Bài toán bơm ba triệu tỷ đồng vào nền kinh tế Việt Nam của Chính phủ Cộng Sản

Theo Đài Á Châu Tự Do, Dư Lan (phóng viên)

Động thái này thể hiện quyết tâm tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nguy cơ lạm phát, và chất lượng nền kinh tế

Một nhân viên của ngân hàng VP Bank đếm tiền
Một nhân viên của ngân hàng VP Bank đếm tiền (KHAM/Reuters)

Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trong năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng “hai con số” giai đoạn 2026-2030.

Trong bối cảnh đó, hôm 10 tháng Hai, 2025, báo chí Việt Nam đưa tin Thủ tướng Phạm Minh Chính triệu tập cuộc họp với lãnh đạo các ngân hàng thương mại, cả khối nhà nước lẫn tư nhân, yêu cầu xây dựng giải pháp bơm từ 2,5 – ba triệu tỷ đồng vào nền kinh tế.

Mặc dù động thái này thể hiện quyết tâm “thúc đẩy tăng trưởng”, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi về nguy cơ lạm phát, điều nếu xảy ra sẽ tác động đến đời sống dân nghèo và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam trong “kỷ nguyên mới.”

Nguy cơ lạm phát từ 3 triệu tỷ đồng

Một bài viết trên báo Đầu tư của Bộ Kế hoạch Đầu tư, cho biết Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% GDP. Điều này tương đương với việc bơm khoảng 2,5 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng đặt ra khả năng thứ hai, cao hơn, là nếu muốn tăng trưởng kinh tế lên 10% (tức là tăng trưởng “hai con số”) thì phải tăng trưởng tín dụng ở mức 18% đến 20%, tức sẽ phải bơm ra nền kinh tế khoảng 3 triệu tỷ đồng.

Đối với vấn đề bơm tiền để kích thích tăng trưởng nêu trên, TS Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia, thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc, cho rằng kế hoạch bơm tiền theo tỷ lệ 18-20% là cao so với mức 12-14% các năm trước. Nếu không kiểm soát tốt, việc in tiền ồ ạt từng xảy ra trong quá khứ có thể dẫn đến lạm phát cao như giai đoạn 2006-2010.

Điều này gợi nhớ lại thời kỳ nhiệm kỳ Thủ tướng của ông Nguyễn Tấn Dũng giai đoạn 2006-2016. Ông Dũng đã đẩy mạnh in tiền để đầu tư vào các đại dự án như xây dựng các nhà máy đóng tầu, khai thác bôxit ở Tây Nguyên. “Tất cả các dự án này đều thất bại, nhưng lạm phát nhảy vọt. Tiền in nhảy vọt 30-45% những năm đầu (2006-2010) và chỉ giảm sau đó vì lạm phát quá cao.” TS Vũ Quang Việt nhớ lại.

Với kinh nghiệm quá khứ nêu trên của Việt Nam, TS Vũ Quang Việt nhận định nếu Việt Nam năm nay bơm được 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế, chiều hướng chung là sẽ gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cho rằng khó có thể tiên đoán ngay điều đó, vì thị trường đòi hỏi thời gian để phản ứng.

GS Nguyễn Văn Chữ, nguyên trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh, Đại học Houston at Downtown, có cùng nhận xét với TS Vũ Quang Việt. Giáo sư Nguyễn Văn Chữ khẳng định lạm phát chắc chắn sẽ xảy ra. Vấn đề chỉ là lạm phát nhiều hay ít và khi nào người dân cảm nhận được nó. Điều đó tuỳ thuộc vào tiến độ bơm tiền của nhà nước. Trao đổi với RFA, ông nói:

“Khi chính phủ có kế hoạch bơm tiền ra thị trường 3 ngàn tỷ thì không phải là ngay ngày mai tiền sẽ vô túi người ta. Ngân hàng phải có kế hoạch cho vay. Những người muốn vay phải làm hồ sơ. Quá trình đó rất dài. Đó là độ trễ của chính sách tài chính quốc gia. Quá trình bơm tiền vào nền kinh tế, do đó cần một thời gian dài để tác động đến nền kinh tế và xã hội. Ở các quốc gia Tây phương thì nó thường mất hai đến ba năm.”

Giàu nhất khu nhà nghèo, nghèo nhất khu nhà giàu: Những người này có gì đặc biệt? - Ảnh 1.

Đời sống người dân sẽ ra sao?

Về mặt đời sống, có thể kỳ vọng khi có dòng vốn lớn được đẩy vào nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, từ đó giúp cải thiện thu nhập cho lao động. Tuy nhiên, các chuyên gia đều cảnh báo: đời không như là mơ. Bởi lẽ, hiệu quả cuối cùng của việc bơm tiền vào nền kinh tế phụ thuộc vào cơ cấu phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Trao đổi với RFA, GS Nguyễn Văn Chữ nêu vấn đề:

“Nếu đặt ra vấn đề cuộc sống người dân sẽ như thế nào thì điều đó còn tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư của chính phủ. Đầu tư vào lĩnh vực công? Đầu tư vào lĩnh vực tư? Nếu đầu tư vào lĩnh vực công thì đó sẽ là gì? Nhà ở xã hội? Nhà ở cao cấp hay các dự án cơ sở hạ tầng? Nếu đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng thì tốc độ ảnh hưởng đến nền kinh tế và xã hội sẽ trễ hơn. Do đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng dài hạn thì chính phủ không thể giải ngân ngay tức khắc được. Mỗi năm họ chỉ giải ngân một phần. Thành ra mức độ lạm phát hàng năm tuỳ thuộc vào loại dự án được đầu tư và tiến độ tiền được bơm ra thị trường.”

Nếu Chính phủ Việt Nam thành công trong việc bơm một lượng tiền lớn vào nền kinh tế trong thời gian ngắn thì sẽ khiến tiền Việt Nam mất giá. Tiền Việt mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sinh hoạt của người dân do hàng hoá nhập khẩu đắt lên, cùng lúc đó giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu có nguy cơ leo thang do lạm phát. Đó là cảnh báo của GS Nguyễn Văn Chữ.

Mặt khác, các dự án hạ tầng lớn tuy quan trọng nhưng triển khai chậm. Điều nhà nước dồn tiền vào các đại dự án đầu tư công, người dân có cảm nhận được đời sống của mình tốt lên ngay hay không? Câu trả lời là không. TS. Nguyễn Huy Vũ giải thích rằng nếu có hiệu quả thì có khi phải vài năm sau mới thấy hiệu quả rõ rệt. Điều đó chưa chắc giúp đời sống người dân tốt ngay lập tức.

Bơm ba triệu tỷ đồng vào đâu?

Có nên chấp nhận phương án đánh đổi, chấp nhận lạm phát vì nhu cầu phát triển hay không? Tăng tiền thì tất nhiên đưa đến tăng giá (lạm phát), nhưng nó không nhất thiết làm tăng năng suất lao động, không tất yếu sinh ra nhiều của cải. Đó là nhận xét của hầu hết các chuyên gia, khi họ nhìn chính sách bơm 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế từ góc độ thể chế và cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam.

Việt Nam từ khi Đổi mới đến nay luôn xác định kinh tế nhà nước là “then chốt”. Mấy chục năm nay, nguồn lực kinh tế được đổ dồn vào các doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả. Theo báo cáo của Chính phủ Việt nam, tính đến cuối 2023, có 134 doanh nghiệp có vốn Nhà nước lỗ lũy kế 115.270 tỷ đồng (khoảng 4,6 tỷ USD), trong đó bảy “ông lớn” nhà nước thua lỗ gần 24 nghìn tỷ đồng năm 2023, cảnh báo dấu hiệu mất an toàn tài chính.

Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân thuộc lĩnh vực sản xuất gần như bị bỏ rơi, không thể lớn mạnh, hoạt động èo uột.

Trong doanh nghiệp tư nhân, duy chỉ có doanh nghiệp bất động sản có thể phát triển do được ưu đãi về cơ chế “đất đai sở hữu toàn dân”, giúp họ có thể thu hồi đất đai của dân với giá rẻ và chuyển đổi mục đích sử dụng, bán sản phẩm thương mại với giá cao gấp nhiều lần. Việt Nam hiện có 6 tỷ phú thì tất cả đều thuộc lĩnh vực bất động sản. Ngay cả tỷ phú ngành thép Trần Đình Long (tập đoàn Hoà Phát) thì sản phẩm thép xây dựng cũng đi lên nhờ bất động sản và bản thân Hoà Phát cũng đầu tư vào bất động sản. Tỷ phú lắp ráp xe Trần Bá Dương (công ty Trường Hải) cũng “không buông tha” mảng bất động sản với khu đô thị Sala nổi tiếng ở Thủ Thiêm.

Câu hỏi cần đặt ra là với cơ cấu nền kinh tế như vậy, 3 triệu tỷ đồng nếu bơm vào nền kinh tế thì sẽ chảy vào đâu? Vào các doanh nghiệp nhà nước đang lỗ luỹ kế gần 5 tỷ đô la, vào các ông lớn bất động sản, hay vào các doanh nghiệp sản xuất khối tư nhân bi bỏ rơi mấy chục năm nay và không lớn nổi?

Vẫn là câu chuyện thể chế kinh tế chính trị

Từ góc độ chính sách, TS. Nguyễn Huy Vũ nhận định, mục tiêu bơm 20% tín dụng “xuất phát từ tính toán cứ bơm 2% tín dụng sẽ tăng trưởng được 1% GDP”. Tuy nhiên, ông đặt câu hỏi liệu “nền kinh tế có hấp thụ được không?”

