Duyên nợ với Bạc Liêu – Đoàn xuân Thu

 Đoàn xuân Thu

Chùa Quan Vân Trường của người Hoa tại Bạc Liêu xưa – Nghe cái tên thôi là đã thấy… nghèo! Một chữ “bạc” là đã lạt lẽo, nhạt nhẽo, lại thêm “liêu” nghe buồn hiu như quán rượu đầu sông vắng khách. Nói gì thì nói, ai đặt tên cho xứ này chắc lúc đó chưa trúng số. Ấy vậy mà lạ nha! Ở đời, có những cái tên nghe nghèo nhưng ở bên trong… giàu hết biết. Và Bạc Liêu chính là một trong những cái “giả bộ nghèo ”như vậy đó

  1. Cái tên nghe buồn… nhưng đầy duyên nợ.

Ai từng nghe câu này thì biết:

“Bạc Liêu là xứ quê mùa.

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.”

Nghe qua tưởng người Bạc Liêu tự chê mình quê mùa, nghèo xơ xác. Nhưng nếu bạn tin vậy, thì bạn bị người ta “gài độ” rồi đó nghen!

Câu này không phải tự ti, mà là một đòn “tự trào”, kiểu “giả ngu để thiên hạ tưởng thiệt”. Chứ thực ra, cái quê mùa đó là quê mùa sang chảnh, quê mùa có phong cách, quê mùa mà ăn cơm có người bưng, nước mắm riêng từng dĩa nhỏ

Bạc Liêu

2. Bạc Liêu – cái tên không có trong từ điển… tiếng Việt!

Nhiều người tưởng “Bạc Liêu” là chữ Hán Việt, kiểu như “Bạc” là bạc tiền, “Liêu” là nhà lều – nghĩa là nhà nghèo. Tưởng vậy thì… trật lất!

Sự thật là “Bạc Liêu” không có nghĩa gì trong tiếng Việt cả, mà là âm Việt hóa của tiếng Triều Châu (Chaozhou – người Hoa gốc ở miền Nam Trung Quốc). Gốc từ này là “Po-Liêu”, có nghĩa là dòng nước lớn, chảy xiết. Người Hoa đọc “Po-liêu”, người Việt nghe quen tai, đọc chệch thành… “Bạc Liêu”.

Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó. Như kiểu ông Sáu nói “sà lang” thành “xà lạng”, hay bà Bảy gọi “champagne” là “chàm panh”. Miễn hiểu nhau là được.

 3. Dưới sông cá chốt.

Cá chốt – nhỏ xíu, mình tròn, da trơn, nhưng kho lên thì ngon bá chấy bù chét

Ở Bạc Liêu, cá chốt không chỉ là cá để ăn mà là ký ức, là chất mặn mòi của đồng, của ruộng!

Hồi đó, mưa xuống là cá chốt bầy kéo nhau lên đồng, bắt bằng tay không cũng được tuốt. Kho với me, kho tiêu, nấu canh chua, nướng mọi – ăn riết mà nhớ đời.

Vậy nên “dưới sông cá chốt” không phải chê nghèo, mà là tuyên ngôn mộc mạc của sự sống ngon, sống thật. Không cần yến sào, vi cá mập, tôm hùm gì ráo. Cá chốt kho tiêu ăn cơm nguội thôi cũng quá đã trong một buổi chiều mưa.

Bạc Liêu xưa.

4.Trên bờ Triều Châu.

Bạc Liêu là đất của người Triều Châu – dân buôn bán, làm ăn siêng năng, thức dậy lúc gà chưa gáy, đóng cửa lúc trăng đã nghiêng. Từ tiệm vàng đến quán tàu hủ, từ rạp chiếu bóng tới xưởng nước đá, đâu đâu cũng có người Triều Châu góp mặt.

Nhưng cái hay là họ giàu mà không khoe, ở nhà gạch bông, đội mũ cối, đi xe đạp sơn lại hai màu, nhưng trong túi có thể rút ra tờ giấy bộ lư như chơi.

Nói “trên bờ Triều Châu”! Tiều trên bờ đâu mà đông như cá chốt dưới sông vậy?

Có người còn nói giỡn “Bạc Liêu không có Triều Châu là… không còn Bạc!” Bạc là kim loại quý sau vàng.

5.Mưa, lý, và sự lâm râm của tâm hồn phương Nam**

Ở Bạc Liêu, trời mưa không phải để lạnh, mà để buồn. Mưa ở đây gọi bằng nhiều tên lắm: mưa lâm râm, mưa bong bóng, mưa dầm, mưa thúi đất, mưa gió chướng, mưa đầu mùa, mưa trái mùa… Nhưng dù tên gì thì mưa cũng ướt lòng chứ không chỉ là ướt áo.

Và mỗi lần mưa, người ta hát lý.

“Lý Con Sáo Bạc Liêu” bay ngang đồng vắng.”Lý Chiều Chiều” rớt vô quán cà phê đầu xóm. “Lý Bạc Liêu” ngân nga trong cải lương “Dạ cổ hoài lang”.

Mỗi điệu lý là một cách người ta nói chuyện tình mà không bị vợ ghen bóng, ghen gió. Vừa hát vừa tự nhiên như ngưòi “Hà Lội” ngó qua nhà vợ thằng hàng xóm. Gặp ai biết đàn guitar phím lõm cỡ con của Văn Vĩ thì thôi rồi Lượm ơi– lý tới sáng, lý tới khi trời mưa ngừng mà tim còn lâm râm không cho ai ngủ nghê gì hết ráo hè!

Bạc Liêu ngày nay không còn quê mùa như xưa cách nay nửa thế kỷ nữa, (dĩ nhiên). Đèn đường sáng, cầu bê tông bắc tới ruộng, công viên có nhạc nước, quán nhậu mở tới 2 giờ sáng cho mày xỉn chết cha mày luôn. Nhưng cái tình của đất, cái lý của người, cái duyên của giọng nói, cái âm của con sáo thì vẫn còn nguyên.

Tên gọi “Bạc Liêu” là một minh chứng tuyệt vời cho triết lý sống của người miền Tây:

**Nghe thì tưởng nghèo, nhưng chơi thì hết biết. Thấy thì tưởng lạt, nhưng ăn thì đậm đà. Nói thì tưởng chơi, nhưng nghe kỹ… là triết lý.

Cuối cùng bạn hỏi tui: “Bạc Liêu là gì?”

Tui trả lời: “Bạc Liêu là một cái tên không có nghĩa rõ ràng, nhưng nghĩa tình thì rõ ràng quá chừng.”

Bạn muốn tìm nghĩa? Mời xuống miền Tây một bữa, đứng dưới mưa ướt dầm bông sói, nghe con sáo nó lý thử coi!

