng nghịch lý là chúng ta có thể hiểu hành động đóng cửa giống như lời mời đóng cửa tâm hồn.  Cái gì vậy?  Cầu nguyện với tâm hồn khép kín sao?  Rõ ràng là không.  Hãy đóng cửa tâm hồn trước những tiếng ồn ào đến từ bên ngoài, trước những lộn xộn đang bủa vây chúng ta.  Và hãy bước vào sống trong sự thinh lặng hầu lấp đầy chúng ta bằng sự hiện diện của Đấng đang ở đó đợi chờ chúng ta.

 Thinh lặng trong cầu nguyện Kitô giáo không được hiểu như là sự im lặng trống rỗng, hay dẫn chúng ta đến một sự trống rỗng hiện sinh.  Chúng ta thấy Chúa Giêsu mời gọi chúng bước vào trong căn phòng đã có sự hiện diện của Chúa Cha ở đó.  Thinh lặng trong cầu nguyện Kitô giáo là một sự thinh lặng trọn vẹn và hướng tới việc đưa chúng ta đến một sự viên mãn, bởi vì Thiên Chúa đang ở đó để lắng nghe và nói chuyện với chúng ta.

 Thinh lặng để lắng nghe

 Đối thoại trong cầu nguyện được tạo ra từ sự im lặng và lắng nghe.  Chúng ta nói với Chúa, nhưng chúng ta cũng cần lắng nghe Ngài, và hầu như không xảy ra cách ồn ào hay bạo lực.  Hầu như lúc nào cũng được nhận biết qua “một cơn gió thoảng nhẹ nhàng” (1V 19,12).  Thinh lặng trong cầu nguyện trở thành một yếu tố nền tảng để có thể lắng nghe điều Thiên Chúa nói với chúng ta.  Thường thì không dùng lời lẽ.  Lắng nghe là chiêm nghiệm, thinh lặng tạo thành.  Tạo ra những mối liên kết khác, nhịp cầu khác.

 Để lắng nghe cần phải ở trong thinh lặng.  Sống trong thinh lặng để lắng nghe những nỗi đau và nỗi buồn phiền của thế giới bị tổn thương.  Hãy lắng nghe những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống của chúng ta.  Và thinh lặng cho phép chúng ta lắng nghe vượt ra khỏi những tiếng ồn quanh quẩn để trở thành người sáng tạo, và những gì mà chúng ta nhận được trong sự thinh lặng trở thành chất dinh dưỡng cho lời cầu nguyện của chúng ta.

 Học cách sống thinh lặng

 Sống giữa một thế giới bị bao trùm bởi những tiếng ồn ào và tiêu khiển, tôi mời gọi các bạn hãy sống một lộ trình thân mật với Chúa.  Sự thân mật với Thiên Chúa là con đường để thăng tiến nội tâm, để lắng nghe tiếng Chúa cách rõ ràng và để hiểu biết bản thân.

 Chúng ta hiện đang lắng nghe điều gì?  Và đâu là chất lượng của việc chúng ta lắng nghe?  Làm sao để nuôi dưỡng cuộc đối thoại với Thiên Chúa.  Các bạn hãy bước vào căn phòng của mình.  Đóng cửa lại và hãy cầu nguyện với Chúa Cha, Đấng đang đợi chờ các bạn.  Cùng với Ngài để việc thinh lặng của chúng ta được trọn vẹn.  Bởi đó sẽ là kết quả của việc lắng nghe.

 G.Võ Tá Hoàng 

From: Langthangchieutim

NÂNG LÊN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất”.

Rolf Lovland viết “You Raise Me Up” – “Ngài nâng con lên” – thoạt đầu chỉ với giai điệu. Cơ duyên đến khi ông vừa đọc xong “Nụ hoa trắng nhất” – “The Whitest Flower” – của B. Graham; Lovland nghĩ, đây là người hoàn hảo sẽ viết ca từ cho ca khúc dở dang này. Chiều kia, hai người gặp nhau, cùng nghe nó; tối đến, Graham viết phần lời mà không một lần chỉnh sửa. “You Raise Me Up” được hát lần đầu tại đám tang mẹ của Lovland. Sức mạnh của nó nằm ở Đấng được ‘nâng lên’ – tận thập giá – khi bạn không còn gì để mất!