Ông Vũ chỉ ra, gần đây, doanh nghiệp tư nhân đóng cửa hàng loạt và hoạt động cầm chừng. Vậy họ có hứng được dòng vốn này không? Còn nếu tín dụng chảy vào những dự án không hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước thì chỉ tạo ra lạm phát chứ không thúc đẩy năng suất. Do đó, theo TS Nguyễn Huy Vũ, chính sách bơm tiền sẽ lại đưa trở về với câu hỏi đầu tiên: Vậy thì đời sống người dân thế nào?

Do đó, TS. Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh thêm rằng nếu việc bơm tiền không đi kèm cải cách thể chế, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, việc lạm phát có thể không kiểm soát được, trong khi năng suất lao động không tăng tương ứng. Ông nói tiếp:

“Việt Nam có chiến lược phát triển nhưng thực ra không có chiến lược gì cả. Ví dụ vừa rồi Việt Nam đưa ra Nghị quyết 57 phát triển khoa học công nghệ để tạo ra những ngành đi cùng thời đại, nhưng không có chiến lược về nhân sự, về hỗ trợ doanh nghiệp đi kèm.

Vấn đề của Việt Nam là ông Tô Lâm có mục tiêu nhưng không có chính sách, đúng hơn là không có người để thực hiện. Khi đưa ra chính sách bơm tiền vào nền kinh tế mà không có doanh nghiệp tư nhân hấp thụ nguồn vốn đó để tạo ra công ăn việc làm, tạo ra giá trị cho nền kinh tế thì đó chỉ là tiêu tiền thôi. Tiền sẽ quay vào bất động sản, trong khi bất động sản hiện nay cũng gặp khó khăn trong việc bán hàng vì đơn giản là người dân không tăng thu nhập thì không có tích luỹ để đầu tư bất động sản hay mua nhà cửa vì nhu cầu để ở. Chuyện bất động sản chỗ này chỗ kia tăng giá thì chủ yếu vì một nhóm người có tiền mua bất động sản để rửa tiền hoặc đầu cơ.”

Ở Việt Nam, doanh nghiệp khối tư nhân rất nhỏ, yếu dù họ làm ăn hiệu quả hơn. Doanh nghiệp nhà nước được nhận nguồn lực to lớn nhưng làm ăn yếu kém. Cơ cấu kinh tế này có dễ dàng thay đổi không? Theo GS Nguyễn Văn Chữ, đây là điều không dễ thay đổi một sớm một chiều. Ông so sánh việc thiết kế và cải cách cơ cấu kinh tế chính trị giống như nặn đồ gốm. Một khi đồ gốm đã khô, trở nên cố định, việc nặn nó thành một hình dạng khác trở nên vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi người lãnh đạo phải làm cách mạng, đập bỏ, nhào cho nhuyễn, rồi nặn lại theo hình dạng khác.

Bơm 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế là một chính sách tham vọng, thể hiện quyết tâm cao trong mục tiêu đưa GDP đạt mức hai con số. Tuy nhiên, như ý kiến từ các chuyên gia cho thấy, chất lượng phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ của thị trường mới là yếu tố quyết định thành bại. Điều gì quyết định chất lượng phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ nguồn vốn đó? Đó là thể chế kinh tế và chính trị, một vấn đề nóng ở Việt Nam sau khi Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra chính sách cải cách thể chế.

Nếu đồng vốn được quản lý minh bạch, hướng đến các dự án có hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược lâu dài, rủi ro lạm phát có thể được kiểm soát ở mức chấp nhận được, đời sống người dân dần được nâng cao và kinh tế sẽ tăng trưởng bền vững. Ngược lại, nếu cơ chế giám sát lỏng lẻo, tham nhũng và dự án kém hiệu quả, thì tiền bơm ra chỉ làm mất giá đồng nội tệ, đẩy chi phí sinh hoạt leo thang, cuối cùng không tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài.


 

Tổng Bí Thư Tô Lâm tiếp tục đề cao trình độ của VNCH

Theo Đài Á Châu Tự Do

Hôm 13 tháng 2, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu tại một phiên thảo luận tổ, trong khuôn khổ kỳ họp bất thường lần thứ 9 của Quốc Hội.

Chủ tịch nước Tô Lâm khi chờ đón Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga ở Hà Nội hôm 25/7/2024 (minh hoạ)

Trong bài phát biểu với nội dung bàn về đường hướng phát triển đất nước, người đứng đầu đảng Cộng sản đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Singapore, trước thành tích phát triển một cách ngoạn mục của nước này.

Điều đáng chú ý là ông Tô Lâm đã sử dụng Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, để so sánh với Singapore:

“Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước. 50 năm nhìn lại giờ mình lại mơ sang họ khám bệnh”, trích lời vị Tổng Bí thư.

Đây không phải là lần đầu tiên người đứng đầu đảng Cộng sản lấy Việt Nam Cộng Hòa làm chuẩn để so sánh với Singapore, vốn là nước phát triển nhất khu vực.

Trước đó, hôm 9 tháng 1, trong cuộc gặp với các bô lão Đảng viên, nguyên cán bộ Nhà nước, đại biểu trí thức, nhà khoa học, và văn nghệ sĩ các tỉnh thành phía Nam, ông Tô Lâm cũng đã có những lời nói tích cực về cựu thù.

Bài phát biểu của ông Tô Lâm có đoạn “Những năm 60, Sài Gòn – TP HCM là điểm sáng, Hòn ngọc Viễn Đông, Singapore cũng không bằng nhưng giờ đây tốc độ phát triển đã vượt rất xa.”

Đây là lần đầu tiên một Tổng Bí thư đảng Cộng sản công khai thừa nhận sự phát triển của Việt Nam Cộng Hòa so với các nước trong khu vực ở cùng thời điểm.

Từ trước tới nay, chế độ do đảng Cộng sản lãnh đạo vẫn duy trì chính sách tuyên truyền tiêu cực về Việt Nam Cộng Hòa, gọi đây là chế độ “tay sai”, “ngụy”, và “bán nước”, còn sự phồn vinh của Sài Gòn bị gọi là “giả tạo”.  Từ lúc lên nắm quyền, ông Tô Lâm đã thường xuyên thể hiện sự sốt ruột trước tình trạng phát triển chậm chạp của Việt Nam, và cảnh báo về nguy cơ tụt hậu.

Như một vị quân vương trước đây, ông Tô Lâm đã đặt niên hiệu cho thời kỳ cầm quyền của mình, với cái tên “kỷ nguyên vươn mình”, kèm với đó là hàng loạt chính sách cải cách tham vọng.

Hiện chưa rõ những phát biểu tích cực về Sài Gòn của ông Tô Lâm, tác động đến chính sách của đảng cầm quyền ra sao, trong vấn đề Việt Nam Cộng Hòa.

Năm 2025 cũng là năm đánh dấu 50 năm cuộc chiến tranh giữa hai miền Việt Nam kết thúc.


 

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (Mt 5:8)-Cha Vương

Houston hôm nay gió lớn và lạnh, chúc bạn một ngày ấm áp trong vòng tay âu yếm của Mẹ nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 15/2/2025

TIN MỪNG: Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (Mt 5:8)

SUY NIỆM: Dầu thánh Phê-rô được nhiều đặc ơn Chúa Giê-su ban, song Người chỉ dành ơn riêng này cho môn đệ đồng trinh, là cho dựa vào lòng Người trong bữa Tiệc-ly. Chúa Giê-su đặt thánh Phê-rô điều khiển Giáo Hội, nhưng Người lại phú Đức Mẹ cho Gio-an săn sóc.

Nhờ đức khiết trinh ta sống thanh sạch như các thánh trên thiên đàng; giữ mình trinh khiết, ta được thêm một công trọng mà các thiên thần không được. Linh hồn nào trong sạch nhiều, kết hợp với Chúa Giê-su mật thiết hơn, vì Người đã cảm thương mặc lấy nhân tính để kết hợp cùng ta. (x. Sách Gương Đức Mẹ, Q1:9:2)

LẮNG NGHE: Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh. (Cn 4:23)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ rất tinh tuyền thánh thiện, xin cho con biết giữ hồn xác cho trong sạch để được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, Người Con Chí Ái của Mẹ.

THỰC HÀNH: Cố gắng tránh những gì đang làm dơ bẩn bạn trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

From: Do Dzung

***************************

TRINH VƯƠNG MARIA | PHẠM ĐỨC HUYẾN | CA ĐOÀN MARIA TRINH VƯƠNG

MỞ KHÔNG GIAN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Bertrand Russell từng là một Kitô hữu; nhưng về sau, ông là một nhà vô thần công khai. Katharine Tait – con gái ông – nói, “Đã một thời, tận trong sâu thẳm tâm hồn cha tôi, có một khoảng trống được lấp đầy; ông đã từng ‘mở không gian’ cho Chúa. Nhưng, một khi đã tống Ngài ra, ông không bao giờ tìm được bất cứ thứ gì để đặt vào đó!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay đề cập khoảng không gian đó với hai câu hỏi: một của các môn đệ, một của Chúa Giêsu. Câu hỏi thứ nhất – ‘khép không gian’ – “Trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?”; câu hỏi thứ hai – ‘mở không gian’ – “Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Mặc dù rất nhân bản; nhưng xét cho cùng, câu hỏi thứ nhất tiết lộ một sự nghèo nàn thiêng liêng. Với loại câu hỏi này, một nếp nghĩ, một tầm nhìn thiển cận – bi quan, hơi hướng thất vọng – sẽ hình thành khi chúng ta tự co rút để cam chịu một hoàn cảnh, một số phận xám xịt. Cách đặt vấn đề khá ủ dột này sản sinh một loạt câu hỏi biện minh cho sự bất khả trước nghịch cảnh. Nhiệm vụ là bất khả thi, tại sao tôi cố gắng? Lực bất tòng tâm, tại sao tôi mất thời giờ? Lối nghĩ này ngăn cản chúng ta mạo hiểm làm những điều tuyệt vời cho Chúa; và ngược lại, không còn mong đợi một điều tốt lành nào đến từ Ngài! Ngần ngại hay sợ hãi ‘mở không gian’ cho Chúa, chúng ta ‘vui hưởng’ thú đau thương trước những tình huống dường như vô vọng, và xem ra Thiên Chúa không toàn năng!