“Lý con sáo bay xa, lý con sáo bay về…”*

Còn tui xa Bạc Liêu đã 30 năm và tui xin bắt chước nhà thơ Nguyễn Bính:

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

 Tác giả: Đoàn Xuân Thu 

From: Tu- Phung

Châu Mỹ và Christopher Columbus – Trần Lý Lê

Trần Lý Lê

Christopher Columbus. (Hình: Wikipedia.org)

13 Tháng Mười năm nay, niên lịch không còn ghi nhận ngày Columbus và không còn là một dịp “nghỉ lễ” nữa.

Người địa phương (ngày trước bị miệt thị là “thổ dân da đỏ”) phản đối suốt mấy chục năm mới thành công. Tôn vinh ông Columbus và cuộc xâm lăng châu Mỹ là một sự sỉ nhục cho tổ tiên họ. Đang sinh sống trên đất nước thì bị đám người tay súng tay dao kéo đến tàn sát và tròng lên cổ người địa phương [thua trận] cái ách nô lệ. Họ phản đối vì lịch sử méo mó “làm đẹp” cho chuyện ngày xưa dù biết bao nhiêu chi tiết về cuộc xâm lăng [của người châu Âu] vẫn còn rành rành chưa mất hết dấu vết. Vì “yếu sức” nên “yểu mạng.” Người địa phương thủa ấy sống phây phây, đâu cần ai khai phá, dạy dỗ nếp sống văn minh kiểu Âu Châu!

Chuyện ông Columbus “khám phá” ra châu Mỹ là chuyện khá cũ, lịch sử viết bởi kẻ chiếm đất. Ông ấy được xem như nhà thám hiểm hàng đầu trong sách vở Âu Mỹ. Thế rồi người đời sau cũng tìm ra ít nhiều chi tiết về chuyến vượt biển lạc đường của ông ấy và con cháu kẻ chiếm đất cũng phải nhìn nhận việc làm [bất nhân] của ông cha mà tạ lỗi với người địa phương. Đầu tiên là chấm dứt việc vinh danh kẻ dẫn đầu [dù hoàng gia Tây Ban Nha đứng sau tài trợ, cung cấp tiền bạc, binh lính, thuyền bè…] chuyến “thám hiểm.” Mãi đến năm nay, niên lịch Huê Kỳ mới vắng bóng chữ “Columbus Day” và một vài cuốn lịch đã dùng “Native American Day” để ghi nhận sự hiện diện của “chủ đất” dù rất muộn màng.

Tất nhiên tại quê nhà xứ Tây Ban Nha bên kia biển rộng, xứ sở ấy vẫn vinh danh ông Columbus. Ông qua đời năm 1506 tại Valladolid, Tây Ban Nha nhưng lại dặn dò con cháu là rinh hài cốt qua đảo Hispaniola, ngày nay là lãnh thổ chung của hai quốc gia Dominican Republic và Haiti.

Đến năm 1542 thì ông được như ý nguyện, nhưng rồi không hiểu tại sao mồ mả lại bị đào lên để chuyển sang Cuba năm 1975 và sau cùng năm 1898, lại đưa về Seville, Tây Ban Nha đặt trong nhà thờ chính tòa của thành phố. Có lẽ đây là thành phố đẹp nhất của Tây Ban Nha theo ý riêng, còn giữ được đầy đủ dấu vết của người xưa kể cả kẻ đã một thời chiếm giữ vùng đất ấy.

Hồi nẳm phe ta ghé qua Seville có đến nhà thờ và nhìn ngắm mộ nổi của Columbus, lần đầu thì vô cửa tự do nhưng lần thứ nhì ghé nhà thờ sau thánh lễ thì phải mua vé đàng hoàng!

Lăng mộ đặt trên bệ cao có những bức tượng “canh gác” chung quanh, cung cách lưu trữ hài cốt ngang hàng với vua chúa thì ta hiểu rằng người Tây Ban Nha nhớ công ơn ông.

Là người dẫn đầu các cuộc khám phá châu Mỹ của người Âu Châu nên cư dân ở bển có khuynh hướng nhận người sang làm họ. Kẻ nói rằng ông Columbus gốc gác từ Genoa, Ý; người lại cãi là ông là người Hy Lạp, Tây Ban Nha gốc Do Thái, gốc Bồ Đào Nha, hoặc gốc Anh?

Tranh luận mãi nên sau cùng, người ta lấy ra một mảnh xương từ quan tài tại Seville đem đi thử nghiệm di tính, DNS. Theo truyền thống Á Châu, ông Columbus là người bất hạnh, thân xác cứ bị đào xới, cắt cứa lu bù cả mấy trăm năm sau ngày qua đời. Mãi không yên. Nổi danh quá cũng … khổ?

Nhóm chuyên viên Tây Ban Nha, sau 22 năm nghiên cứu, Miguel Lorente, người dẫn đầu chương trình tìm kiếm, so sánh DNA từ hậu duệ, mới công bố kết quả qua chương trình truyền hình “Columbus DNA: The true origin.” Qua DNA của người con trai, ông  Hernando Colón, các di tính của họ tương đồng với nguồn gốc Do Thái.

Trong thế kỷ XV, khoảng 300,000 người Do Thái sinh sống tại Tây Ban Nha cho đến khi triều đại Isabella & Ferdinand ép buộc di dân Do Thái và tín đồ Hồi giáo cải đạo, phải theo Thiên Chúa giáo bằng không chịu trục xuất. Nhóm người “tân tòng” này được gọi “Reyes Catolicos.” Những người Do Thái [từ Tây Ban Nha] tản mát khắp nơi để duy trì đức tin và giòng dõi có tên “Sefarad” (Spain theo Hebrew); gốc của chữ “Sephardic,” Sephardic Jews.

Ông Lorente còn nói thêm rằng sau khi thẩm định kỹ lưỡng các chi tiết về nơi ra đời, khoảng 25 địa phương được cho là nơi sinh của nhà hàng hải, và cuối cùng, vùng Tây Âu được chọn, nghĩa là không gọi đích danh một nơi nào.

Sự say mê (hay tò mò?) về nhà thám hiểm không ngừng ở nơi sinh, gốc gác mà còn kéo theo nhiều thứ khác như thư từ của ông ấy cũng được sưu tầm, lưu trữ và buôn bán.

Năm 2020, cơ quan di trú và quan thuế (Immigration and Customs Enforcement – ICE) và bộ Tư Pháp Huê Kỳ công bố đã tịch thu được một lá thư (bản in) của ông Columbus gửi cho các chức sắc Ý trong thế kỷ XV. Lá thư này nằm trong bộ sưu tập của Biblioteca Nazionale Marciana tại Venice, Italy; bị đánh cắp trong thập niên 80 của thế kỷ trước. Lá thư qua tay nhiều người sưu tầm và cuối cùng trong tay của một nhà sưu tầm cổ thư tại Hoa Kỳ. Ông này mua lại lá thư vào năm 2003.

Tháng Bảy năm 2023, giám đốc ICE, ông Patrick J. Lechleitner, “khiêng” lá thư qua Rome, hoàn trả chính phủ Ý theo thỏa thuận quốc tế, không giữ vật bị đánh cắp. Của Cesar trở về với Cesar. Theo ông Lechleitner, trong mấy chục năm qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ tịch thu được các bản in của lá thư đã bị đánh cắp. Các bản in khác đã được hoàn trả thư khố Vatican City năm 2018, thư viện của thành phố Florence, Ý và Library of Catalonia, Tây Ban Nha.

Lá thư viết bằng chữ La Tinh năm 1493, là một trong 30 lá thư còn sót lại của ông Columbus gửi vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella (hoàng gia Tây Ban Nha) kể chuyện khám phá đất mới. Đây là bản in Plannck I edition, theo tên gọi của nhà in nổi danh Stephan Plannck người đã phát hành hai bản in của lá thư [gốc] trên 500 năm về trước. Cổ thư và phó bản rất quý hiếm, được sử gia và những người sưu tầm tìm kiếm nên thường bị đánh cắp [để bán buôn]. Bản in kể trên trị giá khoảng $1.3 triệu.

