Liệu tổng thống Zelensky có thể cứu vãn mối quan hệ với Trump và cứu được Ukraine không?
Theo báo Bưu Điện Hoa Thịnh Đốn – Washington Post
Ba năm sau cuộc chiến với Nga, Tổng thống Zelensky dường như đã vướng vào mối bất hòa cá nhân với nhà lãnh đạo của đồng minh hùng mạnh nhất của Ukraine.
Để cứu đất nước, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hy vọng có thể cứu vãn mối quan hệ của ông với Tổng thống Donald Trump sau khi mối quan hệ này tan vỡ một cách công khai vào tuần này, các nhà lập pháp và chuyên gia Ukraine cho biết.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky theo dõi Donald Trump, khi đó là tổng thống đắc cử, vẫy tay chào các nhà báo ở Paris sau cuộc họp ba bên với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron vào tháng 12. (Amaury Cornu/AFP/Getty Images)
Trong ba năm chiến tranh, Ukraine đã chứng kiến hàng chục nghìn người thiệt mạng, hàng triệu người phải di dời, các thành phố bị phá hủy và nhiều vùng đất rộng lớn bị Nga chiếm giữ. Nhưng giờ đây Zelensky đang vật lộn với một tổng thống Hoa Kỳ đổ lỗi cho ông về cuộc chiến và tìm kiếm một nửa tài sản khoáng sản của Ukraine để đổi lấy sự hỗ trợ thêm.
Mối hiềm khích này có thể là thách thức có hậu quả nghiêm trọng nhất đối tổng thống Zelensky kể từ quyết định ở lại đất nước và chiến đấu sau khi Nga xâm lược vào tháng 2 năm 2022. Với Trump, ông phải đối phó với một đồng minh dễ bị tổn thương, nổi tiếng là hay nuôi mối hận thù – làm phức tạp thêm cuộc đấu tranh của Kyiv nhằm đảm bảo một thỏa thuận hòa bình không ảnh hưởng đến an ninh, chủ quyền hoặc năng lực kinh tế để tái thiết, trong bối cảnh Putin vẫn tiếp tục phá vỡ quyền tự chủ của Ukraine và không hề suy giảm cuộc tiến công.
Các đối tác của Ukraine cho biết “tất cả họ đều thấy bong bóng thông tin sai lệch, nhưng không ai muốn là người đầu tiên nói lên điều đó một cách công khai”, một người tham gia đàm phán cho biết và yêu cầu giấu tên do tính nhạy cảm của chủ đề này.
Người này cho biết, cả hai bên đều không nên tranh cãi, nhưng “không quốc gia nào có thể nói rằng việc ai đó đối xử với nguyên thủ một cách thiếu tôn trọng là điều bình thường”.
Các nhà phân tích và nhà lập pháp Ukraine nhấn mạnh rằng liệu tổng thống Zelensky có thể hàn gắn được mối quan hệ với đồng minh hùng mạnh nhất của đất nước mình hay không sẽ quyết định tương lai của Ukraine.
“Bất kể hoàn cảnh nào, chúng ta cũng không ở vị thế có thể cãi nhau với ông Trump. Chúng ta cần phải khôn ngoan hơn”, Oleksandr Merezhko, chủ tịch ủy ban chính sách đối ngoại của quốc hội Ukraine, cho biết. “Chúng ta cần giành được lòng tin và sự tôn trọng của Trump, và điều này hiện cực kỳ khó khăn, nhưng không phải là không thể”.
Zelensky với ứng cử viên Trump vào tháng 9 khi ông này đang ở New York để tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc. (Alex Kent/Getty Images)
Sự thay đổi phản ứng của tổng thống Trump diễn ra sau khi Zelensky từ chối yêu cầu về 50 phần trăm tài sản khoáng sản của Ukraine. Cố vấn an ninh quốc gia Michael Waltz hôm thứ Năm đã bày tỏ “sự thất vọng” của chính quyền với Zelensky vì đã công khai chỉ trích việc không thỏa thuận và yêu cầu ông ký ngay lập tức.
Cựu thứ trưởng ngoại giao Ukraine Lana Zerkal cho biết nếu Zelensky ký thỏa thuận tài nguyên, Trump có thể đã nồng nhiệt với ông ấy. Quyết định thay vào đó là chỉ trích Trump của ông “chắc chắn là một sai lầm”.
Các quan chức châu Âu khuyên Zelensky nên bỏ qua những lời chế giễu của tổng thống Trump về sự nổi tiếng của ông và cảnh báo ông không nên từ chối thỏa thuận tài nguyên quá nhanh, theo một quan chức châu Âu, nói với điều kiện giấu tên để thảo luận về các vấn đề nhạy cảm. Quan chức này cho biết Zelensky có thể đã hành động quá vội vàng khi phản ứng với những tuyên bố sai sự thật của Trump.
Đến thứ sáu, ngày 21-2, có vẻ như các cuộc đàm phán về thỏa thuận tài nguyên khoáng sản đã đi đúng hướng.
Trong một dấu hiệu nhượng bộ Nga rõ ràng vào tuần trước, Trump đã gọi cho Putin về việc chấm dứt chiến tranh trước khi ông gọi cho Zelensky, chấm dứt gần ba năm cô lập của phương Tây đối với Putin. Sau đó, ông kêu gọi bầu cử ở Ukraine — một chủ đề thường được Điện Kremlin nói đến — và hạ thấp tỷ lệ thăm dò ý kiến của Zelensky.
Các bác sĩ cho biết sức khỏe của Đức Giáo hoàng Francis “còn mỏng dòn và chưa thoát khỏi hiểm nghèo”
ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG – Nguyễn Cát Thịnh – Truyen ngan HAY
Nguyễn Cát Thịnh
Nó và tôi không xa lạ. Thời sinh viên, tôi là gia sư của anh em nó. Trái với đứa anh, nó thông minh, có cá tính, nhưng ham chơi biếng học. Tôi mất nhiều thì giờ dậy dỗ nên nhớ nó rất rõ.
Sau cuộc biển dâu, gặp lại nhau trên đất khách quê người. Dù nó đã lột xác, tôi vẫn nhận ra.
Thật là thích thú được nghe câu chuyện đời tư của nó.
Tôi chỉ viết lại theo lời kể, không thêm bớt.
Ghi chú: nhân vật xưng “Tôi” chính là nó.
***
TÀI XẾ VÀ THÁNH NỮ
Tôi là một người Việt gốc Hoa. Nhà tôi có 3 anh em. Trên tôi là anh Hai, hơn tôi gần 2 tuổi. Dưới tôi là gái út, kém tôi 4 tuổi.
Thuở nhỏ, tôi và anh Hai học cùng lớp. Anh sáng dạ, học rất khá. Tôi lười học, chỉ giỏi mầy mò tháo ráp máy móc, thích đánh lộn..
Đến tuổi quân dịch, anh Hai nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh buồn lắm, nhìn thấy tương lai mờ mịt, suốt ngày than thở. Thương anh phải bỏ dở chuyện học hành, tôi ngỏ lời tình nguyện đi thay. Tôi và anh hoán đổi lý lịch.