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ, khi Lời Chúa cho thấy ý nghĩa của việc Thiên Chúa ‘nâng lên’ những ai Ngài yêu. Đó là những gì nhẹ tênh, rất bình thường và cũng rất lặng lẽ. Bằng chứng là câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu vào nhà, thấy nhạc mẫu Phêrô liệt giường, Ngài đến gần bên, cúi xuống, lặng lẽ chữa cô, cô đứng lên. Không một lời cầu, không một lời cảm ơn; nó ‘nhẹ tênh’ đến nỗi những người có mặt hầu như không hay biết! Cũng thế, mỗi ngày, Thiên Chúa lặng lẽ ‘nâng lên’ từng người trong chúng ta theo cách Ngài đã nâng phụ nữ may mắn này!

Những gì ‘không thể đơn giản hơn’ thật đáng chú ý! Vì lẽ, đang khi chúng ta luôn kỳ vọng vào những gì lớn lao kỳ diệu, bạn và tôi thường dễ bỏ qua những cách thức chữa trị ‘lặng lẽ’ rất bình thường của Thiên Chúa. Ở lãnh vực tâm linh, đó có thể là một lần đi xưng tội, một lần rước Chúa hay một lần tự vấn lương tâm; ở lãnh vực thể chất, đó có thể là một giấc ngủ ngon hoặc chỉ là việc chăm sóc sức khoẻ tốt bằng việc ăn uống nghỉ ngơi hợp lý. “Ân sủng đi vào linh hồn qua những cánh cửa đơn giản nhất!” – Henri Nouwen.

Phaolô gọi chúng là “ân sủng và bình an của Thiên Chúa” – bài đọc một – những phúc ân thường ngày vốn luôn toả lan đến độ chúng ta không nhận ra. Chúng ta ‘rất giỏi’ trong việc hưởng nhận hồng ân, nhưng thường ‘dùng dằng’ với hoá đơn thanh toán – phục vụ. Được Chúa Giêsu chữa lành, lập tức mẹ vợ Phêrô phục vụ các ngài. “Thước đo lòng biết ơn ân sủng chính là sự sẵn lòng phục vụ!” – Fulton Sheen. Đúng thế, chúng ta được cứu khỏi cái chết của tội lỗi là để phục vụ; Kitô hữu, ‘đoàn người sống lại’ để ra đi phục vụ!

Anh Chị em,

“Bà trỗi dậy phục vụ các ngài!” Hình ảnh Chúa Giêsu cúi xuống, nắm lấy tay bà nhạc Phêrô và nâng cô lên, hé mở một chân lý: Thiên Chúa không chỉ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay tội lỗi, nhưng còn mời chúng ta đứng dậy đi đến với tha nhân. “Đức tin chỉ thật sự sống động khi nó nở hoa trong phục vụ!” – John Stott. Bạn được ‘nâng lên’ không phải để ngồi đó hưởng thụ, nhưng để ra tay cứu giúp. Mỗi lần lắng nghe, tha thứ, chia sẻ cơm bánh; mỗi lần hiện diện bên một người cô đơn… bạn đang cho Chúa mượn đôi tay để nâng người khác. “Lòng biết ơn ân sủng luôn tìm cách biểu lộ trong phục vụ!” – Karl Barth.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con đứng vững nhất, không phải khi vươn cao, nhưng khi cúi xuống nâng ai đó dậy; nhất là những ai không còn gì để mất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*****************************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ

Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 4,38-44     

38 Khi ấy, Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Bấy giờ, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất : tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.

40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng : “Ông là Con Thiên Chúa !” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.

42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.