Những “cái quạt” xem ra bị thu hút mạnh mẽ bởi người nổi tiếng, bất kể tiếng thơm hay tiếng không thơm, rồi mày mò tìm kiếm cũng như thu nhặt di vật liên quan đến người nổi tiếng nọ. Ông cụ Columbus cũng không ngoại lệ, mồ mả bị đào xới, di hài bị cưa cắt săm soi, vật dụng cá nhân bị (được) truyền tay, con cháu được phỏng vấn (hay bị căn vặn?) đến nơi đến chốn để tìm ngọn ngành mà viết thành lịch sử và những câu chuyện bên lề.

Phe ta cũng là người khá tò mò, khách hàng của những câu chuyện lịch sử, đã tiếp tay phần nào cho những… đào xới kể trên nên có chút áy náy. Các câu chuyện lịch sử về thổ dân châu Mỹ từ những chuyến đi Peru, Guatemala, El Salvador, Berlitz, Honduras xem ra vẫn chưa đủ… cân bằng.

Trần Lý Lê

 – 21 tháng 9, 2025

From: taberd & NguyenNThu

Sức mạnh của im lặng và lòng nhân ái

 Gieo Mầm Ơn Gọi

Trong cuộc sống, ai cũng có lúc muốn lên tiếng, muốn thể hiện quan điểm, muốn chứng minh mình đúng. Nhưng đôi khi, sự thật đơn giản và sâu sắc nhất lại nằm ở chỗ: nếu không thể nói điều gì tốt đẹp, thì hãy im lặng.

  1. Lời nói – con dao hai lưỡi

Lời nói có thể nâng con người ta lên, cũng có thể kéo người ta xuống tận cùng đau khổ. Một lời động viên đúng lúc có thể vực dậy cả một trái tim đang tuyệt vọng. Ngược lại, một lời cay nghiệt, một câu châm chọc, có thể khiến ai đó gục ngã.

Thế nên, im lặng không phải là yếu đuối. Im lặng là sự lựa chọn của người biết cân nhắc, biết rằng một lời nói sai có thể gây thương tổn lâu dài hơn cả một vết thương trên thân thể. Người trưởng thành không phải là người nói nhiều, mà là người biết khi nào nên nói, khi nào nên im lặng.

  1. Không giúp được thì ít nhất đừng hại

Trong hành trình đời, không ai bắt buộc chúng ta phải luôn giúp đỡ người khác, vì đâu phải lúc nào mình cũng có khả năng. Nhưng có một nguyên tắc cơ bản của nhân cách: nếu không thể giúp, thì đừng làm tổn hại.

Một người buôn bán, thấy hàng xóm khó khăn, nếu không chìa tay giúp, thì cũng đừng vì ganh ghét mà tìm cách chèn ép. Một người đồng nghiệp, nếu không thể nâng đỡ, thì chí ít cũng đừng đạp người ta ngã xuống.

Bởi vì, khi ta làm tổn thương người khác, cái ta gieo ra không chỉ là nỗi đau cho họ, mà còn là một hạt giống xấu trong tâm mình, đến lúc nào đó sẽ quay lại. Nhân quả vốn không bỏ sót một ai.

  1. Giá trị của sự tử tế giản đơn

Đừng nghĩ tử tế là những điều to tát. Đôi khi, chỉ cần im lặng đúng lúc cũng là một sự tử tế. Chỉ cần không làm tổn thương người khác, cũng đã là một dạng nhân đức.

Xã hội sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao, nếu mỗi người kìm lại một câu nói xấu, một hành động gây hại. Bởi sống tử tế chưa chắc đã khiến mình giàu có, nhưng chắc chắn sẽ khiến mình thanh thản.

  1. Lời nhắn nhủ cuối cùng

Cuộc đời vốn ngắn ngủi, thời gian gặp gỡ nhau cũng chỉ là thoáng qua. Vậy thì thay vì gieo những vết thương, ta hãy để lại những kỷ niệm đẹp. Thay vì làm tổn hại nhau, ta hãy cùng nhau tạo nên một môi trường sống đầy nhân ái.

Nếu bạn có thể nói lời tử tế, hãy nói. Nếu bạn có thể giúp đỡ, hãy giúp. Còn nếu không, hãy chọn im lặng, và đừng làm tổn thương bất cứ ai. Đó đã là một sự cao quý.

Tú Tony


 

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Chân Trời Mới Media

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Không nói tới những bịnh nhân (hay người nhà) hung hăng, những bác sĩ dùng bạo lực, mình chỉ xét chung những người bình thường không quá khích, nóng nảy hoặc xấu tính.

Bác sĩ là người cung cấp dịch vụ, bịnh nhân là khách hàng, nhưng đây là dịch vụ đặc biệt liên quan đến sức khỏe, tính mạng nên nên đặc biệt hơn những dịch vụ khác, cả hai bên đều có mối quan tâm rất nhiều đến y đức, lương tâm nghề nghiệp, ơn nghĩa cứu mạng, “thiên chức” v.v…

Trong mối quan hệ này thì người bịnh là người bị động. Người bịnh không có chuyên môn, không có hiểu biết nên mọi việc đều phó thác cho bác sĩ: chẩn đoán, điều trị và kết quả.

Ngày xưa, nửa thế kỷ trước, thuở chưa quá độ lên XHCN thì ở miền Nam này bịnh nhân gần như tin tưởng tuyệt đối vào bác sĩ, cũng chính là tin vào tay nghề, vào lương tâm của bác sĩ. Bác sĩ tận nhân lực thì bịnh nhân tri thiên mạng, hiếm khi trách móc hay nghi ngờ bác sĩ.

Ngày nay sau nửa thế kỷ độc lập thống nhứt tiến lên XHCN thì mối quan hệ bác sĩ và bịnh nhân ngày càng tệ. Bịnh nhân  ngày càng mất lòng tin nơi bác sĩ và bác sĩ thì coi bịnh nhân là chỗ để kiếm tiền! (Dĩ nhiên bác sĩ và bịnh nhân đều có this có that)

Nói có sách mách có chứng. Năm ngoái, cách nay đúng một năm ba tui ngã bịnh. Gia đình đưa vô bv tư gần nhà thì bs KHÔNG chẩn đoán ra manh mối gì. Ông cụ tiểu ra máu mà bs cứ hỏi dồn là ông đi cầu ra máu phải không? Ông nhớ lại coi! Ông cụ lớn tuổi, lúc quên lúc nhớ nên bị dồn thì liền ừ theo bs. Thế là bs ghi bịnh án viêm tắc ruột.

Khi tui từ xa về tới nơi liền chuyển cụ vào bịnh viện tỉnh. Vô đó xét nghiệm, siêu âm, chụp CT suốt một buổi chiều thì bs chẩn đoán là có khối u ruột, phải mổ (bs có dựa vào chẩn đoán của bv tư khi chuyển viện). Tui không tin vì cụ không hề có triệu chứng gì về tiêu hóa trước đó, vẫn ăn ngon tiêu hóa tốt.