Sau này, dù đáo hạn tuổi, anh vẫn được hoãn dịch, lý do gia cảnh, vì anh trở thành con trai duy nhất còn lại trong gia đình.
Cha mẹ đồng ý.
Phường khóm chỉ biết chúng tôi với những cái tên ở nhà nên khi tôi cầm giấy tờ của anh trình diện, không ai nghi ngờ. Vả lại, anh em tôi nhìn không khác nhau nhiều.
Sau khi mãn khoá quân trường, ông nội lo lót cho tôi về phục vụ trong ban quân xa của một đơn vị ngoại thành.
Một dịp ngẫu nhiên, tôi được điều động đi sửa chữa khẩn cấp xe jeep của một vị sĩ quan cấp tá chết máy khi đang trên đường công tác. Thấy tôi nhanh nhẹn, tay nghề vững chắc, vị sĩ quan rất hài lòng. Mấy tuần sau tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm tài xế cho vị sĩ quan đó.
Cuộc đời tôi bước vào một ngã rẽ, và số mệnh đã được định đoạt từ đây.
Ngoài công tác lái xe, tôi được ông Tá (tên vị sĩ quan) xem như người nhà. Khi rảnh rỗi, tôi tình nguyện giúp sửa chữa những việc lặt vặt tại tư gia của ông. Thỉnh thoảng được mời ngồi ăn cơm chung với gia đình.
Ông bà có 4 người con, 2 trai 2 gái. Tất cả đều học trường Pháp. Cô gái lớn tên Sylvie xinh đẹp, có dáng dấp khỏe mạnh tây phương, rất tự nhiên với tôi. Nhưng tôi thì không tự nhiên khi tiếp xúc, có cảm tưởng cô chỉ xem tôi như một gia nhân. Tự ti mặc cảm, tôi chấp nhận, không thắc mắc.
Một ngày nọ, bà Tá bận việc không đón cô tan học như thường lệ nên ông Tá nhờ tôi.
Hôm đó trời mưa tầm tã suốt buổi.
Chiếc xe jeep nhà binh không có vạt che 2 bên, mưa tạt mạnh vào trong. Trông cô như một tài tử đang diễn cảnh vừa rơi xuống hồ bơi mặc nguyên quần áo, bước lên xe. Run rẩy.
Chiếc chemise trắng và chiếc jupe vàng dán sát làm phông, nổi bật nội y. Lồ lộ một bông hoa đang hé nở. Toàn thân phác họa sẵn những đường nét hình thành một thần vệ nữ tương lai.
Tôi không ướt nhiều mà cũng run rẩy. Mặt nóng bừng bừng, mê man trong cơn sốt ảo.
Chỉ đến khi cô nhắc cho xe chạy tôi mới sực tỉnh.
Tôi cởi chiếc áo khoác lính đưa cô che đậy. Tránh ánh mắt nhìn hau háu, chiêm ngưỡng, ghen tỵ của những chàng trai qua đường.
Tôi sung sướng suốt mấy ngày. Cười nói huyên thuyên. Chiếc áo khoác tôi treo sát đầu giường, không bao giờ phơi, không bao giờ giặt. Hương thơm phảng phất cho tôi quên hết mệt nhọc sau ngày dài làm việc và ban đêm dìu tôi vào giấc ngủ dễ chịu êm ái nhất.
Hình ảnh hôm ấy của cô khắc sâu trong tâm trí. Nếu là họa sĩ tôi có thể vẽ không thiếu một chi tiết.
DI TẢN VÀ ĐỊNH CƯ
Ngày di tản. Dòng người hối hả chen lấn xô đẩy khi chiếc máy bay chưa kịp ngừng hẳn. Tôi xách 2 chiếc vali định trao cho ông Tá rồi trở về nhưng bị chèn ép, không thoát ra được. Bị nhét vào bên trong máy bay, trở thành người di tản bất đắc dĩ.
Chúng tôi được định cư ở Grand Rapids thuộc tiểu bang Michigan.
Tại Mỹ, tôi hội nhập dễ dàng hơn gia đình ông bà. Hội nhà thờ giới thiệu tôi và ông Tá làm công nhân trong một xưởng sản xuất phụ tùng xe hơi. Tôi học thêm nghề hàn, sống khá thoải mái. Bà Tá vẫn còn hoài niệm mệnh phụ phu nhân, không chấp nhận lao động chân tay. 4 người con được xếp vào các lớp học theo độ tuổi.
Trong hãng xưởng có nhiều công nhân Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Buổi ăn trưa chúng tôi thường tách thành nhóm riêng, nói tiếng Việt rôm rã.
Một hôm, có một thanh niên không hiểu sao sừng sỏ, nói bóng gió, ở VN làm tướng làm tá hách dịch, qua đây thằng nào cũng như thằng nấy, cũng cu li như nhau. Tôi không dằn được cơn giận, định dậy cho anh ta một bài học nhưng ông can ngăn.
Tôi lớn tiếng, ông thầy tôi đã ngã ngựa nhưng vẫn khí khái. Không nề hà công việc nào, miễn là lương thiện, anh phải kính phục hơn là khinh thường. Hơn nữa tuổi của ông ta bằng tuổi cha chú của anh, anh không được hỗn xược gọi ông là thằng.
Mọi người vỗ tay hoan nghênh, anh ta xấu hổ bỏ đi, từ đó bị tất cả xa lánh.
Ông Tá lủi thủi bước, cúi mặt, nói với chính mình, “Thằng ông lưu vong ơi, đã đủ nhục chưa?”.
Cô Sylvie bỏ học, theo đám bạn bè cùng lứa, sống bầy đàn khiến ông bà phiền lòng không ít. Ông vốn sống lặng lẽ lại càng lặng lẽ. Tôi là người duy nhất hầu chuyện ông, giúp ông khuây khỏa.
Có lần ông nói với bà mà tôi vô tình nghe được, phải chi con Sylvie chịu lấy thằng … thì đâu đến nỗi.
Bà trừng mắt nói, ông muốn gả con gái ông cho ai? Cho nó ư? Nó chỉ là thằng lính tài xế!
Ông nhỏ nhẹ, tuy thế nó biết trên dưới, biết lễ độ, biết chí thú làm ăn, không khá hơn cái đám bạn bè ăn chơi của con bà ư?
Tôi không khỏi suy nghĩ. Tự nhủ, phải quyết tâm tìm chút công danh cho mở mắt với đời. Tôi dành thời giờ buổi tối, ôn luyện chương trình trung học. Sau đó nhờ bà láng giềng tốt bụng hướng dẫn ghi danh học ở Kalamazoo Valley Community College 2 năm và tiếp theo 2 năm nữa ở University of Michigan-Flint.
Bốn năm học tập vất vả rồi cũng qua. Tôi nhận được văn bằng tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Kỹ thuật Cơ khí. Ông Tá chúc mừng, đãi tôi bữa cơm thân mật. Ông nói với bà:
-Bà thấy chưa? Mỹ là đất nước của cơ hội. Mọi người đều bình đẳng. Có ý chí phấn đấu sẽ thành công. Từ thằng tài xế nó đã trở thành ông kỹ sư. Không tiến thủ, ỷ lại, sẽ bị bỏ rơi phía sau như con gái bà. Đấy! Cô tiểu thư của bà, dân trường tây trường đầm bây giờ có ra gì!