“Anh em có mấy chiếc bánh?”; ngược lại, là một câu hỏi hoàn toàn tích cực, tiềm tàng một niềm hy vọng và lạc quan – vì lẽ – nó ‘mở không gian’ cho Chúa. Qua đó, Chúa Cha có thể làm một điều gì đó để chứng thực quyền năng của Ngài. Chỉ cần một chút những gì sẵn có, cả khi chúng dường như ‘không đủ đến vô vọng’ – “bảy chiếc bánh và mấy con cá” – Ngài sẽ nhân lên để nuôi gần nửa vạn người. “Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài để làm nhiều điều lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” – Phaolô; dĩ nhiên, với điều kiện, mỗi người biết hào phóng cho đi những gì mình có!

Thật thú vị, Thiên Chúa cũng ‘mở không gian’ cho Ngài; đúng hơn, Ngài mở ra lòng thương xót trong cơn giận khi đuổi nguyên tổ ra khỏi Eden, “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi!” – bài đọc một. Đó là “tiền Tin Mừng!”. Con cháu họ rồi sẽ nhận ra điều này, “Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Anh em có mấy chiếc bánh?”. Chúa Giêsu tiếp tục hỏi bạn và tôi! Mỗi ngày, đến với Thánh Thể, chúng ta ‘mở không gian’ cho Ngài, dẫu đó là một không gian chật hẹp – và đôi khi – rất tăm tối; thế nhưng, Ngài vẫn thương hạ cố. Cũng ở đó, Ngài tiếp tục hỏi và chờ đợi phần ‘bánh cá’ còm cõi của mỗi người; để rồi Ngài có thể nhân lên, nhân lên hầu nuôi sống bao người. Ước mong sao, đền thờ tâm hồn chúng ta ngày càng sạch trong, xứng đáng cho Chúa Giêsu chiếm ngự; và mong sao, bạn và tôi biết dâng phần ít ỏi của mình vào tay Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con luôn nhớ lời vị thánh trẻ, “Bớt chỗ của tôi, thêm chỗ cho Chúa!” – Acutis; may ra, con không hoá nên vô thần một khi cố tống khứ Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

************************************

Thứ Bảy Tuần V Thường Niên

Đám đông đã ăn và được no nê. Mc 8,1-10

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

1 Trong những ngày ấy, có rất đông dân chúng, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói : 2 “Thầy chạnh lòng thương dân chúng, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn ! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến.” 4 Các môn đệ thưa Người : “Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no ?” 5 Người hỏi các ông : “Anh em có mấy chiếc bánh ?” Các ông đáp : “Thưa có bảy chiếc.” 6 Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho dân chúng. 7 Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn luôn cá nữa. 8 Dân chúng đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa : bảy giỏ ! 9 Số người ăn độ chừng bốn ngàn người. Người giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đan-ma-nu-tha.


 

 

SỰ CHẾT – LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.  Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?  Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi.”

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!  Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.”

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi!  Mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi!  ăn uống đi!  hưởng đi!  Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc!  Ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.  Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.  Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

From: Langthangchieutim


 

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y – “Ngày Tình Yêu”

Peter Nguyen

Thoảng qua gió thoảng mây bay,

“Nương nhau mà sống” đẹp thay tình người!

Cuộc đời liền với khóc cười,

Chìa khoá vàng sống gọi mời thăng hoa!

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y

“Ngày Tình Yêu” cũng là ngày tình nghĩa dành cho người yêu, cũng là ngày nhớ đến công ơn dành cho ông bà cha mẹ, anh chị em thân bằng quyến thuộc và bạn bè!

1) Mỗi một con người hiện diện trên đất nước Hoa Kỳ hay các nước khác đều phải cần “Người Bảo Trợ” để có thể được định cư ở nước thứ ba, từ các trại tị nạn bằng đường biển hay đường bộ. Người bảo trợ đó có thể là một tổ chức của nhà thờ, một người thân hay bạn bè đã định cư trước, hay sau này được ra đi theo diện HO, hay theo chương trình ra đi có trật tự ODP. Tóm lại, tất cả và mỗi người được đi định cư, đều cần phải có “Người Bảo Trợ”.

Tại hạ và gia đình cũng không ngoại lệ! Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ta dồn hết Tình Yêu Thương cho gia đình của riêng mình, mà hình như không tạo ra được một thói quen dễ thương là cũng dành ra cơ hội tốt này , để nhớ đến công ơn “Người Bảo Trợ”?. Tại hạ từng chứng kiến có rất nhiều gia đình Việt đã thực hiện nghĩa cử bày tỏ lòng biết ơn dành cho người bảo trợ đó đây, nhưng hình như chưa tạo ra được một phong trào đồng loạt!

“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,

Tình người tình đẹp đong đầy tương lai!”

2) “Ngày Tình Yêu” cũng là cơ hội bày tỏ lòng biết ơn dành cho người phối ngẫu. Đây là một mĩ tục mà các quốc gia Tây phương đã và đang thực hiện hàng năm đến hẹn lại mừng vào ngày Feb 14! Đây cũng là cơ hội nhắc nhở người đang yêu đã yêu và sẽ yêu, hoàn tất bổn phận và nghĩa vụ của một người tình. Tuỳ theo điều kiện và ý thích của đôi bên trai gái, quà tặng đó có thể là một món quà người tình ưa thích, một bữa ăn mừng, một nghĩa cử yêu thương bằng một cành hồng nhiều ý nghĩa!

3) “Ngày Tình Yêu” qua kinh nghiệm bản thân, nhìn vào con số thống kê có tới 50-60% các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đã đổ vỡ! Buồn, thật buồn, vì một khung trời hoa mộng, một giấc mơ hoa đã vỡ nát con tim, gây hệ lụy thương tổn cho đời con đời cháu, dẫu rằng con cháu vẫn có thể thích ứng thành công, nhưng… vết thương luôn còn đó! Câu hỏi đặt ra là: Vì đâu nên nỗi?

Qua một đêm thức trắng, tại hạ đã ghi lại bài viết “Nương Nhau Mà Sống” này, tuy đã cũ nhưng mạn phép dùng lại làm quà “Ngày Tình Yêu” gởi đến bà con bạn bè thân quen, với ước mong được quí vị và bạn hữu phản hồi! Tại hạ xin đón nhận trân quí lời bình của quí vị, bất kể khen hay chê.

Người bạn tốt là người đã dám nói sự thật, dám phê bình thẳng thắn, vì “chân lí sẽ giải thoát” chúng ta!

Chân thành cảm ơn!

Richmond TX

Feb 13, 2024

N ư ơ n g  N h a u  M à  S ố n g !

Trên đường đi chụp hoa Bluebonnet ở Brenham TX có hãng làm kem rất nổi tiếng Blue Bell . Trước mặt tiền của gian nhà chính của hãng kem có bức tranh được treo tường, là nơi trưng bày tiến trình hệ thống sản xuất, cũng như giới thiệu từng loại kem cho khách dùng thử. Bức tranh thoát thai từ một bức tranh cổ, do họa sĩ Grant Wood vẽ vào năm 1930, mô tả nét mặt của một cặp đôi đứng trước căn nhà của họ.

Dựa trên thần thái mô tả về một cặp vợ chồng, thoạt nhìn có vẻ có vấn đề, tựa như bất cứ một cặp vợ chồng nào trên thế gian này, đều có vấn đề không nhiều thì ít vì “sống trong chăn mới biết chăn có rận” hay “xấu che tốt khoe” mà! Chuyện chung sống lâu bền được hay không tùy thuộc vào bốn chữ vàng “nương nhau mà sống”. Điều muốn nói ở đây là nương nhau như thế nào? Khi một người cho là mình đúng, tất nhiên là người kia sai, nên cần đến một trung gian hòa giải để tìm ra giải pháp dung hòa.

Người Mỹ thường nói “Happy Wife Happy Life”, câu nói có vẻ thiếu công bình vì thiên vị về phía người vợ chăng? Mà sự thường thì trong tương quan nơi thế giới con người đều phải là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đừng kể các bậc thánh nhân siêu thoát hay tình yêu cha mẹ dành cho con cái, là thứ tình cho không biếu không. Chân lý “có qua có lại mới toại lòng nhau” luôn đúng trong quan hệ anh chị em, vợ chồng hay bà con bằng hữu.