Cụ phát bịnh buổi sáng, cả ngày xét nghiệm chụp chiếu thì chiều tối có kết luận như trên. Tối tui lại thấy cụ tiểu ra máu và bàn tay chỗ ghim truyền dịch bị bầm đen nên báo bs, khi đó bs mới làm thêm xét nghiệm, hội chẩn và báo là cụ bị rối loạn đông máu (RLĐM). Thế nhưng bv vẫn đưa cụ lên khoa ung bướu để chữa RLĐM xong rồi mổ. Tui bèn xin chuyển viện lên Chợ Rẫy.

Lên bv CR, vô khoa cấp cứu. Các bs ở đây chỉ dựa vào các kết quả cận lâm sàng ở bv tỉnh đưa lên là chẩn đoán ngay bịnh RLĐM, hoàn toàn KHÔNG có u iếc gì ở ruột!

Điều trị ở khoa huyết học BVCR được đúng một tuần là ba tui hoàn toàn hết bịnh và hết luôn tới bây giờ. Từ ngày ra viện bs dặn không cần tái khám. Tui tâm phục khẩu phục bs phòng cấp cứu ở CR quá giỏi quá kinh nghiệm, chẩn đoán đúng cái “bụp” từ những dữ liệu mà bv tỉnh đã chẩn đoán không ra. Khi điều trị ở khoa huyết học thì bs cũng thường xuyên xét nghiệm để đánh giá kết quả điều trị.

Nhìn ngoài xã hội thì vừa rồi có vụ ở bv đa khoa Tây Nguyên, máy tán sỏi hư mà bv vẫn tán cho vài trăm bịnh nhân suốt hai năm. Vụ này rõ là bác sĩ nói trời bịnh nhân hay trời, nói đất bịnh nhân hay đất. Không có sỏi mà bác sĩ phán có để tán thì cũng đành phải chịu thôi!

Chuyện cũ thì có vụ bịnh viện Bạch Mai lấy một kết quả xét nghiệm rồi sao y ra cho hàng hà sa số bịnh nhân. Mày bịnh gì kệ mày, tao đưa kết quả ma vậy đó, mày đâu có trình độ về y khoa đâu mà biết, sống chết có số nghe con!

Và còn bao nhiêu vụ chưa bị khui? Dù khui hay chưa tui cũng không dám tin cái ngành y của xứ mình mà cứ phải tin khả tin phòng khả phòng!

Nằm bịnh ở bịnh viện Chợ Rẫy là một cơn ác mộng thật sự, có dịp tui kể sau. Thật thương cho bác sĩ và bịnh nhân ở CR, ai cũng khổ quá khổ. Muốn hiểu đời là bể khổ nghĩa là gì thì vô Chợ Rẫy!

Hình: may quá, tui mần thú y, đỡ nhức đầu hơn bác sĩ trong thời buổi nhiễu nhương này!

BS Hồ Phương Trinh

Hình: admin

May be an image of ‎one or more people and ‎text that says '‎ا" #chan l0 moi media THIẾU Y ĐỨC, BỆNH NHÂN NGHÈO LÀ NẠN NHÂN CHỊU KHỔ NHIỀU NHẤT‎'‎‎


 

Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul)- Cha Vương

Hôm nay 27/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul), nguyện xin thánh nhân chuyển cầu cho Bạn và gia đình nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 27/09/2025  t4-23

Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập tu hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập tu hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Ki-tô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Ki-tô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.

Khi gần chết, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con đã làm những việc theo lệnh Chúa, nay xin Chúa ban cho con những gì Chúa đã hứa.” Ngài đã an nghỉ trong Chúa vào ngày 27 tháng 9 năm 1660, lúc 80 tuổi.

    Đức Giáo Hoàng Lêô 13 tôn thánh Vincent làm bổn mạng các hội Từ thiện Công Giáo. Ngày nay trên thế giới , hội Bác ái Vinh sơn đã lan tràn rất nhiều nơi.

       Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, Bạn hãy bỏ ra mấy phút để đọc và lắng nghe coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì mà đến gần với Chúa hơn.

(1) Anh em hãy nhớ rằng cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống hoạt động; chứ không phải chỉ là lời nói và mộng mơ.

(2) Vũ khí mạnh nhất để chống lại ma quỷ là đức khiêm nhường. Bởi vì, như ma quỷ không có bất cứ một ý niệm nào về sự “khiêm nhường” thì ma quỷ cũng không biết làm thế nào để rũ bỏ sự “khiêm nhường”.

(3) Chúng ta nên đơn giản trong tình cảm, ý tưởng, hành vi và ngôn từ, chúng ta nên làm những gì chúng ta thấy không có sự giả tạo hoặc lừa lọc trong đó. 

(4) Tôi ước muốn từng giây phút quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tôi cũng như mọi người sử dụng một cách tốt nhất.

(4) Trên thiên đàng chúng ta sẽ nghỉ ngơi.

(5) Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu (3) và (4) 

From: Do Dzung

***********************

NHẠC THÁNH CA VPV || XIN ƠN KHIÊM NHƯỜNG

VỰC THẲM-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn!”.

“Một thế giới của những người tử tế – vốn chỉ hài lòng về sự tốt đẹp của họ – sẽ rất cần cứu rỗi như một thế giới khốn khổ – và thậm chí có thể khó cứu hơn!” – Charles Hodge.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay cho biết, chính sự tự mãn của những con người tử tế đã âm thầm đào nên những ‘vực thẳm’ ngăn cách họ với Chúa, ngăn trở họ với tha nhân.

Đó không chỉ là khoảng cách giữa thiên đàng – địa ngục, mà còn là khoảng trống vô hình giữa một con tim tự mãn và tình yêu của Thiên Chúa. Người phú hộ của dụ ngôn dường như đã được Amos phác thảo từ ngàn xưa, đó là “lũ quân phè phỡn” “nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ”, chỉ biết “sống an nhiên tự tại” cho bản thân mà quên bẵng những người cùng khổ – bài đọc một. Vậy mà Thiên Chúa của Cựu Ước và Tân Ước chỉ là một, “Ngài là Vua các vua, Chúa các chúa” – bài đọc hai – Đấng sẽ hạch tội những kẻ vị kỷ và phục hồi phẩm giá hạng cơ bần, “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, “Đấng cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên” – Thánh Vịnh đáp ca.

Người giàu này quả là ‘tử tế’; ít là ông không ác tâm, không hại ai. Kết thúc cuộc đời, ông cam phận cách nhu mì; ông không yêu cầu rời khỏi địa ngục, chỉ xin vài giọt nước để làm dịu cơn khát đang cháy bỏng. Và khi không được đáp ứng ‘nhiều’ đến thế, ông xin nhắn về gia đình, với hy vọng năm anh em của ông sẽ không chịu chung số phận. Tuy nhiên, tất cả những điều ‘tử tế’ đó vẫn không cứu được ông. Vậy chỉ cần ‘tử tế’, tôi sẽ đạt thấu thiên đàng? Không đâu! “Lòng trắc ẩn không chỉ là cảm thông, mà là hành động để xoa dịu nỗi đau!” – Desmond Tutu.