Bà Tá tỏ vẻ bất cần, không đáp trả.
Tôi tìm được công việc mới, phù hợp với khả năng. Ông Tá thay đổi công việc vài lần rồi tới tuổi hưu trí.
Mỗi cuối tuần tôi đều rủ ông đi uống cà phê, đi câu cá, đi ăn ngoài hoặc đi gặp các bạn già của ông.
Ông rất quý mến tôi. Riêng tôi vẫn kính trọng ông như ngày xưa, nói với ông, tôi lúc nào cũng là lính của ông.
Tôi âm thầm theo dõi sinh hoạt của cô Sylvie, vẫn tôn thờ thánh nữ của tôi. Đồng thời cùng chia sẻ sự lo lắng của ông bà Tá.
Tôi hứa với cô, bất cứ khi nào cô cần đều có tôi, không điều kiện. Những lần cô gọi tôi giúp giải vây đám côn đồ, tôi đều hăng hái. Cô xem đó như là nhiệm vụ của tôi phải bảo vệ cô. Buồn ít nhưng vui nhiều.
ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG
Những năm sau này tôi nhận ra mắt thường bị khô, cộm. Đôi lúc nhạy cảm với ánh sáng, nhất là với ánh sáng chói. Tôi nghĩ, có lẽ do hậu quả của thời gian làm nghề hàn nên không quan tâm.
Tôi hối hận đã không mua thêm bảo hiểm cho dịch vụ khám mắt định kỳ, ngoài Medicaid của tiểu bang. Nếu được phát hiện sớm tôi đã không lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo.
Cho đến khi thị lực giảm, nhìn mờ. Soi gương thấy có đốm trắng trên giác mạc, tôi hoảng hốt, đến bệnh viện nhãn khoa khám thì tỉnh trạng đã khá nghiêm trọng.
Bác sĩ chẩn đoán thoái hóa giác mạc nặng, thị lực có thể suy giảm theo thời gian. Nguy cơ mù vĩnh viễn nếu không được điều trị kịp thời.
Các loại thuốc nhỏ mắt và thuốc nhỏ nước mắt nhân tạo chỉ giúp giảm khô mắt và bảo vệ giác mạc tạm thời.
Hai giải pháp được bác sĩ đưa ra. Hoặc cấy ghép mô nhân tạo bằng phương pháp hiện đại giúp tái tạo giác mạc, hoặc phẫu thuật ghép giác mạc của người hiến tặng. Giải pháp thứ hai có lẽ thích hợp với tôi hơn, nhưng danh sách chờ ghép quá dài, vi hiếm nguồn hiến tặng.
Tôi được giới thiệu ghi danh tại chi nhánh của tổ hợp “Northwest Eye Surgeons” ở Chicago, với hy vọng rất mỏng manh.
Tin dữ ập đến với gia đình ông bà Tá. Cô Sylvie bị tai nạn giao thông! Tình trạng nguy kịch. Bệnh viện tiên liệu xấu, khó qua khỏi. Gia đình họp khẩn cấp. Không ai giữ nổi bình tĩnh ngoại trừ ông Tá.
Tôi nghe tin mà bất lực, mắt đã mờ hẳn, không thể di dịch xa như ý muốn. Cậu em trai của cô chở tôi đến bệnh viện gặp mọi người.
Cô Sylvie đã chết não. Bà Tá khóc lóc thảm thiết, ôm con nói trong nước mắt ràn rụa, con tôi chết trẻ, chết oan uổng, làm sao có thể nhắm mắt.
Ông Tá nghe thế, đột nhiên có một ý nghĩ nảy sinh trong đầu. Ông đề nghị hiến giác mạc của cô Sylvie cho tôi để cặp mắt của cô sẽ sống mãi.
Bà Tá không đồng ý nhưng dưới áp lực và lời khuyên chân thành cuối cùng chấp nhận.
Quá bất ngờ, tôi không kịp suy nghĩ, bất động, cảm kích không nói nên lời.
Việc lấy giác mạc phải được thực hiện trong vòng 6-24 giờ sau khi người hiến qua đời để bảo đảm chất lượng mô nên xe cứu thương đưa xác cô Sylvie và tôi đến bệnh viện nhãn khoa “Northwest Eye Surgeons” tức thời.
Cuộc phẫu thuật thành công như mong đợi. Ghép giác mạc là một phẫu thuật ngoại trú.
Sau khi theo dõi vài giờ, không thấy có nguy cơ biến chứng, tôi đã được xuất viện cùng ngày. Phải giữ băng mắt trong 2 ngày và dán nắp kính bảo hộ khi ngủ, để tránh vô tình chạm dụi mắt.
Sau 2 ngày thì tháo băng. Không có cảm giác khó chịu và sưng nên tôi lại nhờ cậu em trai đưa về nhà ông bà Tá để cảm ơn tấm lòng nhân đạo bao la của ông bà và cũng để đến trước di ảnh cô Sylvie thành tâm tưởng nhớ.
Ông bà muốn xem đôi mắt tôi nhưng không được vì vẫn còn mang kính do nhạy cảm với ánh sáng và chảy nước mắt. Chỉ khi thị lực ổn định mới được để mắt trần.
Điều kỳ lạ, mỗi khi nhìn vào gương, tôi không thấy chính mình, mà thấy hình bóng cô Sylvie. Đôi mắt ấy, cái nhìn ấy – là của cô!
Mỗi lần nhắm mắt, tôi đều cảm nhận như cô vẫn ở bên cạnh, cười với tôi, nói chuyện với tôi bằng chính đôi mắt đó.
Bà Tá vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận sự thật. Bà không biểu lộ thiện cảm với tôi vì nghĩ tôi không xứng với con gái bà. Nhưng giờ đây, mỗi lần nhìn tôi, bà lại thấy đôi mắt ấy – đôi mắt của cô Sylvie, trong veo mà day dứt.
Có lần bà buồn bã nhìn tôi, chợt hỏi:
– Dạo này… con có nhớ Sylvie nhiều không?
Tôi sững lại. Bà chưa từng gọi tôi là “con”. Tôi khẽ gật đầu:
– Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút bà ạ.
Bà Tá im lặng nhìn tôi. Gọi tôi là con nhưng có bao giờ bà xem tôi như con đâu. Giờ đây, từng ánh nhìn, từng cử chỉ của tôi đều gợi cho bà hình bóng cô Sylvie. Có lẽ, định mệnh đã sắp xếp để chàng trai này cùng chung sống với một phần cơ thể của con gái bà.
Một buổi chiều muộn, tôi ghé thăm nhà. Ông Tá ra mở cửa, vỗ nhẹ lên vai tôi, vẫn ánh mắt ấm áp:
– Vào đi con, lâu rồi sao con không tới ăn cơm với gia đình?
Căn nhà từng đóng kín cửa vì nỗi đau mất con, hôm nay lại mở rộng với tôi. Bước vào, thấy trên bàn thờ di ảnh cô Sylvie, rạng rỡ như ngày nào. Tôi khẽ cúi đầu, thì thầm trong lòng:
-Cô…, cô vẫn đang đồng hành củng tôi trên con đường đời, đúng không?