Thoát thai từ câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ, thiên hạ đã đưa ra một bức tranh vân cẩu gồm 3 con khỉ: con thứ nhất nhắm mắt, con thứ hai bịt tai, và con thứ ba bịt miệng. Thiển nghĩ nên thêm vào con khỉ thứ tư “mắt nhắm mắt mở” cho đủ “tứ trụ” mà nhiều người cho là kim chỉ nam giữ gìn gia đình hạnh phúc! Vậy thì câu nói vợ chồng cần “nương nhau mà sống” để giữ cho hôn nhân được lâu bền thì phải hành xử sao đây? Chẳng lẽ cứ phải bịt mắt bịt miệng và bịt tai, chấp hành tất tần tật mọi hành vi, lời nói và việc làm của người vợ hay người chồng suốt cả cuộc đời? Hà cớ gì lại thiên vị đứng về phía người vợ mà cho rằng “Happy Wife Happy Life”, bất chấp đúng hay sai, phải hay trái! Vậy thì cần đến một giải pháp dung hòa để quân bình trong đời sống gia đình, đó là chấp nhận chân lý: Tự bản chất con người bất toàn, không ai là không có khuyết điểm lỗi lầm cho dù “nhân chi sơ tính bổn thiện”, nhưng mỗi người sinh ra và lớn lên, hình thành một nhân cách tùy thuộc theo tâm tính, theo những điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, của học đường và xã hội … Cái phông ấy uốn nắn thành một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, đầu đội trời chân đạp đất! Một khi chấp nhận chân lý ấy rồi tất nhiên cần đến một giải pháp dung hòa, là phải “nương nhau mà sống”, không thể cực đoan một chiều. Nói như vậy có nghĩa là cần đến giải pháp “mắt nhắm mắt mở”. Một mắt nhắm để bỏ qua cho nhau những khuyết điểm không hài lòng vì con người là bất toàn! Một mắt mở để nhìn ra cái tốt và ưu điểm của nhau. “Nương nhau mà sống” phải là quy luật vàng trong hôn nhân! Nếu không nương được nhau thì tất nhiên sẽ rơi vào con số thống kê 50% – 60% hôn nhân đổ vỡ bằng tờ ly dị!

Hệ lụy đau thương nhất là những đứa con thiếu cha hoặc thiếu mẹ, và dĩ nhiên tâm lý thiếu quân bình, cho dù chúng vẫn có thể sinh tồn thành nhân hay thành tài được theo bàn năng! Một giây phút thiếu nghĩ suy khi đem so sánh hơn thiệt người mình đã chọn trước đây với người này kẻ nọ; một cơn giận mất khôn khi đi đến một quyết định vội vã, một ham muốn nhất thời tìm kiếm của lạ khi đã chán cơm đâm ra thèm phở. Sâu xa hơn nữa là một cái tôi to đùng đầy cá tính bắt người khác phải phục tùng mình tựa như câu chuyện hai người bạn gái nhỏ to với nhau:

– Mẫu người mày chọn làm chồng trong tương lai ra sao?

– Tao không cần hắn phải đẹp trai như Tom Cruise; cũng không cần phải giàu có như Elon Musk. Tao chỉ cần hắn phải chiều chuộng làm theo ý tao muốn mọi nơi, mọi lúc.

– Xin lỗi mày, chỉ có con chó mới làm được điều mày vừa nói! Ha ha ha!

Còn thương trái ngọt gia đình,

Khéo co thì ấm vụng sinh ra thường.

Tập trung ưu điểm dễ thương,

Thuận buồm xuôi gió con đường trăm năm!

Tuệ Ngữ Nguyễn Đông-Khê

Richmond TX

 

Bịt miệng trí thức [1]: Đòn cuối cùng của một chế độ sợ hãi – Uyên Nguyên

Ba’o Tieng Dan

14/02/2025

Diễn đàn Thế kỷ

Uyên Nguyên

Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Tự do ngôn luận không phải là một đặc ân, mà là một quyền căn bản, là nền tảng của mọi nền dân chủ thực thụ. Khi quyền này bị bóp nghẹt, không những chỉ một cá nhân bị trừng phạt, mà cả một xã hội bị đặt vào tình trạng câm lặng, bị tước đoạt quyền suy nghĩ và bày tỏ. Một dân tộc không có tự do ngôn luận là một dân tộc đang bị giam cầm ngay trên mảnh đất của chính mình, không phải bởi song sắt của nhà tù, mà bởi nỗi sợ hãi, bởi những điều luật mơ hồ có thể giáng xuống bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào.

Việt Nam chưa bao giờ thiếu những bản án dành cho những người dám lên tiếng và trường hợp của Osin Huy Đức [2] chỉ là một minh chứng mới nhất cho điều đó. Nhưng điều đáng nói vốn không nằm ở số phận của một cá nhân, mà chính là sự tồn vong của cả một hệ thống giá trị: Khi những người dám nói sự thật bị trừng phạt, điều này đồng nghĩa với việc cả xã hội đang bị đặt vào một vòng kim cô của sự dối trá. Một chính quyền sử dụng pháp luật không phải để bảo vệ công lý mà để bảo vệ quyền lực cho chính nó, thì đó không còn là pháp quyền mà là một hình thức cai trị bằng bạo lực, được khoác lên lớp vỏ của sự hợp pháp.

Hiến pháp Việt Nam công nhận rằng công dân có quyền tự do ngôn luận, nhưng ngay sau đó lại ràng buộc bằng điều kiện “do pháp luật quy định”. Trong một hệ thống mà pháp luật không phục vụ nhân dân mà chỉ phục vụ giai tầng thống trị, thì điều này đồng nghĩa với việc mọi quyền tự do đều có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào, chỉ cần có một lý do được nhà nước đưa ra.

Những điều luật như “lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước” hay “tuyên truyền chống nhà nước” là những chiếc lưới vô hình, sẵn sàng siết chặt cổ bất kỳ ai dám lên tiếng. Một nhà báo viết về sự thật có thể bị coi là phản động, một học giả phân tích lịch sử có thể bị buộc tội bóp méo thực tế, một người dân bình thường lên tiếng về bất công có thể bị xem là gây rối trật tự công cộng. Trong một xã hội như vậy, ai còn dám suy nghĩ, ai còn dám phản biện, ai còn dám bảo vệ sự thật?

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Khi một cá nhân bị kết án vì phát ngôn của mình, thì không riêng một mình người đó chịu hậu quả. Toàn bộ xã hội sẽ học được một bài học cay đắng: Sự im lặng là con đường an toàn nhất. Sự sợ hãi len lỏi vào từng góc nhỏ của đời sống, khiến con người ta tự kiểm duyệt trước khi nói, tự cắt bỏ những suy nghĩ phản biện trước khi chúng kịp hình thành.

Một xã hội không có tự do tư tưởng là một xã hội chết lâm sàng. Không có đổi mới, không có sáng tạo, không có tiến bộ, chỉ có sự trì trệ và dối trá kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng tệ hơn cả, đó là một xã hội đánh mất khả năng nhận ra sự bất công ngay cả khi nó hiển hiện trước mắt. Khi sự thật bị bóp méo quá nhiều lần, khi những lời dối trá được lặp đi lặp lại với tần suất dày đặc, con người ta sẽ dần chấp nhận nó như một thực tại không thể thay đổi. Và khi điều đó xảy ra, không cần đến một bộ máy đàn áp mạnh tay, chính những nạn nhân của sự cai trị sẽ tự biến mình thành những người bảo vệ cho hệ thống đã trói buộc họ.

Có một câu hỏi cần phải đặt ra: Vì sao Việt Nam có quá nhiều trí thức nhưng lại thiếu vắng những tiếng nói trí thức đích thực? Bởi vì rất nhiều người có học thức đã chọn cách im lặng, hoặc tệ hơn, chọn cách phục vụ cho hệ thống. Chúng ta khoác lên mình danh xưng trí thức nhưng không sử dụng tri thức của mình để bảo vệ lẽ phải, mà chỉ để bảo vệ vị trí và quyền lợi của bản thân. Chúng ta biết rõ những gì đang diễn ra, nhưng thay vì lên tiếng, chọn cách đứng ngoài hoặc thậm chí hợp tác với quyền lực để đàn áp những tiếng nói bất đồng.

Đây chính là bi kịch lớn nhất của giới trí thức Việt Nam: Sự thỏa hiệp với bất công, sự khiếp nhược trước quyền lực, sự phản bội đối với chính lý tưởng của mình. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, những ai lựa chọn đứng về phía áp bức không bao giờ có thể thoát khỏi hậu quả của nó. Một khi hệ thống mất đi giá trị cốt lõi, ngay cả những kẻ từng được hưởng lợi từ nó cũng sẽ bị nuốt chửng.

Những quốc gia tiến bộ trên thế giới không phải ngẫu nhiên mà có. Họ đã trải qua những giai đoạn mà chính quyền muốn bịt miệng trí thức, nhưng giới trí thức ở đó đã không chấp nhận điều đó. Từ châu Âu đến Mỹ, từ Đông Âu đến Đông Á, những cuộc cách mạng tư tưởng đều bắt đầu từ những con người không chấp nhận bị kiểm soát bởi nỗi sợ hãi. Voltaire [3], Rousseau [4], Kant [5], Hayek [6], Orwell [7]– tất cả họ đều là những trí thức đã dám đối mặt với quyền lực để bảo vệ quyền được suy nghĩ, quyền được nói của con người. Nếu họ cũng chọn cách im lặng như nhiều người ngày nay, thế giới này sẽ vẫn còn chìm trong bóng tối của chủ nghĩa chuyên chế.

Nhưng, quay trở lại Việt Nam, điều quan trọng không phải là trách cứ ai đã sai, mà là đặt câu hỏi: Làm thế nào để thay đổi? Một quốc gia không thể phát triển nếu trí thức không dám phản biện, nếu xã hội không dám đòi hỏi quyền của mình. Những bản án dành cho những người như Huy Đức có thể làm nản lòng một số người, nhưng cũng có thể là động lực để những người khác nhận ra rằng: nếu không đấu tranh, chúng ta sẽ không còn gì cả. Một chính quyền không thể đàn áp mãi mãi nếu xã hội không chấp nhận bị đàn áp. Một bộ máy cai trị không thể kiểm soát tất cả mọi người nếu tất cả mọi người cùng lên tiếng.

Tự do ngôn luận không đến từ sự ban phát của chính quyền, mà đến từ sự đòi hỏi không ngừng nghỉ của người dân. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó hết lần này đến lần khác. Khi Nelson Mandela [8] bị giam cầm, điều đó không làm phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi yếu đi, mà còn làm nó mạnh mẽ hơn. Khi Václav Havel [9] đàn áp, điều đó không khiến phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc [10] tan rã, mà còn là tiền đề cho cuộc Cách mạng Nhung [11].

Việt Nam không thiếu những người có đủ nhận thức để hiểu điều này, chỉ thiếu những người có đủ can đảm để hành động. Nhưng sự thay đổi không thể chỉ đến từ một cá nhân hay một nhóm nhỏ, mà phải là ý thức tập thể của cả một dân tộc. Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Bản án của Osin Huy Đức, dù có là gì đi nữa, cũng không phải là dấu chấm hết. Nó chỉ là một trong những dấu mốc trên con đường dài của một dân tộc đang tìm cách thoát khỏi bóng tối. Nhưng để thay đổi, câu hỏi không phải là ai sẽ làm điều đó, mà là liệu tất cả chúng ta tiếp tục cúi đầu hay đứng thẳng để đòi lại tiếng nói của mình.

________

[1] Trí thức không chỉ là những người có học vấn cao, mà quan trọng hơn, là những người mang trách nhiệm đối với sự thật và công lý. Trong mọi thời đại, trí thức luôn đóng vai trò khai sáng, thúc đẩy tiến bộ xã hội và phản biện quyền lực khi cần thiết. Nhưng ở Việt Nam, trí thức vừa đối diện với những thách thức tri thức, đồng thời với áp lực kiểm soát, sự đàn áp và nguy cơ bị bịt miệng. Một trí thức đúng nghĩa không phải là người chỉ thuần thục kiến thức, mà là người dám đặt câu hỏi, dám nói lên sự thật ngay cả khi nó không được chào đón. Thời đại Việt Nam hôm nay không thiếu người tài giỏi, nhưng thiếu những người dám bước qua nỗi sợ hãi để bảo vệ giá trị của trí tuệ. Khi trí thức trở thành công cụ của quyền lực, xã hội mất đi ánh sáng dẫn đường. Nhưng khi trí thức dám đứng lên, đó là khởi đầu của một kỷ nguyên mới.

[2] Osin Huy Đức (tên thật: Trương Huy San) là một nhà báo, nhà bình luận chính trị người Việt Nam, nổi tiếng với những bài viết phản biện sắc bén và tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”, một cuốn sách gây tiếng vang về lịch sử Việt Nam sau 1975. Ông từng là phóng viên của nhiều tờ báo lớn trước khi trở thành cây bút độc lập. Hiện tại, Huy Đức đang bị cầm tù và đối mặt với nguy cơ bị kết án theo điều luật mơ hồ về “lạm dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá nhà nước”, phản ánh tình trạng đàn áp tư tưởng và tự do báo chí tại Việt Nam.

[3] Voltaire (1694–1778): Nhà triết học, nhà văn và nhà khai sáng người Pháp, nổi tiếng với tư tưởng tự do ngôn luận, phản đối chế độ chuyên chế và sự áp bức của tôn giáo. Câu nói kinh điển của ông: “Tôi không đồng ý với điều anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền được nói ra điều đó.” dù chưa được xác nhận là của ông, vẫn thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho tự do ngôn luận.

[4] Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) – Triết gia Khai sáng người Pháp, tác giả Bàn Về Khế Ước Xã Hội(Du Contrat Social), đề xướng quyền tự do và chủ quyền nhân dân, ảnh hưởng sâu sắc đến Cách mạng Pháp và các nền dân chủ hiện đại.

[5] Immanuel Kant (1724-1804) – Nhà triết học người Đức, một trong những tư tưởng gia vĩ đại nhất của thời kỳ Khai sáng. Ông đề xướng “Triết học Phê phán”, nhấn mạnh vào lý trí, đạo đức và tự do cá nhân. Tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” (1781) đặt nền móng cho nhận thức luận hiện đại, trong khi “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Nền tảng Siêu hình Học về Đạo đức” (1785) khẳng định rằng con người phải hành động theo nguyên tắc đạo đức phổ quát, không bị ràng buộc bởi quyền lực hay lợi ích cá nhân. Kant tin rằng tự do ngôn luận và tự chủ trí tuệ là điều kiện cốt lõi để khai sáng xã hội.

[6] Friedrich Hayek (1899–1992) – Nhà kinh tế học và triết gia chính trị người Áo, tác giả của The Road to Serfdom (1944), một tác phẩm kinh điển cảnh báo về nguy cơ của chủ nghĩa toàn trị và sự kiểm soát nhà nước đối với tự do cá nhân. Hayek lập luận rằng một xã hội tự do chỉ có thể tồn tại khi quyền cá nhân, đặc biệt là tự do ngôn luận và tư tưởng, không bị nhà nước kiểm soát. Ông là người bảo vệ mạnh mẽ của kinh tế thị trường và tư tưởng tự do cổ điển.

[7] George Orwell (1903-1950) – Nhà văn, nhà báo và nhà phê bình chính trị người Anh, nổi tiếng với các tác phẩm “1984” và “Animal Farm”, trong đó ông cảnh báo về sự kiểm soát tư tưởng, chế độ toàn trị và nguy cơ thao túng sự thật. Orwell trở thành biểu tượng của tư tưởng chống độc tài, với những khái niệm như “Big Brother”“Doublethink”, và “Newspeak”, phản ánh sự bóp méo ngôn ngữ để kiểm soát nhận thức con người.

[8] Nelson Mandela (1918-2013) – Nhà lãnh đạo phong trào chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, bị giam cầm 27 năm vì đấu tranh chống chế độ Apartheid. Sau khi được trả tự do, ông trở thành Tổng thống Nam Phi (1994-1999) và là biểu tượng toàn cầu của hòa giải, công lý và tự do.

[9] Václav Havel (1936–2011) – Nhà văn, nhà bất đồng chính kiến, và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Ông là một trong những lãnh đạo chủ chốt của Cách mạng Nhung (1989), phong trào bất bạo động dẫn đến sự chấm dứt chế độ cộng sản tại Tiệp Khắc. Với tư tưởng dân chủ, tự do ngôn luận và nhân quyền, Havel không chỉ là một biểu tượng đấu tranh chống độc tài mà còn là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong chính trị toàn cầu.

[10] Phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc bắt đầu mạnh mẽ từ những năm 1970 với Hiến chương 77, một tuyên ngôn do Václav Havel và nhiều trí thức soạn thảo nhằm yêu cầu chính quyền tôn trọng nhân quyền. Đến năm 1989, Cách mạng Nhung bùng nổ khi hàng trăm ngàn người xuống đường biểu tình ôn hòa, buộc chính quyền cộng sản sụp đổ mà không đổ máu. Tiệp Khắc sau đó chuyển đổi thành nền dân chủ đa đảng, mở đường cho sự phát triển của Cộng hòa Séc và Slovakia ngày nay.

[11] Cách mạng Nhung (Velvet Revolution) là cuộc cách mạng ôn hòa diễn ra vào năm 1989 tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia), dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại nước này mà không cần đổ máu. Dưới sự lãnh đạo của Václav Havel và phong trào đối lập, hàng trăm nghìn người dân đã xuống đường biểu tình, buộc chính quyền phải nhượng bộ. Cuộc cách mạng này là một trong những dấu mốc quan trọng của làn sóng dân chủ hóa Đông Âu cuối thế kỷ 20.


 

Không Tự do Dân chủ, “vươn mình” về đâu?- Hồ Phú Bông

Ba’o Tieng Dan

Hồ Phú Bông

15-2-2025

Sau khi được “giải phóng”, chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, vượt biên bằng đường biển. Ghe tôi vượt biên chỉ dài 11 mét, hết nước, hết thực phẩm, mạng sống như chỉ mành treo chuông thì được tàu Hohsing Arrow vớt đưa vào Singapore. Lúc đó mới biết ghe có 50 người cả trẻ em, bị lạc hướng, cách Philippines hơn ngàn hải lý.

Ngay hôm sau, đoàn JVA Mỹ (Joint Voluntary Agency) vào phỏng vấn, gặp người bạn cũ làm việc trong đoàn. Tâm tình sau đó, chị cho biết, người Mỹ rất quý trọng người can đảm. Vì thế những người đứng ra tổ chức vượt biên, dễ được nhận.

Điển hình, có ba anh em rất chân quê ở Đồng Tháp, đốn cây vông trong vườn đóng chiếc ghe vượt biên. Đã hẳn ghe đó ra biển không khác gì trẻ em xếp chiếc ghe bằng giấy thả trôi theo dòng nước. Chuyện phải đến đã đến. Ghe trôi dạt, may mà chưa chìm. Người anh chờ chết, hai người em cũng kiệt sức thì được tàu cứu. Người anh phải nằm tại bệnh viện ở Singapore hơn hai tuần. JVA phỏng vấn ngắn và nhận ngay, dù họ không liên quan gì đến VNCH. Nhưng họ xin đi Na Uy vì hy vọng có thể bảo lãnh được gia đình chỉ khoảng nửa năm, lúc đó Mỹ – Việt Nam chưa bang giao.

Thể hiện “Mỹ tính” qua phim, là hình ảnh anh cao bồi một mình một ngựa rong ruổi, tình cờ gặp bọn cướp hiếp dân lành, bất chấp nguy hiểm, đấu trí, đấu súng… pằng pằng. Tiêu diệt xong lại vó ngựa lên đường trước quyến luyến của dân làng, đặc biệt với đôi mắt ướt lệ, thẫn thờ của giai nhân.

Lịch sử xây dựng nước Mỹ không hiếm những người hùng như thế nên họ thích người can đảm, dám sống chết với bổn phận và trách nhiệm. Họ không có “văn hóa tuẫn tiết” như phương Đông.

– So sánh với chế độ XHCN Việt Nam hiện tại thì trái ngược. Những ai dám thể hiện bổn phận và trách nhiệm công dân, thẳng thắn bày tỏ chính kiến, dù hoàn toàn ôn hòa, vẫn bị chế độ độc tài đảng trị bịa chuyện để gán ghép tội. Các bản án đến 5, 10, 15 năm tù mà phiên tòa chỉ kéo dài 4 hay 5 tiếng đồng hồ!

Ở các nước tư bản báo chí được tự do điều tra những sai trái của chính quyền để đưa ra ánh sáng. Tổng thống Obama trong chuyến thăm Việt Nam kể là ông bị nhiều châm biếm, phê phán nhưng nhờ đó có thể điều hành việc nước tốt hơn.

– So sánh với báo chí phương Tây, truyền thông Việt Nam là dàn hợp xướng chỉ ca ngợi đảng. Lịch sử thời phong kiến, Tàu cũng như Việt, cho biết, khi vua thích nịnh thần thì triều đại đó sụp đổ! Dàn hợp xướng “kỷ nguyên vươn mình” đang mở công suất lớn ca ngợi ông Tô Lâm “bò dát vàng”.

***

Về phương diện tu, câu cửa miệng dân dã là: Thứ nhất, tại gia; thứ hai, tại chợ; thứ ba, tại chùa.

Tại gia, là tự hướng thượng. Tại chợ, là trực tiếp giữa đời thường tham/ sân/ si để buông bỏ ngã mạn. Tại chùa, là để thâm sâu về Phật pháp.

Sư Thích Minh Tuệ trực tiếp với đời thường, tu theo hạnh đầu đà ba y một bát, xưng con với mọi người, buông bỏ tham/ sân/ si. Nhiều lần sư xác nhận mình chỉ “đang tu học”.

Suốt 5 năm hành khất đơn độc Bắc/ Nam – Nam/ Bắc, tối ngủ ngồi nơi có thể, để tu học. Đến khi bị/ được các YouTubers phát hiện, người dân mới biết. Theo dõi rồi ngưỡng mộ, đổ xô tìm gặp để được đảnh lễ. Chỉ thời gian rất ngắn, hàng triệu người hướng về sư thì các chùa của Phật giáo nhà nước có tượng Phật lớn, có chùa nguy nga tráng lệ, có các “sư” “thông thái”, “uyên bác” bỗng chốc lại vắng tanh.

Qua hình ảnh hành khất Thích Minh Tuệ người dân được giác ngộ. Hướng về điều Thiện Lành.

Nếu là “chính quyền”, đã hẳn đây là cơ hội hiếm có phải chụp lấy để xiển dương. Một xã hội mà người dân hướng về điều Thiện Lành, đương nhiên xã hội đó phải tốt đẹp. Vì đạo đức là nền tảng để phát triển mọi mặt, như văn hóa, chính trị, kinh tế… được như thế người dân mới thật sự có tự do, hạnh phúc.

Chuyện người Nhật kéo xe ở Tokyo, phải mất hơn 3 tiếng đồng hồ tìm hỏi người khác mới đưa được vị khách nước ngoài, là cụ Phan Bội Châu (1), đến đúng nơi ghi trên danh thiếp nhưng nhứt định không nhận tiền tip.

Chuyện khác, mới hơn, là thảm họa sóng thần tsunami Tohoku, năm 2011 (2). Dòng người đói lả xếp hàng dài kiên nhẫn chờ cứu trợ, không trách cứ, than vãn. Có người còn nhường phần ăn cho người cần hơn. Trăm người khác thì tự nguyện ở lại, dù có thể chết, để khắc phục hậu quả rò rỉ phóng xạ tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima, ra sức cứu thảm họa ô nhiễm môi trường.

Với vài chuyện “rất nhỏ” nói trên thì việc phát triển thần kỳ của nước Nhật, chỉ 25 năm sau khi đất nước tan hoang vì thua trận Thế chiến thứ II, chẳng có gì phải ngạc nhiên!

– Thế nhưng, 50 năm sau khi chiếm được miền Nam, chế độ XHCN Việt Nam làm ngược lại hoàn toàn.

Ví dụ, vào nửa đêm tại Huế, họ “úp sọt” sư Thích Minh Tuệ và khoảng gần trăm người. Ban ngày công an gìn giữ trật tự đoàn hành khất rất tốt. Tối, chọn chỗ cho đoàn ngủ nghỉ. Nhưng đến khuya thì đột kích, tấn công không khoan nhượng. Tống người lên xe, phân tán họ cách Huế vài chục cây số rồi đẩy xuống đường nơi vắng vẻ. Riêng sư Minh Tuệ biệt tích, mấy ngày sau công an mới phổ biến hình ảnh đang lăn tay làm căn cước. Sau đó nói sư “ẩn tu”. Dù “ẩn tu” là thoát ly xã hội, trong khi sư Minh Tuệ khất thực, là “tu giữa chợ đời”!

Giờ thì mọi chuyện khá rõ ràng, ép sư làm căn cước để làm hộ chiếu và visa. Trung ương tìm cách trục xuất sư khỏi nước.

Không chỉ thế, còn cử đặc vụ theo đoàn để kiềm chế. Thượng tá công an về hưu, có bằng “Tiến sĩ Tâm lý”, “tình nguyện” theo “Thầy” nhưng làm trưởng đoàn (!) trong khi sư Minh Tuệ chỉ muốn nhờ giúp đỡ làm giấy tờ và tìm hiểu lộ trình đi Ấn Độ.

Đoàn người hiện đang ở Thái Lan gặp nhiều rắc rối, nếu không muốn nói là hỗn độn. Sự hỗn độn không phải vô tình. Gây ra hỗn độn có mục đích.

***

Một chế độ khi người dân làm bổn phận và trách nhiệm công dân, dám nói lên sự thật, là độc tài đảng trị có nguy cơ đưa đất nước đến tai họa thì bị xử tù. Một mầm Thiện Lành quý hiếm mới phát hiện, qua hình ảnh hành khất Thích Minh Tuệ, được cả triệu người kính ngưỡng, thì tìm cách triệt tiêu.

Chế độ đó sẽ đưa đất nước về đâu? Bản thân chế độ sẽ về đâu? Không có tự do dân chủ “kỷ nguyên vươn mình” sẽ về đâu?

________

Chú thích:

(1) https://jasa.edu.vn/?chitiet=489&tinh-than-nhat-ban-qua-chuyen-phan-boi-chau-va-anh-phu-xe-o-tokyo.html

(2) https://www.buctranhvancau.com/new-blog/2020/3/7/nh-li-thm-ha-v-ng-khu


 

Mỹ trục xuất di dân Phi Châu và Á Châu, có cả Việt Nam, qua Panama

Ba’o Nguoi-Viet

February 14, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Hàng loạt di dân bất hợp pháp đến từ các quốc gia Phi Châu và Á Châu đang bị Hoa Kỳ trục xuất qua Panama, một bước đột phá về ngoại giao cho nỗ lực trục xuất hàng loạt của chính quyền Tổng Thống Donald Trump, theo các hồ sơ liên bang nội bộ được CBS News thu thập.

Hôm Thứ Tư, 12 Tháng Hai, Hoa Kỳ tổ chức một chuyến bay quân sự nhằm trục xuất di dân Á Châu đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ qua Panama, theo ghi nhận đây là lần đầu tiên chính quyền Trump trục xuất di dân qua quốc gia Trung Mỹ. Di dân bị trục xuất gồm có người trưởng thành và gia đình có trẻ em xuất thân từ Afghanistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Iran và Uzbekistan, các hồ sơ liên bang cho biết.

Theo kế hoạch, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tổ chức một chuyến bay quân sự khác nhằm trục xuất thêm di dân Á Châu qua Panama vào Thứ Năm, ngoài ra còn có một số di dân Phi Châu. Hồ sơ liên bang cho thấy một trong số các di dân Phi Châu là dân Cameroon.