Điều đáng trách của người phú hộ là dường như ông không bao giờ bận tâm đến sự có mặt của Lazarô. Ông không đuổi, nhưng ông ‘không thấy’ Lazarô; phải chăng khẩu độ ‘vực thẳm’ giữa ông và người nghèo là quá lớn! Đó là tội thiếu sót. Ông mất linh hồn không vì những gì đã làm, mà vì những gì đã không làm! “Bạn có thể chọn ngoảnh mặt đi, nhưng không bao giờ có thể nói rằng mình không biết!” – William Wilberforce.

Anh Chị em,

Bỏ qua một người nghèo là tạo thêm một ‘vực thẳm!’. Nhiều người thường vờ như không thấy người nghèo; với họ, người nghèo không tồn tại. Vậy mà, không một sứ giả nào, không một sứ điệp nào có thể thay thế những người nghèo mà chúng ta gặp trên đường đời; bởi chính trong họ, Chúa Giêsu đến gặp chúng ta. Người phú hộ không có lỗi gì, nhưng hầu như ông nhìn Lazarô chỉ như một vật trang trí cho cảnh quan xa hoa nhà mình; ông bỏ qua giới răn trọng nhất. Đừng quên, Lazarô không chỉ là những người ngoài cánh cổng; nhưng còn là những người thân trong gia đình, trong cộng đoàn mình. Hãy sống làm sao để đừng hối tiếc vì đã không làm nhiều hơn cho họ! “Nếu bạn không nhận ra Đức Kitô nơi người ăn xin trước cửa nhà thờ, bạn cũng sẽ không gặp Ngài trong chén thánh!” – Gioan Kim Khẩu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con nhận ra chính Chúa trong những người con dễ bỏ qua, để mỗi ngày là một bước con lấp đầy ‘vực thẳm’ bằng lòng thương xót!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 16,19-31

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.’

27 “Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !’ 29 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ 30 Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ 31 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’.”


 

THÁNH MICHAEL TỔNG LÃNH THIÊN THẦN- Cha Michael Joseph Hurley, OP

 Cha Michael Joseph Hurley, OP 

Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần, một hậu vệ mạnh mẽ trong tất cả các trận chiến.

Vào lúc 1949:10 tối, thứ Hai Phục Sinh năm 45, các linh mục đã thực hiện lễ trừ tà của một thanh niên tên là “Robbie” đã có một bước đột phá.  Được sở hữu bởi mười con quỷ, Robbie đã bị ám ảnh trong nhiều năm sau khi sử dụng bảng Ouija để liên lạc với người bà đã khuất của mình.  Sau nhiều tháng trừ quỷ, các linh mục đã cầu khẩn Thánh Michael để đuổi quỷ.  Đột nhiên, một giọng nói tự nhận mình là Thánh Michael ra lệnh cho lũ quỷ khởi hành.  Theo lời kể của những người chứng kiến, Robbie lên cơn co giật dữ dội và những con quỷ bỏ đi với một “âm thanh bùng nổ.”  (Các linh mục đang cầu nguyện Văn phòng Thần thánh trong một nhà thờ gần đó cũng nghe thấy tiếng “bùng nổ âm thanh” này và nhìn thấy một thứ ánh sáng lạ thường chiếu sáng cả nhà thờ.)  Khi Robbie thoát ra khỏi trạng thái mê man, anh ta kể lại việc anh ta đã nhìn thấy Thánh Michael đánh bại Satan như thế nào trong một trận chiến cho linh hồn của mình.  Mặc dù nhiều người biết câu chuyện này qua cuốn sách và bộ phim nổi tiếng năm 1970 dựa trên những sự kiện có thật này, nhưng vai trò của Thánh Michael phần nào bị tắt tiếng trong các tài liệu hư cấu.

 Vì lý do này, lời cầu nguyện với Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần là một phần thiết yếu của sức khỏe tâm linh của chúng ta.  Ban đầu được rút ngắn từ sáng tác mạnh mẽ hơn của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII mà ngài buộc phải chấp bút sau kinh nghiệm huyền bí rắc rối của mình với “làn khói của quỷ Satan,” lời cầu nguyện đơn giản này tạo ra sức mạnh và sự bảo vệ thiêng liêng năng động, cả trong cuộc sống của chúng ta và trong cuộc sống của Giáo hội.  Khi có rất nhiều cuộc đấu tranh trong cuộc sống của gia đình và nền văn hóa của chúng ta, sự bảo trợ của Thánh Michael sẽ kích hoạt toàn bộ nguồn lực của vật chủ trên trời.  Thánh Phao-lô nói rõ rằng mọi cuộc đấu tranh, dù trần tục đến đâu, đều có chiều kích thuộc linh (Ê-phê-sô 6:12).

 Thế giới tâm linh, như một số người có thể nghĩ, không phải là một thế giới của ánh sáng và sự tốt lành rõ ràng.  Có một khía cạnh bất chính của thế giới tâm linh, nơi gieo mầm của hỗn loạn, bạo lực và bóng tối.  Cái ác thoát ra trước tiên, và chủ yếu, trong lĩnh vực tâm linh.  Dù chúng ta gặp khó khăn gì, Thánh Michael cho phép chúng ta linh hoạt các cơ tâm linh của mình và chúng ta cảm nhận được sự trợ giúp của ngài theo nhiều cách.

 Một cách cụ thể là cách Thánh Micae giúp chúng ta vượt qua cám dỗ hàng ngày và trưởng thành trong nhân đức.  Hãy xem xét câu chuyện về nguồn gốc của Thánh Michael từ Kinh thánh và Truyền thống (Ê-sai 14:12, Khải Huyền 12).  Trong cuộc biến động vũ trụ đầu tiên giữa Đức Chúa Trời và sự sáng tạo của Ngài, khi Sa-tan thách thức Đức Chúa Trời và báng bổ Danh Thánh, người lãnh đạo của chủ nhà trên trời đáp lại: “Ai giống như Đức Chúa Trời?” bằng tiếng Do Thái, Mikha’el. 

 Câu hỏi tu từ đầu tiên trong lịch sử là cái tên Michael.  Tên này cho thấy khả năng khiêm tốn khi nó được pha trộn với lòng dũng cảm.  Để chống lại sự kiêu ngạo bắt nguồn từ cái tôi (trung tâm của tội lỗi luôn là “Tôi”), Michael thể hiện sự khiêm tốn vốn là nền tảng của đức hạnh.  Khiêm tốn nhìn nhận rằng chỉ một mình Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự sống và hạnh phúc.  Không có Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.  Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, khiêm tốn là bước đầu tiên dẫn đến chiến thắng của chúng ta trong trận chiến của lòng ích kỷ.  Ngoài ra, để chống lại một loại khiêm tốn giả tạo, Michael thể hiện một lời can đảm.  Sự khiêm tốn giả tạo cho rằng chúng ta bất lực trong các cuộc đấu tranh tinh thần.  Rốt cuộc, chúng ta là ai để chiến thắng ma quỷ, ai là người có sức mạnh vượt quá sức mạnh của chúng ta.  Tuy nhiên, lòng can đảm nhận ra rằng với Chúa, chúng ta có thể làm bất cứ điều gì.  Không có gì là không thể đối với Chúa, và Thánh Michael đã dứt khoát hạ gục các vật chủ của ma quỷ bằng sức mạnh thần thánh chảy qua người.