Ngoài hiên, gió nhẹ lay lay những chùm hoa giấy, nghe như tiếng động gật đầu.
Từ ngày bước vào căn nhà của ông bà với tư cách một người thân, tôi dần quen với sự hiện diện của bà và ông trong cuộc đời mình.
Bà Tá vẫn không thể gọi tôi là “con rể”, nhưng sự quan tâm của bà dành cho tôi không khác gì mẹ lo cho con.
Bà kín đáo quan sát tôi. Mỗi lần đến thăm, bà đều cho tôi thưởng thức những món ăn Sylvie từng thích.
Đôi khi bà hỏi han chuyện công việc của tôi, rồi chuyện nọ chuyện kia. Nhắc nhở tôi giữ gìn sức khỏe.
Tôi không biết từ khi nào tôi đã trở thành một thành viên của gia đình ấy.
Mỗi khi ở bên ông bà, tôi cảm thấy gần cô Sylvie hơn, như thể cô vẫn hiện diện đâu đây, qua từng món ăn, từng bức ảnh, từng kỷ niệm nhỏ mà mọi người kể lại.
Sau ca ghép giác mạc, tôi phát hiện ra một điều lạ lùng. Đôi mắt tôi không chỉ giúp tôi nhìn rõ hơn mà dường như còn chứa đựng một phần ký ức.
Có những lúc mơ màng, mơ mà như thực. Tôi thấy mình lái xe dưới cơn mưa tầm tã đón cô ở cổng trường, thấy bàn tay mình cầm một cuốn sổ nhỏ với những dòng chữ quen thuộc tôi chưa từng viết.
Một đêm nọ, tôi giật mình tỉnh dậy, tim đập thình thịch. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang đứng trước gương, nhưng khuôn mặt phản chiếu không phải của tôi, mà là của cô. Cô cười vui, hàm răng trắng bóng, ánh mắt tràn đầy yêu thương.
– Cô vẫn ở đây, bên tôi, đúng không? Tôi lẩm bẩm, nhìn chằm chằm vào gương.
Đôi mắt trong gương loé lên ánh nhìn linh động. Không có tiếng trả lời, nhưng tôi có cảm giác như cô đang mỉm cười với tôi qua chính đôi mắt ấy.
Tôi không kể điều này với ai. Tôi sợ nếu nói ra, người ta sẽ bảo tôi bị bệnh hoang tưởng. Dần dần cảm giác đó không ám ảnh nữa. Nó trở thành một sự hiện hữu quen thuộc, một niềm an ủi đích thực.
Tôi không còn thấy cô đơn, vì biết rằng cô vẫn ở bên tôi, theo một cách đặc biệt.
Bà Tá lúc đầu vẫn giữ khoảng cách với tôi, nhưng càng ngày, bà càng thấy hình ảnh của chính con gái mình rõ nét hơn trong từng ánh mắt, từng cử chỉ của tôi.
Bà lặng lẽ nhìn tôi chăm sóc chậu hoa giấy con gái bà từng yêu thích, thấy tôi cẩn thận lau chùi từng món đồ kỷ niệm của Sylvie, thấy tôi thỉnh thoảng lặng người nhìn về phía bàn thờ, như đang trò chuyện với cô.
Một hôm trong bữa cơm, bà bỗng giật mình, dí sát, nhìn vào mắt tôi, rơi cả đũa. Ảo giác khiến bà lạc giọng:
– Đúng rồi! Đúng đứa con gái bé nhỏ của mẹ đây rồi! Con tôi đã trở về! Con tôi! Mẹ đã thấy con trong đôi mắt con. Mẹ…mẹ muốn…cho mẹ ôm con vào lòng…
Bà giang hai tay ôm một chiếc bóng vô hình rồi hôn lên mắt tôi. Bà nếm những giọt nước mắt lăn dài mà tôi không biết chảy từ lúc nào.
Bà nói trong nước mắt:
-Cứ khóc đi con! Mẹ và con cùng khóc ! Những giọt nước mắt hạnh phúc của hai mẹ con mình!
Qua cơn xúc động, bà trìu mến hôn lên mắt tôi một lần nữa:
-Hay là con dọn về ở đây đi. Mẹ muốn thấy con của mẹ mỗi ngày.
Rồi giọng bà mềm đi:
–Ừ!, mẹ biết… con thương Sylvie. Con hãy xem nơi này như nhà nghe con.
Tôi nghẹn lời. Đã vài lần bà gọi tôi là “con”, nhưng lần này gọi con xưng mẹ một cách tự nhiên. Cảm giác nhận được chân tình của bà tràn ngập trong lòng, tôi khẽ gật đầu.
Từ hôm đó, tôi qua lại nhà ông bà hàng ngày. Tôi chăm sóc họ như cha mẹ mình, còn họ xem tôi như con trong gia đình. Bà không khách sáo, mà dần chấp nhận sự thật.
Bằng tâm linh, con gái bà vẫn tiếp tục sống trong thế giới này, với đôi mắt ấy, thông qua chàng trai trước mặt bà.
Thời gian trôi qua, tôi vẫn không yêu ai khác. Trong lòng tôi, cô chưa bao giờ rời xa.
Tôi vẫn giữ thói quen đi dạo trên những con đường cô từng đi, vẫn giữ quyển sổ nhật ký của cô bên mình, dù chưa một lần mở ra. Tôi sợ biết những điều không muốn biết.
Một buổi chiều, khi đang ngồi bên hiên nhà ngắm nhìn hoa giấy bay trong gió, bà Tá chợt hỏi:
– Con vẫn không định tìm một ai khác sao?
Tôi mỉm cười lắc đầu. Không cần phải nói gì thêm, vì bà đã hiểu.
– Thôi được rồi… Bà thở nhẹ, không còn băn khoăn như trước. Dù sao thì, con vẫn là con của gia đình.
Tôi nhìn bà, cười tươi. Tôi biết, dù cô đã không còn, nhưng tôi thay chỗ cô trong gia đình, vẫn cùng cô đi đi về về.
Và dẫu cuộc sống có ra sao, tôi vẫn luôn mang theo đôi mắt người thương, để nhìn thế gian này bằng ánh mắt của cô, để yêu thương mọi thứ theo cách cô từng yêu thương.
Hoàng hôn buông xuống, nhuộm vàng cả khung trời. Qua làn gió thoảng, dường như có ai đó đang cười bằng mắt.
***
Đồng cảm, người viết gửi tặng người trong truyện mấy câu:
Một đôi mắt, nhập hai tâm hồn,
Vui buồn cười khóc với thế nhân.
Sống-chung đời-lòng thề không đổi,
Nhắm mắt cùng nhau lúc lìa trần.
Nguyễn Cát Thịnh
Ngày 10 tháng 2 năm 2025
From: gregory adams & Phi Phuong Nguyen
TẠO NÊN MỘT KHÁC BIỆT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
LỄ LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ, TÔNG ĐỒ,
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”.
Một triết gia nhận định, “Không một tiến bộ vĩ đại nào trong khoa học, chính trị và tôn giáo mà không gây tranh cãi! Cũng không một nhân vật nào có thể thắp sáng thế giới, truyền cảm hứng cho nó, ảnh hưởng nhất đến tâm trí nhân loại; để sau cùng, cứu lấy nhân loại cho bằng “Giêsu” – con người gây tranh cãi nhất thế giới!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng ngày lễ Lập Tông Toà Thánh Phêrô hôm nay cho biết “Chúa Giêsu” – con người gây tranh cãi nhất thế giới – muốn thăm dò dư luận về Ngài; và quan trọng hơn, Ngài muốn biết câu trả lời của chính bạn và tôi, “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đủ xác tín để trả lời câu hỏi đó sẽ là một ‘định hướng’ vốn có thể ‘tạo nên một khác biệt’ nơi bất cứ ai.
Trả lời “Thầy là ai?” sẽ quyết định cách sống các giá trị về niềm tin, niềm hy vọng, cuộc sống mai sau, lòng bác ái và sự phục vụ hiện tại của bạn và tôi. Tất cả những điều này được sống, được định hướng bởi một xác tín về Ngài là ai. “Thầy là ai?” liên quan đến một cam kết, một đòi hỏi thay đổi từ thái độ đến hành vi vốn có thể ‘tạo nên một khác biệt’ nơi bạn.
Phêrô đã trả lời, “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!”. Với Phêrô, Đấng Kitô không chỉ là một tiên tri hay một thầy dạy nhưng còn là ‘một Ai đó’, ‘một Điều gì đó’ còn hơn thế – dẫu Phêrô không hiểu hết. Với ông, Ngài là một “Giêsu Kitô” ngang hàng với Thiên Chúa! Và rõ ràng, câu trả lời này đã đổi thay cuộc đời Phêrô, mở ra trái tim ông để ông có thể đón nhận ân sủng của Thánh Thần. Chính Thánh Thần – dần dà – đã dạy Phêrô hiểu, đây không phải là câu trả lời đơn thuần của trí tuệ, nhưng là của ân sủng ‘nhận được từ trên’. Từ đó, Phêrô dứt khoát dấn thân đến cùng cho một sứ vụ trước Thiên Chúa và trước thế giới.
Phêrô đã khuất phục Đấng Kitô; đổi lại, Ngài trao cho ông Hội Thánh, trao cho ông chìa khoá Nước Trời. Qua thư mình, Phêrô căn dặn các kỳ lão, “Hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó”; “không vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ!” – bài đọc một. Nhờ đó, đoàn chiên được chăm sóc, mỗi con chiên cảm nghiệm chính Chúa đang chăm bẵm mình, “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì!” – Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thầy là một con người gây tranh cãi nhất thế giới! “Chúa Kitô không phải là ký ức của quá khứ mà là Thiên Chúa của hiện tại. Nếu Ngài chỉ là một nhân vật lịch sử, thì ngày nay chúng ta không thể bắt chước Ngài. Chúng ta sẽ thấy mình phải đối mặt với vực thẳm lớn của thời gian – và trên hết – đối mặt với gương sáng của Ngài như ngọn núi cao ngất, không thể vượt qua; muốn leo lên đó nhưng lại thiếu khả năng và phương tiện. Thay vào đó, Giêsu đang sống! Hãy nhớ điều này! Giêsu đang sống! Ngài sống trong Giáo Hội, trong thế giới; đồng hành với chúng ta, bên cạnh chúng ta, ban cho chúng ta Lời và ân sủng, soi sáng và làm tươi mới chúng ta trên hành trình để mỗi người cũng có thể ‘tạo nên một khác biệt’ trong thế giới!” – Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng ngại gây tranh cãi cho những chọn lựa của con. Để rốt cuộc, con chọn Chúa với những cam kết dứt khoát, và con cũng có thể ‘kiến tạo một khác biệt!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
From: Kim Bang Nguyen
*****************************
THỨ BẢY TUẦN VI TN
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
13 Khi ấy, Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14 Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”
Huy Đức sắp ra tòa với cáo buộc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’
February 21, 2025
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Dự kiến phiên tòa xét xử nhà báo Huy Đức, tên thật Trương Huy San, 64 tuổi, với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ,” sẽ diễn ra ở Hà Nội ngày Thứ Năm, 27 Tháng Hai.
Tên tuổi ông Huy Đức gắn liền với hai tập sách “Bên Thắng Cuộc” có nhiều nội dung về lãnh đạo đảng không theo tuyên truyền của nhà cầm quyền Việt Nam.
Tên tuổi nhà báo Huy Đức gắn liền với cuốn “Bên Thắng Cuộc.” (Hình: Tuổi Trẻ)
Báo Tuổi Trẻ hôm 21 Tháng Hai cho biết có một luật sư ghi danh tham gia bào chữa cho bị cáo Huy Đức tại phiên tòa nhưng không cho biết danh tính của người này.
Theo cáo trạng, trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2024, ông Huy Đức bị cho là “thu thập thông tin, tài liệu, soạn thảo và đăng trên trang cá nhân 13 bài viết có nội dung xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
Bản tin không làm rõ danh sách các bài viết cụ thể khiến ông Huy Đức vướng vòng lao lý.
Theo luật pháp Việt Nam, những người bị khép tội tội danh của Điều 331 về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ,” đối mặt với bản án cao nhất là bảy năm tù.
Một vài tuần lễ trước khi bị bắt hôm 1 Tháng Sáu, 2024, ông Huy Đức có một số bài viết trên trang cá nhân đả kích các chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam là “ảo tưởng.”
Đồng thời những quan chức “tứ trụ” thời điểm đó như Nguyễn Phú Trọng (tổng bí thư), Phạm Minh Chính (thủ tướng), Tô Lâm (bộ trưởng Công An, nay là tổng bí thư), hoặc cựu “tứ trụ” như Nguyễn Tấn Dũng (cựu thủ tướng) thường bị ông phê phán nặng nề.
Hồi Tháng Chín năm ngoái, 91 học giả, nhà báo, nhà nghiên cứu, viên chức ngoại giao quốc tế cùng ký vào thư ngỏ phản đối việc nhà chính quyền Việt Nam cầm tù ông Huy Đức.
Trong danh sách những người ký tên vào thư ngỏ có những nhân vật quen tên như nhà văn Phạm Thị Hoài, nhà báo Bùi Văn Phú, Giáo Sư Hồ Tài Huệ Tâm (Đại Học Harvard), nhà báo Katrin Bennhold (báo New York Times)…
Những người này quyết định lên tiếng là vì ông Huy Đức “ngoài công việc học thuật và báo chí, còn rất được ngưỡng mộ vì các hoạt động bảo vệ môi trường và nỗ lực cổ vũ hòa giải sau chiến tranh Việt Nam.”
Ông Huy Đức bị bắt hôm 1 Tháng Sáu, 2024. (Hình: Facebook Nguyễn Tường Minh)
Trước đó, hai tờ báo hàng đầu của Mỹ là New York Times và Washington Post đồng loạt đưa tin về vụ bắt giữ ông Huy Đức.
Nhà cầm quyền không phản hồi thư ngỏ cũng như bản tin của các báo ngoại quốc và quyết đưa ông Huy Đức ra xử tội.
Luật Sư Đặng Đình Mạnh bình luận trên nhật báo Người Việt: “Nhiều quốc gia dân chủ và các tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế thường xuyên kêu gọi chế độ Cộng Sản tại Việt Nam hủy bỏ hai điều luật 331 và 117. Do bị cáo buộc và tuyên xử bằng điều luật bất hợp pháp, bất công và phi lý, cho nên, vụ án xét xử ký giả Huy Đức là một vụ án oan.” (N.H.K) [qd]
Hạt Bụi Đời Con||St : Dấu Chân||Tb : Lệ Hoàn
Hitler rất đông fans cuồng, khi lãnh đạo nước Đức quốc xã
Nguyễn Thị Bích Hậu
21-2-2025
Sau Thế chiến 1, Đức thua trận. Từ một đế quốc hùng mạnh, nước này rơi vào vực thẳm của suy thoái kinh tế và tâm lý đại bại. Trong khi đó, họ phải gánh một khoản bồi thường chiến phí khủng là khoảng 63 tỉ USD quy đổi lúc đó, khoảng 768 tỉ USD ngày nay. Con số này sau đó đã được hạ xuống còn 33 tỉ USD, khoảng 402 tỉ USD ngày nay. Một con số mà trong thời điểm Đức suy thoái kinh tế trầm trọng, không đào đâu ra mà trả.
Dân Đức đa phần cảm thấy đau khổ, buồn bã, thất vọng, tinh thần xuống dốc, cùng nạn thất nghiệp và nghèo đói đe dọa cuộc sống cá nhân và gia đình họ.
Đúng lúc đó, Hitler xuất hiện và đưa ra học thuyết riêng muốn vực dậy nước Đức, đưa nước này trở lại vị trí hùng mạnh ở châu Âu và thậm chí sẽ là số 1 toàn cầu. Theo đó đế chế thứ 3 của Hitler sẽ nối tiếp đế chế La Mã và đế chế Bismarck. Và đây chính là sứ mệnh của “một dân tộc thượng đẳng”.
Để hiện thực hóa điều này, Hitler đi diễn thuyết khắp nơi và tài diễn thuyết của ổng khiến không ít dân Đức phát cuồng, thành fans trung thành của ổng.
Ngày 30/1/1933, Hitler đắc cử trong cuộc bầu cử Thủ tướng Đức. Vào ngày 2/8/1934, Tổng thống Hindenburg qua đời. Ngay sau đó, Hitler ra thông báo gộp hai chức vụ Thủ tướng và Tổng thống làm một. Vậy là ổng thành lãnh tụ tối cao.
Để chứng minh năng lực của mình có thể làm nền kinh tế vực dậy, Hitler dùng một giải pháp đơn giản hơn ‘đan rổ’ là bắt người Do Thái phải đăng ký tất cả tài sản trên 2.000USD, thực ra là để truy thu, và đã thu về hơn ba tỷ USD cho chính quyền Đức bấy giờ.
Ổng khôn khéo đưa nước Đức thoát khỏi cái bóng của Hòa ước Versailles. Kế đến là tiến hành chương trình tái vũ trang quân đội quy mô lớn.
Cùng lúc, Hitler chặt đứt những tiếng nói phản biện, đồng thời xóa sổ những tổ chức có thể là địch thủ, cùng lúc với việc đẩy hệ thống tuyên truyền lừa mị với mọi thông tin dối trá lên tới đỉnh cao.
Khi nhiều người dân Đức từ sự cả tin trước những lời lừa dối, họ chuyển qua việc đi theo Đức Quốc xã một cách mê muội, thì Hitler hoàn toàn thành công. Ổng dẫn tất cả tới việc châm ngòi Thế chiến 2 và nạn diệt chủng Holocaust, khiến cỡ 85 triệu người trên toàn cầu chết thê thảm.
Tóm lại ngay cả dân một xứ rất trọng lý tính, làm việc kỷ luật và bài bản như Đức mà khi rơi vào thế khó khăn cũng có thể bị thành fans cuồng và ủng hộ một kẻ khủng khiếp như Hitler, thì những dân xứ khác cũng khó tránh khỏi nanh vuốt của những kẻ tương tự.
Tỉnh táo, bình tĩnh, có đủ hiểu biết và lương tri để không mắc sai lầm khi chạy theo một chính khách thâm độc, luôn là điều khó.
CHẶNG THỨ 6: Bà Veronica trao khăn cho Đức Chúa Giêsu lau mặt-Cha Vương
“Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”-Truyện rất ngắn
Dao Van Ba is with Nguyễn Trung Tính
Một bài viết từ e-mail của bạn Khanhvngo st, tôi chép lên Facebook để nhiều bạn đọc lại vẫn thấy thấm nhé !
Lâu lâu đọc lại vẫn thấy thấm
Người phụ nữ hỏi lão già: “Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”
Lão bán trứng trả lời: “3.000₫ một quả, thưa bà.”
Người phụ nữ liền nói: “6 quả 12.000₫, không bán tôi mua chỗ khác.”
Lão bán trứng nói: “Cứ mua với cái giá mà bà muốn. Có thể đây là khởi đầu tốt, bởi từ sáng tới giờ tôi vẫn chưa bán được quả nào.”
Người phụ nữ lấy những quả trứng và rời đi, lòng thầm đắc thắng.
Bà ta ngồi trên chiếc ô tô ưa thích của mình, tới một nhà hàng sang trọng để dùng bữa với bạn bè. Ở đó, bà và người bạn gọi bất cứ món ăn nào họ thích. Sau đó, bà ra quầy thanh toán. Hóa đơn trị giá 1.950.000₫ trả tới 2 triệu và còn dặn người chủ nhà hàng không cần thối lại.
Tình huống này xem ra khá quen thuộc với người chủ cửa hàng, nhưng thật quá nhẫn tâm với ông già nghèo khổ bán trứng gà kia.
Vấn đề mấu chốt ở đây là: Tại sao chúng ta cứ phải tỏ ra quyền lực với những người nghèo khó? Và tại sao chúng ta luôn hào phóng với những người thậm chí không cần đến sự hào phóng của chúng ta?
Có lần tôi đọc được ở đâu đó một câu chuyện:
“Bố tôi có thói quen mua những thứ đồ nho nhỏ với giá cao từ những người nghèo khó, mặc dù ông không hề cần đến. Thỉnh thoảng ông thậm chí còn trả thêm tiền cho chúng. Tôi bắt đầu để tâm đến hành động này và hỏi bố tại sao lại làm như vậy? Bố tôi bèn nói: “Đó là quỹ từ thiện được bao bọc bởi phẩm giá, con yêu ạ.”
Sưu tầm
MƠ ƯỚC NHƯ NGÀI ƯỚC MƠ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”.
“Tôi ước đủ trung thực để thừa nhận mọi khiếm khuyết; đủ thông minh để phân định lời tâng bốc; đủ cao để đứng trên sự dối trá; đủ mạnh để trân trọng tình yêu; đủ dũng cảm để đón nhận lời chỉ trích; đủ từ bi để hiểu yếu đuối của người khác; đủ sáng suốt để nhận lỗi; đủ khiêm tốn để đánh giá sự vĩ đại; đủ công chính để tận hiến cho Chúa; và đủ quảng đại để nên giống Chúa Kitô, hầu có thể mơ ước như ngài ước mơ!” – G. Taggart.
Kính thưa Anh Chị em,
Giấc mơ của Taggart được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Nó đặt ra một câu hỏi căn bản, “Bạn có muốn theo Chúa Kitô không?”; nói cách khác, “Bạn có muốn trở nên con người mà Chúa muốn bạn trở thành hầu có thể ‘mơ ước như Ngài ước mơ?’”.
Trừ khi câu hỏi này được trả lời trước, phần còn lại của những gì Chúa Giêsu nói sẽ không ảnh hưởng gì đến bạn và tôi! “Ai muốn theo tôi” tiết lộ rằng, ước muốn đi theo Chúa Kitô thường không phải là bước đầu tiên mà là bước cuối cùng! Bước đầu tiên là hiểu biết sự thật và yêu mến nó; bước thứ hai là làm theo những gì đã chọn; và bước thứ ba, sống và ‘mơ ước như Ngài ước mơ’ – vì lẽ – ân sủng Chúa Kitô đã tác động và bắt đầu biến đổi. Vậy, bạn sẽ “ước” điều gì một khi đã quyết định đi theo Chúa Kitô? Bạn sẽ ước muốn cả những gì Chúa Giêsu tiết lộ tiếp theo, đó là ước ao từ bỏ chính mình, vác thập giá và bước theo Ngài mỗi ngày. Bạn có thực sự ước được điều đó?
Thật dễ dàng để khao khát yêu và được yêu; tất cả chúng ta đều thích những lời tử tế và quan tâm, cả khi cho và khi nhận chúng. Nhưng một khi tình yêu Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta hướng đến sự vị tha và hy sinh ở một cấp độ cao hơn – hoặc cao nhất – và nếu bạn làm được thì đây chính là sự hoàn hảo của tình yêu! Nói cách khác, chúng ta được mời gọi để yêu thương mà không cần cân nhắc giá phải trả hay những đòi hỏi mà tình yêu đặt ra. Chúng ta được mời gọi yêu thương cả những gì đau đớn và gai góc một khi đó là ý muốn của Chúa. Ý muốn của Ngài hẳn bao gồm mọi hy sinh, ngay cả cái chết. Và như thế, tình yêu đích thực của chúng ta với Ngài – cuối cùng – là ‘mơ ước như ngài ước mơ!’.
Anh Chị em,
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”. Việc theo Chúa Kitô của bạn đòi hỏi một sự sẵn sàng đón nhận; thậm chí khao khát tất cả những gì ‘việc đi theo’ đó đòi hỏi! Chính Chúa Kitô và Thánh Thần của Ngài sẽ đặt ước muốn tốt lành ấy trong bạn. Hãy nói “Có” với Ngài, với Thập Giá của Ngài. Cuối cùng, bạn sẽ mãi mãi biết ơn chính mình về những gì đã làm! Và như thế, bạn đã đạt đến mức độ yêu thương mà qua đó, ước muốn hiến thân hoàn toàn cho Ngài mà không tính toán, dè giữ; thậm chí ước muốn cả những hành vi toàn hiến như Ngài, Đấng đã ôm lấy thập giá đời mình mà không do dự vì tình yêu Chúa Cha và tình yêu nhân loại; trong đó, có bạn và tôi!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con muốn nên giống Chúa! Dạy con bỏ mình mỗi ngày – từ việc nhỏ cho đến việc lớn – ý Chúa, không phải ý con; hầu con có thể ‘mơ ước như Ngài ước mơ!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
**********************************
Thứ Sáu Tuần VI Thường Niên, Năm Lẻ
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô. (Mc 8,34 – 9,1)
8 34 Khi ấy, Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ? 37 Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình ? 38 Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.”
9 1 Đức Giê-su còn nói với họ : “Tôi bảo thật các người : trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.”
Nguyễn Thị Hoài Thanh – Tưởng Năng Tiến
February 20, 2025
Trong những phụ nữ thuộc thế hệ chị và mẹ của mình, tôi thương nhất chị Thanh và dì Bẩy. Khi còn đôi tám, người ta thường gọi dì là con Bẩy.
“Giọng hát của con Bẩy đưa đò khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả dòng sông, chuyển rung mặt nuớc.” (Sơn Nam. “Con Bẩy Đưa Đò”. Hương Rừng Cà Mau. Trí Đăng, Sài Gòn: 192).
Tài sắc, cũng như đức hạnh, không mấy khi mang lại hạnh phúc và may mắn cho những kẻ sinh ra trong thời ly loạn. Cuộc đời cô Bẩy (rất) không may và (hoàn toàn) không hạnh phúc.
Lúc còn thanh xuân, cô gặp (và yêu) một chàng trai trên dòng Cái Lớn. Chàng từ Bình Thủy xuống, đẹp trai, lịch thiệp, và hò hát cũng rất hay. Chỉ có điều đáng tiếc là người ta không phải loại “thường dân” nên không chịu cùng cô Bẩy kết duyên đôi lứa và sống an phận thủ thường (như những đám lục bình trôi) nơi ao hồ sông rạch.
Nghe qua con Bẩy bùi ngùi tấc dạ; từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bẩy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.
– Bao giờ chàng trở lại em xin chờ.
Chàng cười mà đáp:
– Cảm ơn.
– Lời em hứa là chắc. Hay là chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.
– Đâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa … Chí trai bốn biển là nhà…
Dứt lời chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bẩy xúc động rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.
– Vậy thì xin chàng dậy cho em một hai câu hò để em nhớ đời.
– Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dậy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này…
Một tấm lòng! Con Bẩy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya. (Sơn N. sđd, tr. 57).
Con Bẩy chờ hoài, chờ hủy nhưng người xưa không quay về bến cũ. Thời gian thì đâu có chịu đợi ai. Tuổi đời khiến con Bẩy Đưa Đò trở thành một phụ nữ bán thịt tại chợ Vàm, ở ven sông. Thịt luộc của dì Bẩy nổi tiếng là “ngon hết biết” luôn.
“Một hôm, có người năn nỉ xin chỉ cho cách luộc thịt. Dì Bẩy thoáng ngậm ngùi:
– Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.
– Công phu là thế nào dì Bẩy?
– Ở đây, hồi đó có người nói là cần một tấm lòng”. (Sơn Nam. sđd trang 59).
Chao ơi, một tấm lòng! Sống không có (ngó) cũng kỳ mà có thì phiền lắm và (đôi khi) phiền lớn. Cũng như dì Bẩy, chị Thanh lao đao lận đận – suốt cả cuộc đời – cũng chỉ vì một tấm lòng thủy chung, và đôn hậu của mình.
Tương tự như thủ đô Lisbon của Bồ Đào Nha (vào đầu thập niên 1940) nơi mà nhiều người dân Âu Châu đã tìm đến, với hy vọng có cơ may chạy thoát khỏi sự săn đuổi chủ nghĩa phát xít. Hải Phòng, hồi đầu thập niên 50, cũng thế. Cũng là ngưỡng cửa của sự tử sinh.
Hàng triệu người Việt muốn lánh nạn cộng sản cũng đã tìm đến bến cảng này, với hy vọng tìm được một con tầu để đưa họ vào Nam. Chỉ riêng Nguyễn Thị Hoài Thanh quyết định ở lại thôi. Bà Nguyễn Thị Thêu kể lại: “Sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước, gia đình tôi ra Hải Phòng để chờ ngày di cư vào Nam. Hoài Thanh vốn là người Hải Phòng nên ba tháng hè chúng tôi thường xuyên gặp nhau. Tôi rủ Hoài Thanh di cư vào Sài Gòn nhiều lần, nhưng Hoài Thanh bảo: “Tao chờ anh Trúc ở ngoài kháng chiến về.” (Nguyễn Thị Hoài Thanh. “Luyến Tiếc”. Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2007).
Không ai trở lại, như chị Thanh (và dì Bẩy) đã mong ngóng cả. Người đời rồi cũng dần lãng quên cái giọng hát “khi cất lên cao thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh” của cô gái đưa đò (xuân sắc) năm xưa. Thời gian cứ để mặc cho dì Bẩy sống mãi trong lặng lẽ và cô đơn, cạnh một bến sông êm đềm, ở miền Nam.
Chị Thanh, buồn thay, đã không có được sự “may mắn” tương tự như dì Bẩy hồi mấy mươi năm trước. Cái giá mà chị phải trả cho tấm lòng trung hậu của mình mắc mỏ hơn nhiều. Ở miền Bắc, nơi mà (miếng thịt lợn chao ơi là vĩ đại, miếng thịt bò vĩ đại gấp hai) thịt thà được phân phối độc quyền bởi nhà cầm quyền nên chị Thanh đành phải bán than :
Em lội giữa đống than như con cá mắc cạn
Cố vẫy vùng cho vượt khỏi gian truân…
(Chu Tất Tiến. “Viết Về Một Người Mang Tên Nguyễn Thị Hoài Thanh.” Hoa Phượng. Tiếng Quê Hương, Virginia: 2007).
Sống “trong lòng cách mạng” mà muốn “vượt khỏi gian truân” thì e là điều bất khả. Lý lịch trích ngang của Nguyễn Thị Hoài Thanh được Bùi Ngọc Tấn tóm tắt, như sau:
“Có việc gì mà không trải qua. Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng, thợ điện Hải Phòng điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập khẩu, đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Định, công nhân công ty xếp dỡ, cấp dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc qui Công Ty Quốc Doanh Đánh Cá Hạ long… Đó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước mắm … Đồng lương không đủ nuôi mình mà còn phải nuôi con.” (Bùi Ngọc Tấn. “Một Mơ Ước Về Kiếp Sau.” Viết Về Bè Bạn. Tiếng Quê Hương, Virginia: 2005).
Chưa hết, còn có “huyền thoại” là chị Thanh có hai ông anh đã di cư: Nguyễn Xuân Vinh và Nguyễn Cao Kỳ. Cả hai đều (từng) là tư lệnh không quân của miền Nam. Huyền thoại này chỉ đúng năm chục phần trăm. Quả thực, chị là em của ông Nguyễn Xuân Vinh. Ở miền Bắc, có một ông anh cỡ đó cũng đủ chết (dở) rồi. Đâu cần đến cả hai. “Dường như biết rằng có những dư luận bất lợi cho mình và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi kỵ xa lánh nên chị không chủ động thân thiết gần gũi với một ai.” (Bùi N.T. sđd, trang 99).
Chị sống thui thủi một mình là phải :
Sau hổi kẻng tan ca
Tôi ngã vào vòng tay lạnh lẽo của mùa đông.
Đời sống cái gia đình nhỏ bé của riêng chị Thanh lại là một thảm kịch khác. “Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần ly dị. Vẻ đẹp của tuổi ba muơi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao nhiêu khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa… Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh ra là để gặp rắc rối và vượt qua những rắc rối khó khăn. Chịu đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc đời vốn như vậy.” (Bùi N.T. sđd, trang 101 -104).
Hình: tác giả cung cấp)
Thì quả đúng “như vậy” thật nhưng sao, đôi lúc, tôi vẫn nghe dường như có tiếng chị thở dài – dù (rất) khẽ :
Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới quen
Thân thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi, với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?
Sông Cấm, đã có lúc, mang “nguyên vẹn” hình bóng của người thơ ra biển nhưng chị Thanh đã không giữ được nguyên vẹn hình hài của chính mình: “Tai nạn xẩy ra ngay ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt đường sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy… Chị bảo người nhà xin cho người tài xế đã gây ra tai nạn vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như mình.” (Bùi N.T. sđd, trang 111-112).
Sau đó, sau khi bị thương tật – ở tuổi sáu muơi – chị Thanh sẽ không bao giờ còn được “khổ như” nhiều người dân Việt (trung bình) khác nữa. Có lẽ, chỉ còn có cách ăn xin để sống còn – như chị đã từng nghĩ thế. Nhưng lòng tự trọng quá lớn đã không cho phép chị Thanh làm thế. Loay hoay một thời gian rồi chị cũng nghĩ ra một cách sinh nhai khác, lịch sự hơn: chị vào Nam đi … mót!
Với dân Việt thì gặt lúa, bẻ bắp, rỡ khoai, rỡ lạc là những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày. Mót lúa, mót bắp, mót khoai, mót lạc …cũng là những sinh hoạt quen thuộc khác – với những nông dân khốn khó hơn, như trường hợp của chị Thanh. Có chiều, ở Đồng Xoài, trong khi chờ người ta thu hoạch xong (để mót lạc) chị đang ngồi chơi vẩn vơ đùa nghịch với những cây hoa mắc cỡ thì ý thơ chợt đến :
Chiều lặng ngồi bên cây xấu hổ
Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh mặt lại đây
Có gì đâu mà mắc cở
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.
Có gì đâu mà mắc cở? Vậy mà tôi cứ xấu hổ mãi, sau khi đọc xong tập thơ Hoa Phượng – nhất là những bài chị Thanh viết về Di Linh, Đức Trọng, Tùng Nghĩa … Đó là những địa danh mà tôi cũng đã từng sống qua, một cách rất vô tình, và đã đành đoạn bỏ đi – cũng vô tình không kém!
Chị Thanh thì khác. Từ Bắc vào Nam, không một người thân quyến, chị không đi để “nhận họ nhận hàng” với bất cứ ai. Chị bước qua tất cả những vùng đất xa lạ của quê hương, với tất cả sự hồn nhiên và bằng một tấm lòng phơi phới :
Khi ta đến Di Linh chiều rất trẻ
Tiếng nắng về dát bạc dưới lòng thung…
Chị Thanh đến mọi nơi với tất cả sự thiết tha, khi chia tay cũng vô cùng tha thiết :
Tạm biệt nhé Di Linh thôi chào nhé
Ở chưa quen đã vội vã ra về …
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/ Trung/ Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và truân chuyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!