Phi cơ Boeing C-17 của Không Lực Hoa Kỳ dùng để chở di dân bị trục xuất tại Căn Cứ Bliss, El Paso, Texas ngày 13 Tháng Hai, 2025. (Hình: JUSTIN HAMEL/AFP/Getty Images)

Trong một tuyên bố hôm Thứ Năm, Bộ Ngoại Giao Panama xác nhận rằng họ đã đón nhận chuyến bay đầu tiên hôm Thứ Tư sau khi đạt được thỏa thuận với chính quyền Trump nhằm cho phép Hoa Kỳ trục xuất những người không phải công dân Panama tới quốc gia Trung Mỹ.

Bộ Ngoại Giao Panama cho biết chuyến bay trục xuất hôm Thứ Tư chở 119 di dân bị trục xuất từ ​​Afghanistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Nepal, Pakistan, Tích Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan và Việt Nam, đồng thời cho biết thêm rằng Hoa Kỳ sẽ thanh toán chi phí trục xuất như đã thỏa thuận.

Panama được là nơi trung chuyển trong làn sóng di cư hàng loạt xảy ra trong khu vực trong những năm gần đây nên chiến dịch trục xuất di dân qua quốc gia Trung Mỹ là một chiến thắng ngoại giao quan trọng dành cho tổng thống, cũng như kế hoạch thực thi luật nhập cư bất hợp pháp đang được toàn chính quyền Trump thực thi.

Sở dĩ Hoa Kỳ gặp khó khăn trong việc trục xuất di dân Phi Châu và Á Châu là vì Bán Cầu Đông là một khu vực xa xôi theo kế hoạch trục xuất, đồng thời chính phủ ở các châu lục đó quyết định hạn chế hoặc từ chối các chuyến bay trục xuất từ Hoa Kỳ. The New York Times là tờ báo đầu tiên đưa tin về chiến dịch trục xuất di dân Á Châu vào Thứ Tư.

Ngoài ra cũng có hai quốc gia chấp nhận đón di dân bị Hoa Kỳ trục xuất dù không phải là công dân là El Salvador và Guatemala. Thậm chí Tổng Thống El Salvador Nayib Bukele còn đề nghị đón nhận và giam giữ di dân bị tình nghi thuộc băng đảng Tren de Aragua có nguồn gốc từ Venezuela do Hoa Kỳ trục xuất.

Chính quyền Trump cũng đang nỗ lực thực hiện thêm các thỏa thuận trục xuất, dầu chưa rõ có thể tiếp tục nhất quán với những quốc gia nào cho các kế hoạch trục xuất, trong đó theo một kế hoạch đã được đề ra, Hoa Kỳ sẽ đưa công dân của quốc gia thứ ba tới quốc gia Nam Mỹ Guyana, hai viên chức Hoa Kỳ ẩn danh nói với CBS News.

Việc Panama sẵn sàng đón nhận di dân bị trục xuất cũng diễn ra trong thời điểm Tổng Thống Trump để mắt tới kế hoạch giành lại quyền kiểm soát Kênh Đào Panama, một khu vực có tầm quan trọng về chiến lược. Năm 1999, Hoa Kỳ từng nhượng lại kênh đào cho Panama. Các nhà lãnh đạo Panama thẳng thừng khước từ ý tưởng của Trump cũng như phản đối những tuyên bố do ông và các viên chức Hoa Kỳ đưa ra rằng Trung Quốc đang gây ảnh hưởng tới hoạt động tại kênh đào.

Trong chuyến công du quốc tế đầu tiên, Ngoại Trưởng Marco Rubio viếng thăm Panama ngay khi nhậm chức, đồng thời Bộ Ngoại Giao cho biết vào tuần trước rằng Hoa Kỳ đã đạt được một thỏa thuận cho phép các hạm đội Mỹ băng qua kênh đào mà không tốn lệ phí. Tổng thống Panama cho biết đôi bên vẫn chưa đạt được thỏa thuận như Hoa Kỳ đã nói đồng thời cho biết tuyên bố do Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa ra là “giảo biện.”

Các phát ngôn viên Bộ Nội An và Bộ Ngoại Giao chưa trả lời yêu cầu bình luận liên quan tới các chuyến bay trục xuất qua Panama.

Tương tự Hoa Kỳ, trong những năm gần đây Panama không ngừng gặp rắc rối trong các vấn đề di cư.

Darién Gap, một khu rừng không có đường đi, đồi núi hiểm trở và từng là nơi bất khả xâm phạm ngăn cách Panama và Colombia, nay là nơi ngày đêm trung chuyển các đoàn di dân nuôi hy vọng vượt qua Trung Mỹ và Mexico để đặt chân tới Hoa Kỳ.

Năm 2023, hơn nửa triệu di dân phần lớn xuất thân từ Venezuela, vượt qua cánh rừng Darién rồi lọt vào Panama, một con số kỷ lục. Số lượng di dân đó giảm xuống còn hơn 300,000 vào năm 2024, mặc dù vẫn là số liệu thống kê hàng năm cao thứ nhì do chính quyền Panama ghi nhận. (TTHN)


 

Vì sao những người thường xuyên cầu nguyện có sức khỏe tốt hơn?

Để có được sức khỏe tốt nhất, dưới đây là một vài điều mà bạn cần làm: Thường xuyên vận động/tập thể dục, ăn thực phẩm lành mạnh/sạch và thô (ít chế biến), đưa cân nặng về ‘chuẩn’ – và cầu nguyện. Đúng vậy, cầu nguyện và thiền định thường xuyên sẽ mang lại lợi ích không ngờ, điều này đã được các nghiên cứu khoa học chứng minh.

Cầu nguyện được xem là giải pháp điều trị thay thế phổ biến nhất ở xã hội Mỹ ngày nay. Có hơn 85% những người phải đương đầu với bệnh nặng đã cầu nguyện, theo một nghiên cứu của Đại học Rochester. Tỉ lệ này cao hơn nhiều so dùng thảo mộc hoặc theo đuổi phương thức chữa bệnh phi truyền thống khác. Và đó là bằng chứng cho thấy việc cầu nguyện mang lại hiệu quả.

Không kể là bạn cầu nguyện cho chính mình hay cho người khác, để chữa lành bệnh hay vì hòa bình trên thế giới, hoặc đơn giản là ngồi trong im lặng và yên tĩnh tâm – những tác động dường như là tương tự. Nhiều phương pháp tinh thần loại này đã có khả năng giúp làm giảm bớt mức độ căng thẳng (stress) – vốn là một trong những yếu tố nguy cơ chính yếu gây bệnh cho con người, đồng thời chúng cũng là công cụ mạnh mẽ giúp người ta có cái nhìn tích cực, vượt qua những thử thách khó khăn trong cuộc sống.

Mối quan hệ giữa cầu nguyện và sức khỏe là chủ đề của nghiên cứu trong vòng nhiều chục năm qua. Tiến sĩ Herbert Benson, một chuyên gia tim mạch tại Trường Y Harvard và một người tiên phong trong lĩnh vực y học tâm – thân, đã phát hiện điều gọi là “phản ứng thư giãn” (response of relaxation) xảy ra trong thời gian cầu nguyện và thiền định. Vào những lúc như vậy, sự trao đổi chất của cơ thể giảm xuống, nhịp tim chậm, huyết áp giảm xuống, và hơi thở của chúng ta trở nên bình ổn và đều đặn hơn.

Trạng thái sinh lý này đi cùng với hiện tượng sóng não chậm hơn, và cảm giác kiểm soát sự tỉnh táo yên tĩnh và yên tâm. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì theo TS Benson, có hơn một nửa những người đến thăm khám bác sĩ ở Mỹ ngày nay có vấn đề bệnh tật, như trầm cảm, huyết áp cao, viêm loét và đau nửa đầu… phân nửa gây ra bởi căng thẳng và lo lắng.

Tiến sĩ Andrew Newberg, Giám đốc Trung tâm cho Tâm linh và Tâm học tại Đại học Pennsylvania đã tiến hành một nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện, cho thấy chúng làm giảm hoạt động trong não, làm tăng mức độ dopamine – vốn gắn liền với trạng thái hạnh phúc và niềm vui.

Ken Pargement của Đại học Bowling Green hướng dẫn một nhóm người bị chứng đau nửa đầu thiền 20 phút mỗi ngày lặp đi lặp lại lời cầu nguyện, chẳng hạn như “Chúa là bình an. Chúa là tình yêu thương“. Các nhóm khác sử dụng một câu không có ý nghĩa tâm linh, như: “Cỏ là màu xanh lá cây. Cát mềm.” Kết quả là những người thiền định và cầu nguyện (nhóm I) ít bị đau đầu hơn và chịu được các cơn đau tốt hơn so với nhóm còn lại.

Trong một nghiên cứu được tài trợ bởi National Institutes of Health, nhóm những người cầu nguyện hàng ngày ít bị huyết áp hơn đến 40% so với những người không một thực hành cầu nguyện thường xuyên. Nghiên cứu tại trường Y Dartmouth cho thấy những bệnh nhân phẫu thuật tim có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ khả năng phục hồi hơn hẳn so với những người ít liên hệ tới tôn giáo. Một số nghiên cứu khác cho thấy cầu nguyện cải thiện hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc (hoặc mức độ nghiêm trọng) nhiều bệnh, sống thọ hơn .

Nhưng câu hỏi đặt ra là: Cầu nguyện tác động lên sức khỏe thông qua cơ chế nào? Những nghiên cứu gần đây nhất TS. Herbert Benson cho rằng thực hành tâm linh hàng ngày lâu dài giúp vô hoạt các gen kích hoạt viêm và làm chết tế bào nhanh chóng. Như vậy là tâm linh/tinh thần có thể tác động để sự hoạt hóa/biểu hiện các gen trong cơ thể chúng ta, và cầu nguyện có thể ảnh hưởng đến các chức năng của cơ thể ở cấp cơ bản và quan trọng nhất.

Tất nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì không thể nói là cầu nguyện có thể thay thế hoàn toàn các biện pháp điều trị y tế hiện đại, nhất là khi đang trong tình trạng cấp bách, nhưng rõ ràng đây là các kết quả chân thực, các con số đã thống kê được về lợi ích sức khỏe khi người ta thành tâm cầu nguyện.

Kiên Thành
(Theo Huffington Post)

https://songhanhphuc.net/tin-tuc/vi-sao-nhung-nguoi-thuong-xuyen-cau-nguyen-co-suc-khoe-tot-hon

Cầu nguyện khi cảm thấy dường như vô ích – Ronald Rolheiser

Ronald Rolheiser

Cầu nguyện không phải để thay đổi tâm trí Chúa, nhưng để thay đổi tâm trí của người đang cầu nguyện. 

”Cầu nguyện đặc biệt cần thiết nhất khi chúng ta cảm thấy cầu nguyện là vô ích.” Cố linh mục thần học gia Dòng Tên Michael J. Buckley (1931-2019), một trong những người cố vấn tâm linh quan trọng nhất của tôi đã viết những lời này. Ngài có ý gì khi nói như vậy?

Trước rất nhiều vấn đề, có khi chúng ta cảm thấy cầu nguyện là vô ích. Chẳng hạn trước một số vấn đề lớn của thế giới, chúng ta cảm thấy nản lòng và bất lực, chúng ta dễ dàng nói cầu nguyện là vô ích. Lời cầu nguyện của tôi sẽ có tác dụng gì với các cuộc chiến đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới? Giá trị của lời cầu nguyện của tôi là gì khi tôi phải đối diện với bất công, nạn đói, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giới tính? Lời cầu nguyện của tôi có tác động nào khi cộng đồng của tôi đang chia rẽ và thù hận? Thật dễ dàng để cảm nhận cầu nguyện trong những tình huống này là vô ích.

Cũng vậy khi chúng ta bị bệnh nặng. Liệu lời cầu nguyện có thể chữa khỏi bệnh ung thư ở giai đoạn cuối không? Chúng ta có thực sự mong chờ một phương thuốc phép lạ không? Phần lớn chúng ta không nghĩ vậy, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục cầu nguyện dù cảm thấy lời cầu nguyện của mình sẽ không thay đổi tình hình. Vì sao?

Vì sao phải cầu nguyện khi có vẻ như việc cầu nguyện là vô ích? Các thần học gia, các tác giả tâm linh giải thích cho chúng ta nhiều góc nhìn khác nhau về vấn đề này, tuy hữu ích nhưng không đầy đủ. Họ cho rằng, cầu nguyện không phải để thay đổi tâm trí Chúa, nhưng để thay đổi tâm trí của người đang cầu nguyện. Chúng ta không cầu nguyện để kéo Chúa về phía mình; chúng ta cầu nguyện để đặt mình về phía Chúa. Thêm nữa, chúng ta được dạy, lý do chúng ta cảm thấy Chúa không trả lời, vì Chúa như người cha yêu thương, biết điều gì tốt cho chúng ta và ban cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần chứ không phải những gì chúng ta ngây thơ muốn. Tác giả C.S. Lewis đã nói, chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ trong cõi vĩnh hằng để tạ ơn Chúa vì những lời cầu nguyện Chúa đã không nhận lời.

Tất cả những điều này đều đúng và quan trọng. Đường lối của Chúa không phải là đường lối của chúng ta. Đức tin đòi hỏi chúng ta dành cho Chúa không gian và thời gian để Chúa là Chúa, không theo những mong chờ rất hạn hẹp và thiếu kiên nhẫn của chúng ta. Thực sự chúng ta nên tạ ơn Chúa vì điều này.

Nhưng dù vậy… khi Chúa Giêsu xin chúng ta cầu nguyện, Ngài không cảnh báo chúng ta: con phải xin những điều đúng đắn nếu con muốn Ta nhận lời. Không, Ngài chỉ nói: Hãy xin và con sẽ được. Ngài nói, một số con quỷ chỉ bị đuổi đi bằng ăn chay cầu nguyện.

Vậy, làm thế nào những con quỷ bạo lực, chia rẽ, hận thù, chiến tranh, đói kém, khí hậu nóng lên toàn cầu, nạn đói, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, ung thư, bệnh tim… có thể bị đuổi đi bằng lời cầu nguyện? Làm thế nào để cầu nguyện hữu ích một cách thiết thực khi đối diện với những vấn đề này?

Tóm lại, lời cầu nguyện không chỉ thay đổi người đang cầu nguyện mà còn thay đổi tình huống. Khi chúng ta cầu nguyện, thực tế chúng ta là một phần của tình huống mà chúng ta cầu nguyện. Lời cầu nguyện chân thành giúp chúng ta trở thành sự thay đổi mà chúng ta đang cầu nguyện để được. Chẳng hạn, cầu nguyện cho hòa bình giúp chúng ta bình tâm, mang lại cho thế giới thêm một trái tim thanh thản.

Dù điều này là đúng, nhưng cũng có một thực tế sâu đậm hơn. Sâu đậm vì khi chúng ta cầu nguyện, có điều gì đó đang xảy ra vượt ra ngoài cách chúng ta thường hình dung về sự tương tác đơn giản giữa nguyên nhân và kết quả. Khi thay đổi bản thân, chúng ta đang thay đổi tình hình; đúng vậy, nhưng theo cách sâu đậm hơn cách chúng ta thường tưởng tượng.

Là người có đạo, chúng ta nghĩ chúng ta là một phần của Nhiệm thể Chúa Kitô, và sự kết hợp của chúng ta trong Chúa không phải là sự kết hiệp của một cộng đồng lý tưởng. Nhưng, chúng ta là một phần của một sinh vật sống mà mọi bộ phận đều ảnh hưởng đến nhau, giống như trong một cơ thể vật lý. Vì lý do này, với chúng ta, không có một hành động nào là riêng tư – tốt hay xấu. Tôi ngần ngại khi nghĩ rằng điều này tương tự như hệ thống miễn dịch trong cơ thể con người, vì đây không chỉ là một phép so sánh. Nó là thực tế, hữu cơ. Giống như hệ thống miễn dịch bảo vệ sức khỏe cho toàn bộ cơ thể bằng cách tiêu diệt các tế bào và vi-rút gây nguy hiểm cho sức khỏe, thì bên trong Nhiệm thể của Chúa Kitô cũng vậy. Khi nào chúng ta, hoặc là những tế bào khỏe mạnh mang lại sức mạnh cho hệ thống miễn dịch bên trong Nhiệm thể Chúa Kitô, hoặc chúng ta là một loại vi-rút, một loại tế bào ung thư đe dọa cho sức khỏe. Cầu nguyện tạo nên sự khác biệt vì cầu nguyện giúp tăng cường hệ thống miễn dịch bên trong Nhiệm thể Chúa Kitô – chính xác giải quyết vấn đề chúng ta đang cầu nguyện. Mặc dù trên bề mặt, đôi khi lời cầu nguyện có vẻ vô ích, nhưng nó đang làm một điều gì đó quan trọng bên trong – điều cần thiết chính xác là khi chúng ta cảm thấy lời cầu nguyện của mình vô ích.

Ronald Rolheiser

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org

https://daminhbuichu.net/cau-nguyen-khi-cam-thay-duong-nhu-vo-ich/

Bà cụ New York mừng sinh nhật 104 tuổi bằng cách đi thăm nhà tù

Ba’o Nguoi-Viet

February 13, 2025

AVON, New york (NV) – Bà cụ ở New York mừng sinh nhật 104 tuổi bằng việc hiếm có ai làm: Đi thăm nhà tù, cảnh sát cho hay hôm Thứ Hai, 10 Tháng Hai.

Bà Loretta sống ở nhà dưỡng lão Avon Nursing Home ở Avon, Sở Cảnh Sát Livingston County (LCSO) cho biết trên Facebook.

Bà Loretta thăm nhà tù Livingston County, New York, nhân dịp sinh nhật 104 tuổi. (Hình: Livingston County Sheriff’s Office)

Thứ Bảy tuần trước, nhân dịp sinh nhật bà Loretta, nhân viên nhà dưỡng lão hỏi bà muốn làm gì. Bà đáp bà “muốn coi bên trong nhà tù của chúng tôi” vì bà chưa bao giờ đi tù, theo LCSO.

LCSO chấp thuận mong muốn của bà Loretta, và bà được mời tới thăm nhà tù quận hạt.

“Trước khi bà đi thăm, chúng tôi mừng sinh nhật bà bằng cà phê và bánh kem,” LCSO viết trên Facebook. “Và bà cho cảnh sát trưởng hay bí quyết sống lâu là ‘chỉ lo chuyện của mình!’”

Bà Loretta “rất vui khi đi thăm nhà tù của chúng tôi,” LCSO cho biết.

“Chúng tôi rất vui vì có thể biến ước mơ sinh nhật của bà trở thành sự thật,” LCSO thêm. “Cảm ơn bà vì giúp chúng tôi cười suốt ngày.” (Th.Long) [qd]