 Nếu chúng ta muốn đứng vững để vượt qua những cám dỗ hàng ngày, nếu chúng ta muốn chiến thắng sự ích kỷ của mình, nếu chúng ta muốn quyền năng của Thiên Chúa phát triển trong chúng ta ngay cả khi đối mặt với những tình huống vô vọng nhất, thì lòng can đảm khiêm tốn của Thánh Michael đã mang lại cho chúng ta tên và sự bảo trợ, chúng ta nên gọi cho ai.  Khi ai đó yêu cầu tôi một cách đơn giản để họ có thể lớn lên trong sự thánh thiện và hạnh phúc, tôi luôn đề nghị cầu nguyện với Thánh Michael hàng ngày.  Thánh Michael rất mong muốn được đồng hành với chúng ta trong những cuộc đấu tranh hàng ngày, vì vậy chúng ta hãy mạnh dạn cầu xin!

 Cha Michael Joseph Hurley, OP

 Kinh Cầu Cùng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae

 Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, xin giúp chúng con trong cơn giao chiến, đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỷ dữ.  Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó, cùng xin nguyên soái cơ binh trên trời, lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỷ dữ, đang rong ruổi khắp thế giới làm hại các linh hồn, bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen.

From: Langthangchieutim


 

NÔNG DÂN CAN TRƯỜNG- Huynh Ngoc Chenh

Huynh Ngoc Chenh

Hôm nay tòa án Đà Nẵng đưa người nông dân can trường hiếm có Trịnh Bá Phương ra xét xử vì đã viết mảnh giấy nhỏ “đả đảo cộng sản” cất trong phòng giam.

Án chắc đã có sẵn, án chồng lên án 10 năm tù giam và 5 năm quản chế mà người thanh niên nông dân can trường này đã lãnh trước đó vì dũng cảm đứng lên giữ đất cùng gia đình.

Hồi đảng nổi dậy chống Pháp rồi đánh Mỹ rất cần những người nông dân can trường như thế, chính họ đã không biết sợ gì, sẵn sàng lao vào lửa đạn, vượt qua tra tấn, chịu dựng đau đớn và hy sinh cả tính mạng để giúp đảng cộng sản đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Không có những người nông dân tinh hoa can trường này, đảng sẽ chẳng làm được gì nên chuyện để có như ngày hôm nay.

Hồi đó nông dân can trường nhiều lắm, bây giờ sau 80 năm, chẳng còn nhiều, có thể kể hết ra đây được vài dòng.

Đó là gia đình chị Cấn Thị Thêu với hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư cùng với chị Nguyễn Thị Tâm ở Dương Nội. Đó là anh em Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, đó là tập thể dân làng Đồng Tâm đứng dầu là gia đình cụ Kình …

Những người đó là tinh hoa của đất nước, là gen trội của dân tộc, lẽ ra phải được nuôi dưỡng để phát huy và nhân rộng. Nhưng không, cụ Kình đã bị bắn chết, con cháu cụ bị xử tử hình hoặc bị tù đày đến chung thân, anh em Đoàn Văn Vươn cũng phải đi tù vài năm suýt tiêu tan gia đình và của cải, còn gia đình chị Cấn Thị Thêu và chị Nguyễn Thị Tâm vẫn còn chịu án tù lâu dài.

Đảng bây giờ đã có được giang sơn rồi nên đảng không cần những người nông dân can trường dũng cảm nữa, đảng cần những người nông dân sợ hãi và tuân phục luôn chấp hành mọi mệnh lệnh của đảng dù đúng hay sai. Quân xử thần tử thần bất tử bất trung.

Ngày xưa phải chống lại Tây Sơn để phục hồi ngai vàng của dòng họ, Nguyễn Ánh đã ra sức xúi giục, chiêu dụ, tập hợp những người nông dân can trường, bỏ vợ con, ruộng vườn để đi theo ông. Không có những người nông dân can trường phản kháng chế độ Tây Sơn thì Nguyễn Ánh không thành vua Gia Long.

Sau khi cướp được chính quyền khôi phục được ngôi vàng của tổ tiên, vua Gia Long và con cháu ông không cần những người nông dân phản kháng và can trường nữa, triều đình chỉ cần những người nông dân tuân phục để dễ cai trị và quan trọng là để bảo vệ muôn năm ngai vàng dòng họ Nguyễn.

Những hình phạt nặng nề du nhập từ các triều đại phong kiến phương Bắc được áp dụng để đe nẹt, trấn áp, dập tắt, tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng của người nông dân. Những người nông dân can trường nào xuất hiện là bị bắt ngay, bị xử lăng trì (là xẻo từng miếng thịt cho đến chết), bị tru di tam tộc để tiêu diệt sạch gen trội can trường.

Nhờ vậy mọi cuộc nổi dậy của nông dân trong suốt 80 năm độc tài toàn trị của nhà Nguyễn đều bị dập tắt trong biển máu.

Sau 80 năm, đất nước chỉ còn tồn tại những nông dân sợ hãi tuân phục.

Từ tuân phục chuyển qua hèn nhát u mê chỉ một bước chân. Một thế hệ nông dân hèn nhát ngu muội ra đời. Ngai vàng nhà Nguyễn được bảo vệ nhưng nước mất.

Quá sức nhục nhã và đau đớn, chỉ vài phát súng đùng đoàng của lính Pháp, quân dân ta mà nòng cốt là những người nông dân hèn nhát và u mê đã bỏ chạy sạch. Pháp thôn tính Nam Kỳ dễ như trở bàn tay.

Tệ hơn nữa, hai lần Pháp ra Bắc Kỳ với vài trăm quân chỉ nổ vài phát súng, những người nông dân hèn nhát và ngu muội làm nên đội quân chính quy đông đúc của chiến tướng Nguyễn Tri Phương và của tổng dốc Hoàng Diệu buông vũ khí chạy sạch, bỏ lại thành Hà Nội trống không với chủ tướng đơn độc.

Trong suốt 100 năm Pháp đóng chiếm, rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân nhưng hầu hết đều bị thất bại do thiếu lực lượng, thiếu những người nông dân can trường. Cuộc khởi nghĩa nào cũng chỉ quy tụ chừng vài chục nông dân can trường thì làm sao chống lại giặc Pháp hùng mạnh.

Bây giờ, đảng CSVN, tổ chức độc quyền toàn trị đất nước, đang dẫm vào những bước chân lầm lỗi của Triều đình nhà Nguyễn. Đảng cũng chỉ cần những người nông dân tuân phục.

Chính vì lẽ đó mà thanh niên nông dân can trường Trịnh Bá Phương đã bị 10 năm tù nay lại phải ra tòa để nhận thêm nhiều nằm tù giam nữa. Chính vì lẽ đó mà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Thị Tâm, anh em Đoàn Văn Vươn phải đi tù. Chính vì lẽ đó mà cụ Kình và một số con cháu phải bị tử hình, số còn lại và những người nông dân Đồng Tâm can trường khác phải ngồi tù lâu dài.

Với cách làm này sẽ thành công cho đảng, đất nước chỉ còn lại các thế hệ nông dân tuân phục cùng với các tầng lớp người dân khác cũng tuyệt đối tuân phục.

Mà “tuân phục” chỉ cách “hèn nhát” một sợi tóc.

Đảng sẽ được tồn tại khá lâu, nhưng…


 

Nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Trầm Mặc Huơng Lai

Bảy mươi tuổi tôi mới hiểu: nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Tôi tên là María.

Năm nay tôi tròn bảy mươi. Con số tròn, nghe sang thật đấy, mà chẳng đem lại chút niềm vui nào. Cả cái bánh sinh nhật con dâu làm cũng nhạt thếch. Hay có lẽ tôi đã mất vị giác — với đồ ngọt lẫn với sự quan tâm.

Lâu lắm rồi tôi vẫn nghĩ: già nghĩa là cô đơn — một căn nhà im ắng, điện thoại chẳng reo, cuối tuần chẳng ai ghé. Tôi tưởng đấy mới là nỗi đau tệ nhất.

Bây giờ tôi biết: còn tàn nhẫn hơn cả khoảng trống, là một ngôi nhà đầy người nhưng mình bị vô hình.

Chồng tôi mất mười năm trước.

Bốn mươi năm bên nhau. Một người đàn ông mộc mạc, vững chãi. Ông sửa được cái cửa kẹt, nhóm được bếp lửa, và luôn tìm đúng một câu ngắn gọn để tôi thấy yên lòng. Ông đi rồi, chân tôi như đứng trên khoảng không.

Tôi ở lại với hai đứa con — Carlo và Laura. Tôi cho chúng tất cả. Không phải vì bổn phận, mà vì tôi chẳng biết yêu theo cách nào khác. Chẳng có chuyến đi xa hay bằng cấp oách, nhưng tôi luôn có mặt: lúc con sốt, lúc làm bài, lúc gặp ác mộng. Tôi nghĩ tình thương rồi sẽ quay lại với mình.

Dần dần, những lần ghé thăm thưa hẳn.

— Mẹ ơi, con bận.

— Cuối tuần này cũng không được đâu mẹ.

Và tôi chờ.

Một ngày, Carlo bảo:

— Mẹ về ở với tụi con đi, cho mẹ có người bầu bạn.

Tôi xếp đồ. Cái mền tặng cô hàng xóm, cái ấm pha cà phê đem cho, cây đàn piano thì bán — rồi tôi về căn nhà rộng rãi, sáng sủa của con.

Ban đầu, dễ chịu lắm. Cháu trai ôm tôi, Laura rót cà phê cho tôi. Rồi mọi thứ đổi khác.

— Mẹ ơi, vặn nhỏ tivi lại.

— Mẹ ở trong phòng nhé, nhà có khách.

— Mẹ chưa bỏ đồ giặt chung với tụi con sao?

Và những câu nói cứ dính chặt lên tường:

— Tụi con mừng vì mẹ ở đây, nhưng đừng làm nhiều quá.

— Mẹ ơi, đây không còn là nhà của mẹ nữa.

Tôi cố giúp: nấu ăn, giặt giũ, trông cháu. Nhưng như thể tôi không tồn tại. Hoặc tệ hơn: tôi là gánh nặng.

Một đêm, tôi nghe Laura nói chuyện điện thoại:

— Mẹ chồng như bức tượng ở góc nhà. Có cũng như không. Thế lại… dễ cho mình hơn.

Đêm đó tôi không ngủ. Nhìn trần nhà và hiểu: người thân ở ngay bên, mà mình cô độc nhất đời.

Một tháng sau, tôi đi. Tôi nói có bạn rủ về quê ở chung.

— Mẹ đi vậy cũng tốt, Carlo đáp, nghe như thở phào.

Giờ tôi ở một căn phòng nhỏ ngoài rìa Granada. Tôi tự pha cà phê, đọc sách, viết những lá thư chẳng bao giờ gửi. Không ai chen ngang, không ai phán xét. Bảy mươi tuổi, tôi không mong gì nhiều. Chỉ muốn còn cảm thấy mình là một con người — không phải gánh nặng, không phải cái bóng.

Tôi đã hiểu:

Cô đơn thật sự không phải là sự im lặng của căn nhà.

Đó là khi những người mình yêu ở ngay gần, mà chẳng ai nhìn thẳng vào mắt mình.

Khi người ta chịu đựng mình thay vì lắng nghe.

Khi mình vẫn ở đó, nhưng đã bị coi như vô hình.

Tuổi già không nằm trên nếp nhăn.

Tuổi già là tình yêu bạn đã từng cho đi…

và  còn ai cần đến nữa.

TG Văn Chương


 

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Từ Thức

26/09/2025

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam (1930-2025)

 LTG: Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn ‘’miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp

 *****

André Gide nói ‘’ Cest avec les beaux sentiments quon fait de la mauvaise littérature ‘’ (Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở) (1).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần đối diện với những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào, vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.

MIỆT VƯỜN

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên.

Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’.

Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam – với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.

Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Toni Morrison, nhà văn nữ Hoa Kỳ, Nobel văn chương, nói: nếu tôi đánh rơi vài tờ bản thảo, người lượm được sẽ nói: đây làn ăn thảo của Toni Morrison.

Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất. Đọc vài câu, người ta biết là văn Tiểu Tử.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng…

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.

Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ ” này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu: ”Còn báo Nhân Dân không ? – Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội ” )

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng.

Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’ , nói : ‘’cho con cái ni. (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.

‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’.

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. Chữ ” ai ”, đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…

Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng.

Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ”cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng.

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ).

Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75.

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ?. Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch – farces tragiques-của một thời đảo điên.

KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn.

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa một tập truyện của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .

Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa.

TƯ THỨC. Paris

1 . A.Gide muốn nói viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng, sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.

  1. Trên đây là bài nói chuyện của tác giả nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01/2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời.

 

NGƯỠNG MỘ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

“Bạn không thể trải qua một ngày ‘cách thành kính’ trừ khi bạn coi đó là ngày cuối đời. Thật đáng ngưỡng mộ với một người luôn nghĩ về cái chết. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng về cách vận hành của các rạp hát!” – John Climacus.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chỉ ra ‘vị thánh’ Climacus phác hoạ – Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người ‘ngưỡng mộ’ Ngài, thì Ngài – như không quan tâm về cách vận hành của các rạp hát – tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

Luca ghi nhận, “Mọi người bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm”; đang khi chỉ mình Ngài biết, sự ‘ngưỡng mộ’ đó chỉ nhất thời, Ngài sắp lên Giêrusalem với những gì đang đợi. Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp!”; “Các môn đệ không hiểu”. Họ không hiểu là phải, vì điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì họ kỳ vọng. “Sự ngưỡng mộ phai nhạt khi sứ điệp chạm vào vùng an toàn của người nghe!” – Brennan Manning. Giả thiết Ngài nói, ‘Tuần sau, Thầy sẽ đăng quang làm vua’; họ hiểu ngay! Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài – dẫu là tốt – và sự ‘ngưỡng mộ’ lấn át lý trí này là vật cản khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của Chúa Cha – hiến dâng mạng sống để cứu độ nhân loại. “Sự ngưỡng mộ chỉ là một đam mê ngắn ngủi; nó sớm phai nhạt thành dửng dưng!” – Joseph Addison.

Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu khen lao từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự khen lao của Chúa Cha, chỉ ước muốn làm theo ý Cha, đó là lý do tại sao Ngài lên Giêrusalem, nơi không hứa hẹn điều gì khác ngoài cái chết. Điều tương tự cũng xảy ra với chính Giêrusalem. Niềm tự hào thực sự về nó không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”, nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!” – bài đọc một – vì “Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!” – Thánh Vịnh đáp ca. “Nơi Thiên Chúa ngự, kích thước hay huy hoàng chẳng còn nghĩa lý gì!” – C.S. Lewis. Vì thế, thay vì mải mê tìm kiếm sự tán dương phàm nhân, chúng ta được mời gọi tìm “nụ cười của Thiên Chúa” trong từng bổn phận nhỏ bé mỗi ngày. “Tiếng hoan hô của đám đông sớm tàn; nụ cười của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi!” – Max Lucado.

Anh Chị em,

Chúa Giêsu biết rõ lòng người. Ngưỡng mộ hôm nay có thể đổi thành khước từ mai ngày. Vì thế, Ngài không tìm sự ủng hộ hay sự uỷ lạo từ thế gian; thay vào đó là sự hiện diện và vinh quang của Chúa Cha, làm trọn ý Cha, dù ý ấy dẫn đến thập giá. Ngài cho thấy, chỉ khi tâm hồn được neo trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể bước đi bình an, bất chấp mọi tán thưởng hay chê bai. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta là trọng tâm của mọi lời hứa!” – Dietrich Bonhoeffer. Chính sự đồng hành của Thiên Chúa mới là vinh quang của Giêrusalem, cũng là vinh quang của mỗi người chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cứu con khỏi bệnh “ghiền like” và “nghiện vỗ tay”. Dạy con ghi nhớ, gió đến thì đi, còn hơi thở của Cha mới là điều giữ con đứng vững!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 9,43b-45

43b Khi ấy, đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Đức Giê-su làm, thì Người nói với các môn đệ rằng : 44 “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây : Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.” 45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.


 

Mừng kính 2 thánh  Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3.- Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 26/9 Giáo hội mừng kính 2 thánh  Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3. Các ngài được xem như là  bổn mạng bổn mạng các thầy thuốc và những y tá.

Cha Vương

Thứ 6: 26/9/2025   t5-24

Vào khoảng thế kỷ thứ III, tại miền Égée thuộc nước Ả Rập, có hai anh em sinh đôi tên là Cót-ma và Ða-mi-a-nô. Ngay quãng đầu đời, hai anh em đã gặp cảnh khó khăn, thử thách. Số là cha hai Ngài mất sớm, hai Ngài rơi vào cảnh mồ côi cha. Chúa vô cùng thương xót đã cho hai Ngài có bà mẹ đạo đức, thánh thiện, nhân ái. Hai Ngài đã được tình thương của mẹ ủ ấp, mẹ các Ngài đã giáo dục các Ngài theo đường hướng Giáo Hội và Chúa Kitô.  Hai Ngài đã được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản thật tốt, đã được trui luyện theo đường hướng Phúc Âm của Chúa. Ðược Chúa soi sáng, Thánh Thần tác động, hướng dẫn, hai Ngài lớn lên đã mau chóng đạt được bằng cấp y dược và trở thành những lương y lành nghề, đạo đức. Với y đức có được, với lòng đạo đức, tâm hồn hướng về Chúa, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã hành nghề lương y mà không nhận một khoản tiền thù lao nào đối với bất cứ một ai. Chính vì thế, tiếng tăm đạo đức của hai Ngài vang dội khắp nơi.

   Giáo Hội của Chúa Kitô ít khi được an bình, con cái thế gian luôn tìm cách phá hại Hội Thánh của Chúa. Giáo Hội vào thời hai Ðấng lúc đó gặp cảnh cấm cách, bắt bớ của Hoàng đế Ðiôclêtianô và Maximianô, Cótma và Ðamianô bị bắt, bị dẫn giải tới quan Lydia. Thánh Cót-ma và Ðamianô không sợ sệt, không run sợ, không nhát đảm, các Ngài luôn tuyên xưng mình là Kitô hữu. Quan Lydia truyền đánh đòn hai Ngài một cách dã man, tàn ác, ra lệnh xích tay chân và quăng hai Ngài xuống biển. Chúa nhiệm mầu và quyền năng đã cứu hai Ngài khỏi chết. Tức giận vì phép lạ Chúa giải cứu hai Ngài khỏi chết, Lydia đã ra lệnh đốt một đống lửa cháy to và đẩy hai Ngài vào đống lửa đang cháy. Hai Ðấng vẫn ung dung, vừa đi vừa cầu nguyện giữa đống lửa đang bừng bừng cháy lớn. Phép lạ Chúa quả quá tỏ tường, nhiều người chứng kiến phép lạ lớn lao ấy đã được ơn quay trở lại.

   Như một con thú khát máu, Lydia đã ra lệnh khẩn cấp đem hai Ngài đi chém đầu. Hai thánh nhân trước khi để cho đao phủ chém đầu mình đã can đảm ngước mắt lên trời cầu xin Chúa thứ tha cho những kẻ làm hại các Ngài. Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã được phúc tử vì đạo vào ngày 27/9/297. Chính đức tin sắt đá và lòng nhân từ của các Ngài đã giúp các Ngài được phúc lãnh nhận ơn chết vì đạo.

SỨ ÐIỆP: Hai anh em sinh đôi Cot-ma và Ða-mi-a-nô đã sống trung thành với giáo lý chân chính của chúa, của Giáo Hội. Các Ngài cảm nghiệm tình thương vô biên của Chúa. Tình thương đã tha thứ cho người trộm lành. Tình thương đã hoán cải con người Mađalêna và tình thương đã cải hóa ông Gia-kêu, người thu thuế. Ý thức sâu xa, con đường của Chúa đã đi, lời Chúa đã dậy, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên cho nhân loại điều này: “Chỉ có tình thương tha thứ mới giải thoát được con người “.  Chúa đã yêu thương, tha thứ cho nhân loại tội lỗi, Chúa đã kê vai gánh tội cho nhân trần, tại sao nhân loại lại không thể cảm thông tha thứ cho nhau? Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên chân lý này: “Thiên Chúa là tình yêu”. Con người nhận Chúa làm gia nghiệp phải sống tình yêu của Chúa. 

(Nguồn: Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

   Thánh Grégoire de Tours, thế kỷ VI, làm chứng lòng sùng kính hai vị tử đạo “chữa bệnh” này tại xứ Gaule: “Hai anh em y sĩ Cosma và Đamianô đã trở thành Kitô hữu; chỉ nhờ công phúc nhân đức và lời cầu nguyện của các ngài, nhiều bệnh tật đã được xua đuổi. Sau một số cực hình khác nhau, các ngài lại đoàn tụ với nhau trên trời và làm nhiều phép lạ. Nếu có một người bệnh đến mộ các ngài và tin tưởng cầu xin, người đó đã gặp thầy gặp thuốc. Người ta kể các ngài hiện đến với các bệnh nhân trong giấc mộng, cho họ toa thuốc, bệnh nhân cứ thế nghe theo và họ được chữa lành” (In. Glor.Mart 98).

   Lạy thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô xin chữa lành những bệnh tật mà chúng con đang có và xin cầu bầu cùng Chúa giúp chúng con biết yêu thương, tha thứ cho những người làm hại chúng con như hai thánh đã xin Chúa thứ tha cho những kẻ giết thân xác hai Ngài.

From: Do Dzung

**************************

Tha Thứ Chữa Lành – Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp