Ba lý do người Uighur tới Việt Nam

Ba lý do người Uighur tới Việt Nam

Nguyễn Hùng

BBC Tiếng Việt

Thứ hai, 21 tháng 4, 2014

Người Uighuir chờ ra tòa ở Thái Lan hồi tháng Ba năm 2014

Nhiều người Uighuir cũng bị Thái Lan kết tội nhập cảnh trái phép trong tháng Ba

Vụ việc vượt biên trái phép của người Trung Quốc qua cửa khẩu Bắc Phong Sinh, Quảng Ninh hôm 18/4 cuối cùng đã làm bảy người chết và nhiều người bị thương.

Một trong những lý do mà một nhà báo Việt Nam đưa ra là sự không hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên. Người Uighur, hay còn gọi là Duy Ngô Nhĩ, có vẻ không hiểu những gì mà lính biên phòng Việt Nam và Trung Quốc nói với họ khi buộc họ phải trở về Trung Quốc ngay lập tức.

Sĩ quan phiên dịch của cuộc gặp, Thiếu tá Nguyễn Minh Đãi, 43 tuổi, người được điều động từ Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Móng Cái xuống Bắc Phong Sinh đã chết cùng Thiếu úy Lê Vũ Việt, 24 tuổi trong vụ đụng độ trưa ngày 18/4.

Năm người Uighur bị chết và lý do được quan chức Quảng Ninh nói với BBC là họ nhảy từ tầng cao của đồn biên phòng xuống.

Số người còn lại được phía Việt Nam ngay lập tức trao cho phía Trung Quốc.

Những bức hình được truyền thông Việt Nam đăng tải cho thấy lính Trung Quốc mặc đồ rằn ri và mang mũ có biển ‘Công an Quảng Tây’, tỉnh giáp ranh với Quảng Ninh đã có mặt ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh để nhận bốn phụ nữ mang khăn trùm đầu cùng hai trẻ nhỏ.

Những người đàn ông hoàn toàn không xuất hiện trong các bức ảnh được đăng tải chính thức cho dù trên mạng xã hội cũng có những ảnh được cho là chụp thi thể của những người Uighur, có người nằm đè lên nhau, trên xe gia súc kéo.

Việc Việt Nam ngay lập tức trao trả người Uighur mà không qua xét xử và tìm hiểu nguyên nhân họ phải bỏ nhà mang theo trẻ nhỏ ra đi đã gây ra chỉ trích.

Công dân mạng cũng bất bình với hình ảnh các thi thể người Uighur nằm ngổn ngang.

Chính sách ‘Hán hóa’

Một đồng nghiệp của BBC tiếng Trung nói anh có nói chuyện với một người Uighur đang sống lưu vong ở London và những người Uighur hải ngoại biết rất ít về hàng ngàn người Duy Ngô Nhĩ sống ở tỉnh biên giới Vân Nam.

Đồng nghiệp BBC cũng nói thường mỗi khi có chuyện gì xảy ra với người Uighur ở Tân Cương, nơi có hàng triệu người Duy Ngô Nhĩ sinh sống, người Uighur hải ngoại thường lên tiếng ngay lập tức và cũng thường gắn thêm động cơ chính trị cho những gì xảy ra.

Nhưng trong trường hợp này chưa có tuyên bố gì từ hội người Uighur hải ngoại.

Mặc dù vậy anh cũng nói sau vụ tấn công bằng dao ở Côn Minh khiến gần 30 người chết và hàng trăm người bị thương hồi tháng Ba, Trung Quốc đã trục xuất người Uighur ở nhiều tỉnh về lại Tân Cương.

Phái đoàn Uighur từ Tân Cương ở Quốc hội Trung Quốc đầu tháng Ba

Trong tháng Ba cũng diễn ra vụ tấn công bằng dao của người Uighur ở Côn Minh

Ngoài Việt Nam, người Uighur cũng tới Thái Lan

Năm nay cũng là kỷ niệm năm năm vụ bạo động ở thủ phủ Urumqi của Tân Cương hồi tháng Bảy năm 2009 làm hơn 200 người chết và hàng ngàn người bị thương.

Mỗi trường hợp ra đi của người Uighur đều có những lý do cá nhân.

Nhưng có ba lý do bao trùm cho mọi cuộc “bỏ phiếu bằng chân” từ khi Trung Quốc kiểm soát toàn diện Tân Cương hồi năm 1949.

Đó là: đói nghèo, phân biệt đối xử và bị đẩy ra rìa xã hội.

Chính sách ‘Hán hóa’ của Trung Quốc, với mục tiêu người Hán chiếm đa số ở mọi nơi, khiến cho số người Hán ở Tân Cương chiếm tới 40% theo thống kê từ vài năm về trước.

Trong những vụ ra đi gần đây, người ta thấy người Uighur thường kéo cả gia đình đi theo.

Riêng trong những ngày cuối tuần qua, số người Uighur vượt biên vào Việt Nam và Thái Lan đã là 51 người trong đó có năm người thiệt mạng ở Bắc Phong Sinh.

Các quan chức Việt Nam không tiết lộ gì về danh tính 21 người vượt biển vào Việt Nam mà Hà Nội nói phía Trung Quốc đã bắt giữ.

Nhưng nhóm 16 người vào Việt Nam ở Bắc Phong Sinh và nhóm 15 người bị bắt ở Sa Kaeo, Thái Lan có cả thảy bảy phụ nữ và chín trẻ em.

Báo Phnom Penh Post nói những người Uighur cảm thấy họ không thể sống nổi ở quê hương do chính sách hà khắc của chính quyền Trung Quốc.

‘Tị nạn’

Trên thực tế chuyện người Uighur vào Việt Nam để tới nước thứ ba, có thể là Thổ Nhĩ Kỳ, nơi có cộng đồng lớn người Uighur, đã từng xảy ra.

Sau bạo động ở Tân Cương hồi năm 2009, một nhóm 22 người Duy Ngô Nhĩ cũng đã băng qua Việt Nam để tới Campuchia nộp đơn xin tị nạn.

Tuy nhiên Phnom Penh đã trả họ về Trung Quốc dưới sức ép của Bắc Kinh cho dù không phải là trả vội vàng qua biên giới như Việt Nam.

Ngay cả Thái Lan, nước cởi mở hơn với người tị nạn so với Việt Nam và Campuchia, hồi tháng trước cũng kết án hàng chục người Uighur xâm nhập trái phép cho dù Hoa Kỳ kêu gọi Bangkok bảo vệ những người này.

Cảnh sát bán quân sự ở Tân Cương nơi gần như năm nào cũng có bất ổn

Cách hành xử của Việt Nam, dù nay đã là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, là điều khó tránh khỏi.

Sức ép của Trung Quốc với Việt Nam, cả về chính trị, thương mại và quân sự, luôn hiện hữu.

Người ta cũng đã đặt câu hỏi tại sao Trung Quốc thông báo cho phía Việt Nam về cả hai vụ người Uighur toan vượt biên vào Quảng Ninh nhưng vì lý do nào đó bản thân phía Trung Quốc lại không thể chặn được những người này rời Trung Quốc.

“…Nếu Trung Quốc gặp vấn đề với người Hồi giáo Tân Cương và phật tử ở Tây Tạng thì Việt Nam cũng từng có vấn đề với người Thượng ở Tây Nguyên và người H’Mong ở Mường Nhé, Điện Biên. “

Và nếu Trung Quốc gặp vấn đề với người Hồi giáo Tân Cương và Phật tử ở Tây Tạng thì Việt Nam cũng từng có vấn đề với người Thượng ở Tây Nguyên và người H’Mong ở Mường Nhé, Điện Biên.

Những người Thượng và người H’Mong cũng từng vượt biên qua Lào, Campuchia để tới Thái Lan với hy vọng được đi tỵ nạn và thực tế rất nhiều người đã tới được Hoa Kỳ.

Hiện chưa rõ động cơ cá nhân của nhóm hơn 50 người Uighur mới nhất bỏ nước ra đi và một luật sư ở Việt Nam nói đáng ra Hà Nội cần điều tra rõ ràng vụ việc trước khi có quyết định trao trả những người Duy Ngô Nhĩ muốn vào Việt Nam.

Khi bạo động Tân Cương xảy ra hồi năm 2009, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã coi những gì xảy ra là “hành động diệt chủng” cho dù Bắc Kinh nói hầu hết trong số 200 người chết ở Urumqi là người Hán.

Với đợt bỏ trốn mới nhất này, Trung Quốc không công khai lý do tại sao người Uighur phải ra đi và những lời kêu gọi những nước như Việt Nam điều tra không phải không có lý.

Nhưng thực hiện theo những lời kêu gọi đó lại bất khả thi với chính sách hiện nay của Việt Nam về nhân quyền và cách tiếp cận ngoại giao hiện có của Hà Nội đối với Bắc Kinh.

 

Nhà văn lớn nhất của Nam Mỹ vừa qua đời

Nhà văn lớn nhất của Nam Mỹ vừa qua đời
Friday, April 18, 2014

Nguoi-viet.com


Hà Tường Cát/Người Việt

MEXICO CITY – Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.

Gabriel Garcia Marquez những năm cuối cùng ở Mexico. (Hình: Suzana Gonzalez/Bloomberg via Getty Images)

Bản tuyên dương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn Học năm 1982 cho ông viết: “Mỗi tác phẩm mới của G.G Marquez được đón nhận bằng những lời chỉ trích, và độc giả đón nhận như một biến cố trọng đại trên thế giới.”

Tổng Thống Mexico Enrique Pena Nieto gọi Marquez là “một trong những nhà văn vĩ đại nhất của mọi thời đại.”

Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Bill Clinton, cho rằng Marquez đã “nắm bắt được trọn vẹn niềm vui, nỗi buồn của cả loài người,  bằng trí tưởng tượng thiên tài, cách suy nghĩ mạch lạc và một sự trung thực hiếm có trong cảm xúc.” Gia đình Tổng Thống Clinton gặp và ăn tối với Marquez ở nhà của văn sĩ  nổi tiếng người Mỹ, William Syron (1925-2006) năm 1994, sau nhiều năm ông bị từ chối visa vào nước Mỹ vì quá trình hoạt động chính trị.

Marquez được coi như nhà văn Nam Mỹ sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha vĩ đại nhất kể từ thời Miguel de Cervantes (1547-1616), tác giả “Don Quixote de la Mancha,” tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở Âu Châu  và là một trong những tác phẩm lớn nhất trong văn học Tây Phương.

Chủ nghĩa hiện thực là căn bản trong những tác phẩm của Garcia. Những tác phẩm đầu tay của ông phản ánh hiện thực cuộc sống ở quê hương Colombia. Nhưng sau đó vì dự tính quá nhiều chi tiết trước khi sáng tác nên ông chuyển sang hướng được gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism).

Chủ đề chính yếu trong sáng tác của Marquez là sự cô độc. Tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông và đã đưa đến giải thưởng văn chương Nobel năm 1982 là Trăm Năm Cô Đơn (Cien anos de soledad), viết trong 18 tháng, bắt đầu năm 1965, xuất bản năm 1967 ở Tây Ban Nha. Cuốn sách được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, kể cả Việt Ngữ, và bán được khoảng 30 triệu bản.

Trăm Năm Cô Đơn bao gồm nhiều bình diện, phản ánh cuộc sống của các dân tộc châu Mỹ La Tinh và những sự kiện quan trọng trong lịch sử của miền đất này. Sự pha trộn giữa những yếu tố hiện thực và giả tưởng trong tiểu thuyết diễn tả giá trị thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của văn học. Sự tham lam, tính ích kỷ làm mất đi bản chất của những con người có đầy đủ thể lực, trí tuệ và chỉ có tình yêu thương mãnh liệt mới có thể là yếu tố cần thiết để vượt thoát khỏi sự cô đơn.

Bài phát biểu đọc ngày 8 tháng 12 năm 1982 tại Stockholm khi nhân lãnh giải Nobel do Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng, mang tựa đề “Sự cô đơn của Châu Mỹ La Tinh,” phác họa những nội dung Marquez viết trong các tiểu thuyết và truyện nngắn của mình. Ông nêu ra chủ nghĩa thực dân Âu Châu và di sản của nó, sự hủy diệt văn hóa Mỹ La Tinh và ông đặc biệt nhấn mạnh đến những quốc gia chịu ảnh hưởng tiêu cực do chính sách đối ngoại của các cường quốc với tình hình chính trị rối ren qua nhiều năm.

Theo Marquez, Nam Mỹ đã trải qua 5 cuộc chiến tranh và 17 vụ đảo chính mà hậu quả là đem đến những nhà lãnh đạo độc tài và sự thoái hóa trên mọi mặt của sinh hoạt xã hội. Ông phê phán quá trình giải phóng đất đai nhưng thay thế bằng sự áp đặt nền văn minh ngoại nhập. Ông đề cập đến một thực trạng là trong khi Âu Châu sẵn sàng chấp nhận văn hóa nghệ thuật của dân Mỹ La Tinh thì họ lại nhìn những nguyện vọng chuyển đổi bằng con mắt nghi ngờ và đồng ý với những hành động trấn áp của chính quyền quân phiệt. Marquez tin rằng mỗi dân tộc ở đây nên được có cơ hội để tạo dựng lý tưởng riêng cho vận mệnh của mình thoát ra khỏi nỗi cô đơn.

Trăm Năm Cô Đơn là chuyện về bảy thế hệ của một gia đình ở tỉnh Macondo, một địa danh tưởng tượng mà Marquez tạo nên phần nào theo mô hình của khu đô thị Aracataca, quê hương ông tại Colombia. Mặc dầu câu chuyện diễn tiến theo trình tự nhưng thời gian và lịch sử không hẳn đã là sự nối tiếp tự nhiên mà được linh động hóa. Không gian Macondo, một tỉnh được thành lập trong khu rừng nhiệt đới xa xôi hẻo lánh ngay đầu tiên đã là thể hiện cho nỗi đơn độc.

Biện bạch về nỗi cô độc tận cùng trong các tác phẩm của mình, Marquez cho rằng “cô độc  là điều mà tất cả mọi con người đều phải đối mặt lúc này hay lúc khác và mỗi người có những phương cách không giống nhau để thể hiện.” Do đó theo ông, “cô độc là cảm xúc xuất hiện trong tác phẩm của rất nhiều nhà văn, thâm chí có người không ý thức được rằng mình đang thể hiện sự cô độc qua ngòi bút.”

Những tác phẩm khác của ông không chỉ dựa theo chủ đề cô đơn. Ông đã giải thích: “Qua mỗi cuốn sách, tôi cố gắng đi theo một đường khác. Không thể áp đặt ý chí trong việc chọn lựa phong cách vì nếu gượng ép sẽ bất thành.” “La Violencia” lấy khung cảnh là cuộc nội chiến giữa các đảng phái chính trị Colombia trong thập niên 1960. “Tình Yêu thời (Dịch) Thổ Tả” (1985) là bản cáo trạng đối với một xã hội đánh giá con người không bằng phẩm giá mà bằng của cải sở hữu. Xã hội như thế bóp chết những tình cảm trong sáng tốt đẹp, muốn có tình yêu và hạnh phúc thì phải giải phóng con người khỏi xã hội ấy. “Vị Đại Tá Chờ Thư” (1961) mang tính cách huyền ảo đến mức nhân vật chính cũng không được gọi tên, tạo cho người đọc ấn tượng về sự vô danh của số phận con người. Luận điểm của truyện này là một lời nhắn nhủ, rằng đời người có khi phải sống bằng hy vọng dẫu rằng niềm hy vọng ấy có khi chỉ là ảo vọng.

Marquez có tổng cộng gần 20 truyện dài và 5 tuyển tập truyện ngắn. Cho đến những năm cuối cuộc đời, khi sức khỏe đã suy kém nhiều, ông vẫn còn sáng tác: “Sống Để Kể  Chuyện” (2002) là cuốn tự truyện về cuộc đời của chính ông. Cuốn hồi ký được coi là khá chân thực, đề cập rõ hơn về sự cô đơn, những trải nghiệm và ký ức còn lắng đọng trong một con người cô độc với những niềm đau, ước mơ, khát vọng và suy tư trăn trở về ý nghĩa cuộc sống qua cuộc đời đó.

Gabriel Garcia Marquez sinh năm 1927 ở Aracataca, theo học luật khoa đại học Cartagena, Colombia, nhưng chán ngán các môn học khô khan, quyết định bỏ học để chuyển sang lãnh vực văn chương dù rằng đã phải trải qua một giai đoạn rất khó khăn về sinh kế.

Ngay khi còn đi học, từ 1948 ông viết báo cho tờ El Espectador và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên bằng 10 truyện ngắn đã nhanh chóng nổi tiếng. Sau khi bỏ học ông chuyển về Barranquilla và tham gia một nhóm các nhà báo có tinh thần tiến bộ và nhờ đó có cơ hội tiếp cận với các nhà văn sau này nổi danh như William Fulkner và Ernest Hemingway. Năm 1955 ông làm đặc phái viên cho tờ El Espectador ở Thụy Sĩ, có dịp đến Ý và qua Paris. Ở đây ông được tin tờ báo bị đình bản, nhưng không nhận vé máy bay về nước mà ở lại Paris tiếp tục viết văn. Ba năm sau, ông trở về nước, đi qua Venezuela.

Năm 1960 khi cách mạng Cuba thành công, Marquez đến Havana làm phóng viên cho hãng thông tấn nhà nước Prensa Latina và trở thành bạn của Fidel Castro. Từ 1961 đến 1965, ông không viết được tác phẩm văn học nào trong khi làm phóng viên thường trú cho Prensa Latina ở New York rồi Mexico City.

Năm 1974, sau khi nổi tiếng trên thế giới với Trăm Năm Cô Đơn (1967), Marquez sống ở Mexico, Cuba, Paris và  tham gia các hoạt đông chính trị. Từ 1981, ông hoàn toàn sống lưu vong tại Mexico sau khi chính quyền bảo thủ Colombia lên án ông bí mật cung cấp tài chính cho phong trào du kích cánh tả M-19.

Bây giờ, những gì khiến người ta luyến tiếc Marquez không chỉ ở văn chương của ông mà còn vì những đặc điểm của con người ông: thể hiện qua tính cách hài hước, dí dỏm, ấn tượng sâu sắc về nỗi cô đơn, vẻ huyền ảo nhưng rất gần thực tế. Là người có lý tưởng cách mạng và hoạt động chính trị, các tác phẩm của ông luôn phản ánh chính trị và thời cuộc, nhưng ông không bao giờ để bị trói buộc vào ý thức hệ ấy khi viết. Đối với ông, sứ mệnh của một nhà văn cách mạng là phải viết hay, để tiểu thuyết của mình trình bày ra lý tưởng nhưng không bỏ quên khả năng lôi cuốn tác động người đọc bằng hiện thực.

Cuối cùng, có thể kể ra dưới đây một vài trong số 1,038 danh ngôn của Gabriel Garcia Marquez do trang goodreads.com  sưu tập:

Ký ức của trái tim thường xóa đi cái xấu và phóng đại cái tốt / Không thuốc nào có thể chữa nếu hạnh phúc không trị nổi / Già không ở tuổi tác mà do cảm nhận / Ai chờ mong nhiều chỉ có thể nhận được ít / Ít ai xứng đáng với nước mắt của ta nhưng kẻ nào xứng đáng sẽ không làm ta khóc. (HC)

Tai nạn phà Sewol : Hàn Quốc bị sốc mạnh, khoảng 300 người vẫn mất tích

Tai nạn phà Sewol : Hàn Quốc bị sốc mạnh, khoảng 300 người vẫn mất tích

24 tiếng đồng hồ sau thảm họa, lực lượng cứu hộ ráo riết tím người mất tích. Nhiều người còn kẹt trong phà Sewol. Ảnh chiếc phà chìm ngày 16/04.

24 tiếng đồng hồ sau thảm họa, lực lượng cứu hộ ráo riết tím người mất tích. Nhiều người còn kẹt trong phà Sewol. Ảnh chiếc phà chìm ngày 16/04.

REUTERS/Kim Kyung-Hoon

Anh Vũ

RFI

Một ngày sau vụ tai nạn chiếc phà biển Sewol bị đắm, cả đất nước vẫn trong cơn sốc mạnh. Hôm nay 17/04/2014, các lực lượng cứu hộ tiếp tục nỗ lực tối đa để tìm kiếm những người còn sống sót ngoài khơi Hàn Quốc. Các gia đình nạn nhân và dư luận bắt đầu trút phẫn nộ lên chính phủ và thủy thủ đoàn trong cách giải quyết vụ tai nạn.

Theo lực lượng bảo vệ bờ biển, hiện tại đã vớt được 9 thi thể nạn nhân. Vẫn còn 287 người mất tích trên tổng số 475 hành khách trên phà, trong đó có 325 học sinh trung học, theo thông báo mới.

Các đội cứu hộ tiếp tục làm việc trong cả đêm hôm qua dưới ánh đèn pha cực mạnh với hy vọng tìm được người sống sót, nhưng dòng biển chảy mạnh và tầm nhìn dưới nước hạn chế đã khiến các thợ lặn không thể vào được bên trong phần thân tàu bị chìm. Ba cần cẩu nổi khổng lồ đã được triển khai tại hiện trường để dựng lên lại chiếc tàu.

Vụ tai nạn khiến cả đất nước Hàn Quốc bàng hoàng, nhất là đa số nạn nhân là các học sinh nhỏ tuổi. Sau cơn sốc mạnh, các gia đình nạn nhân trút phẫn nộ lên chính phủ và thuỷ thủ đoàn về cách xử lý thảm hoạ

Thông tín viên Frederic Ojardias tại Seoul tường trình:

‘ Cả Hàn Quốc vẫn còn bàng hoàng trong cơn sốc mạnh. Nhật báo Chosun Ilbo chạy tựa : « Trong 140 phút cả đất nước chứng kiến cảnh những người con bị chết ngay trước mắt mình ».

Các sự kiện chính thức đều bị hoãn lại, Quốc hội cũng ngừng hoạt động. Tâm trạng chủ yếu của các gia đình lúc này là phẫn nộ. Phẫn nộ về cách xử lý vụ tai nạn của chính phủ. Ban đầu chính quyền đưa ra những con số để trấn an. Họ đã thông báo sai là tất cả các trẻ nhỏ đều đã được cứu sống.

Một phụ huynh còn ném cả chai nước vào mặt Thủ tướng khi ông đến gặp gỡ các gia đình nạn nhân. Nỗi phẫn nộ chủ yếu đổ lên thủy thủ đoàn.

Trong lúc xảy ra đắm tàu, thủy thủ đoàn đã nhiều lần ra lệnh cho hành khách phải ngồi yên, thế nhưng chính những người không chịu nghe lệnh thì lại sống sót.

Thủy thủ đoàn cũng đã chần chừ 18 phút sau vụ va chạm mới gọi điện kêu cứu. Cuối cùng, cũng giống như vụ đắm tàu Concordia ở ven biển nước Ý trước đây, thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là những người đầu tiên rời khỏi chiếc phà. Viên thuyền trưởng đã bị cảnh sát thẩm vấn.

Trong số những nguyên nhân của thảm hoạ, người ta ngày càng thiên về khả năng phả va chạm với dải đá ngầm. Một số cơ quan truyền thông khẳng định, vì khởi hành muộn nên thuyền trưởng quyết định cho tàu đi đường tắt để đến nơi nhanh hơn.’

Xin xem thêm:

Nam Hàn tiếp tục tìm hành khách mất tích (BBC)

Phụ huynh học sinh trường Danwon thắp nến cầu nguyện

Cha Frans Van Der Lugt, S.J. nhà truyền giáo Dòng Tên tại Syria đã bị sát hại

Cha Frans Van Der Lugt, S.J. nhà truyền giáo Dòng Tên tại Syria đã bị sát hại

Chỉnh Trần, S.J.

4/7/2014

Bản tin từ Trụ sở Dòng Tên tại Rôma cho hay những kẻ vũ trang đã đột nhập cộng đoàn Dòng Tên tại Homs, bắt cóc và bắn chết cha Frans Van Der Lugt, S.J. một nhà truyền giáo Dòng Tên phục vụ tại Syria.

Cha Frans sinh tại Hà Lan năm 1938. Ngài gia nhập Dòng Tên năm 1958 và chịu chức linh mục năm 1971. Cha đã phục vụ tại Syria từ năm 1960. Bất chấp nguy hiểm từ cuộc nội chiến tại Syria, cha đã tình nguyện ở lại thành phố Homs để đồng hành và giúp đỡ những người dân bị kẹt lại thành phố chết chóc này.

Các nhân chứng nói rằng vị linh mục này đã trở thành mục tiêu trực tiếp của những kẻ vũ trang. Một tay súng đã bước vào cộng đoàn của các tu sĩ Dòng Tên, bắt cha Van Der Lugt, dẫn cha ra sau vườn và bắn vào đầu cha.

Cha Van Der Lugt là một nhân vật nổi tiếng ở Homs vì những nỗ lực của ngài trong việc giúp cho hàng viện trợ lọt qua những hàng rào phong tỏa để đến với dân chúng đang đói khát.

Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng hai, cha Van der Lugt cho biết ngài không muốn rời bỏ thành phố Homs. Ngài nói: “Người dân Syria đã cho tôi quá nhiều, lòng hảo tâm và tất cả những gì họ có. Họ đang chịu đau khổ, và tôi muốn chia sẻ nỗi đau và những khó khăn cùng với họ”.

Trước đây, cha Van Der Lugt đã tải lên Youtube một đoạn video mô tả cuộc sống bi đát của người dân thành phố Homs. Ngài cho biết: “Chúng tôi, dù là Kitô hữu hay tín đồ Hồi giáo, đang phải sống trong những điều kiện khó khăn và đau khổ. Chúng tôi bị đói khát trầm trọng. Chúng tôi quý trọng sự sống, chúng tôi không muốn chết, không muốn chìm trong đại dương của tử thần và đau khổ”.

Một người anh em Dòng Tên khác của cha Van Der Lugt, cha Paolo Dall’Oglio, S.J, người Ý đã bị nhóm Thánh chiến Hồi giáo, một nhóm phiến quân vũ trang có liên hệ với Al-Qaeda, bắt cóc vào tháng bảy năm 2013. Hiện không rõ tung tích và số phận của cha Paolo Dall’Oglio ra sao.

Tại Syria, các tu sĩ Dòng Tên không làm chính trị, nhưng cam kết theo đuổi các hoạt động nhân đạo và lặp lại lời kêu gọi “hòa bình và hòa giải ở Syria.”

Cha Federico Lombardi, S.J., phát ngôn viên Tòa Thánh nói rằng cha Van Der Lugt đã thể hiện lòng can đảm phi thường khi chấp nhận ở lại bên cạnh người dân Syria dẫu cho ngài phải đối diện tình huống nguy hiểm đến tính mạng.

Trong một tuyên bố, nữ Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói rằng nước Mỹ “đau buồn” trước thông tin về cái chết của cha Van Der Lugt. Bà nói rằng vị linh mục đã dấn thân phục vụ để xoa dịu những nỗi đau vì nội chiến của người dân Homs. Nữ phát ngôn viên này cũng lên án những đe dọa tiếp tục chống lại các Kitô hữu thiểu số tại Syria.

Một số chiến binh Hồi giáo nằm trong liên minh nổi dậy đã chống lại các Kitô hữu và buộc hơn 450,000 người phải rời bỏ nhà cửa của mình. Trước cuộc nội chiến, tại Syria có khoảng 2,5 triệu Kitô hữu.

Chỉnh Trần, S.J.

Trung Quốc và hành động “Ngư Ông đắc lợi”

Trung Quốc và hành động “Ngư Ông đắc lợi”

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-04-13

thanhquang04132014.mp3

000_Nic6300125-305.jpg

Ngoại trưởng Iraq Hoshyar Zebari (phải) và Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Wang Yi trong một cuộc họp báo vào ngày 23 tháng 2 năm 2014 tại thủ đô Baghdad, Iraq.

AFP PHOTO / Sabah ARAR

Trung Quốc ngoài chuyện ngày càng đẩy mạnh tham vọng bành trướng bá quyền, như tại vùng biển Đông và cả biển Hoa Đông nhưng luôn lớn tiếng “sống chung hòa bình”, “không hề chủ trương tạo thêm căng thẳng”, “ luôn theo đuổi mục tiêu giải quyết mọi tranh chấp bằng đường lối ngoại giao”…, thì hiện có một đặc điểm gây nhiều chú ý của Hoa Lục là trong thế “tọa sơn quan hổ đấu” để trở thành “Ngư Ông đắc lợi”.

Trục lợi ở Trung Đông

Chuyện “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Nam Hải nổi bật nhất là kể từ khi Bắc Kinh vững mạnh về kinh tế và đặc biệt là về quân sự sau khi ông Đặng Tiểu Bình theo đuổi chủ trương “mèo đen hay mèo trắng không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột” và chỉ thị thuộc cấp “giấu mình chờ thời”.

Có lẽ công luận bắt đầu lưu ý đến hành động “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Quốc diễn ra tại Trung Đông sau khi lực lượng đa quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến vào Afghanistan hồi năm 2001 vì bị khủng bố tấn công và sau khi Tổng thống George W. Bush đưa quân chiếm đóng Iraq hồi năm 2003 với cớ ngăn chận võ khí tàn sát hàng loạt của Saddam Hussein.

” Hoa Kỳ bị dính sâu vào những vùng nóng ở các khu vực khác thì tiến trình tái cân bằng cũng như trở lại Á Châu của Hoa Kỳ bị chậm đi. Điều đó là có lợi cho Trung Quốc.
-LS Vũ Đức Khanh”

Qua bài tạm dịch là “Chiến tranh vì dầu hỏa: Trung Quốc trục lợi từ cuộc chiến 10 năm của Mỹ ở Iraq”, chuyên gia Ken Schortgen Jr. nhận xét rằng “trong khi trên thực tế Hoa Kỳ chẳng kiếm được bao nhiêu dầu qua nỗ lực dân chủ hóa xứ Iraq, thì hàng ngàn chiến binh Mỹ đã bỏ mình ở đó mà xem chừng như để cho Trung Quốc “đắc lợi” (qua những hợp đồng) từ chính phủ Iraq mới được dựng lên”. Theo bài báo , “Trung Quốc kiên nhẫn nằm chờ bên lề trong khi Hoa Kỳ cùng đồng minh lo ứng phó với nội tình mới, thường hỗn độn, tại Iraq sau khi lật đổ Saddam Hussein năm 2003, thì Trung Quốc tái xuất hiện hồi năm 2008 và ký kết hợp đồng béo bở đầu tiên thời hậu Saddam”.

Tạp chí The Diplomat còn cho hay Bắc Kinh hồi năm 2010 đã ký với Baghdad nhiều hiệp ước thương mại trị giá nhiều tỷ đô la trong nhiều lãnh vực, từ công nghiệp, du lịch cho tới giao thông.

Chuyên gia Ken Schortgen vừa nói cũng không quên nhắc tới chuyện Trung Quốc đã đặt nền tảng cho hoạt động hầm mỏ ở Afghanistan, nơi “lính Mỹ chiến đấu và bỏ mạng để mở hành lang kinh tế tự do và dân chủ” tại xứ này. Chuyên gia vừa nêu khẳng định rằng qua hậu quả một thập niên tử vong của lính Mỹ tại cả Iraq lẫn Afghanistan, liên minh kinh tế và hợp tác ngoại quốc do Hoa Kỳ hình thành chẳng mang lại thành quả bao nhiêu, nên cái “khỏang trống” đó được cường quốc Trung Quốc đang trỗi dậy nhảy vào”.

001_GR346140-250.jpg

Bản đồ hình lưỡi bò trên Biển Đông do Trung Quốc đơn phương công bố. AFP PHOTO.

Hoặc, chuyện “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Quốc ở Ả Rập Saudi, khi ý định công khai của Riyadh qua chính sách ngoại giao quay lưng với Mỹ thì nó cũng hàm ý một sự chuyển hướng sang Bắc Kinh dù Ả Rập Saudi khó có thể hoàn toàn từ bỏ “ô dù an ninh” của Mỹ.

Hai phân tích gia Hoa Kỳ Daniel Wagner và Giorgio nêu lên câu hỏi qua bài “Liệu Hoa Kỳ có mất Ả Rập Saudi vào tay Trung Quốc hay không?”, lưu ý rằng “Trung Quốc hài lòng dù không được xem là nước tích cực xúc tiến ổn định trong khu vực (Trung Đông), nhưng lại trục lợi từ hoạt động quân sự của Mỹ”, “Trung Quốc cũng hài lòng là chơi trò trở ngại cho nỗ lực quốc tế do Mỹ dẫn đầu cô lập kinh tế Iran, để (Bắc Kinh) trở thành nước xuất khẩu số một sang thị trường Iran”. Bài báo kết luận rằng “Trung Quốc nằm chờ cho đúng thời cơ để khai thác cơ hội trong tương lai khi xảy ra rạn nứt giữa Washington và Riyadh”.

Có lẽ hành động “Ngư ông đắc lợi” rõ rệt nhất của Bắc Kinh hiện giờ – nói theo lời tác giả Jeanette Seiffert – là “Trung Quốc thấp thỏm đợi chờ trong vụ Crimea” và cả Ukraine.

“Tọa sơn quan hổ đấu”

Qua tiểu tựa hàm ý “Bắc Kinh làm ngư ông đắc lợi”, tác giả nhận định rằng biện pháp phương Tây cấm vận kinh tế đối với Nga có thể có lợi cho Trung Quốc. “Trung Quốc, đã là nước mua dầu nhiều nhất của Nga, chắc chắn hài lòng trước diễn biến này, và có thể trở thành ‘Ngư Ông đắc lợi’ trong vụ khủng hỏang Ukraine, trục lợi trong khi những nước khác đánh đấm nhau”, mà một cái lợi hàng đầu cho Trung Nam Hải hẳn là có cơ may mua được võ khí tối tân cùng lượng dầu hỏa với ‘giá hữu nghị” của Maxtcơva.

Theo Chủ tịch Ecrhard Cordes của Ủy ban Quan hệ Kinh tế Đông Âu Đặc trách Các Hiệp hội Công nghiệp Đức, thì Nga sẽ ngày càng xa lánh Âu Châu, thì Trung Quốc sẽ là kẻ được lợi. Hay nói đúng hơn, cuộc đấu nhau giữa con hổ Mỹ/EU và con hổ Liên bang Nga tiếp diễn càng lâu thì con “tàng long” Trung Nam Hải trong thế ‘tọa sơn quan hổ đấu” càng đắc lợi.

“Việc Nga chiếm Crimea một cách dễ dàng như vậy tạo nên một tiền đề pháp lý và chiến lược để một ngày nào đó, TQ nhân danh một lý do lịch sử cũng như việc bảo vệ Hoa Kiều ở đâu đó.
-GS Nguyễn Hưng Quốc”

Về vấn đề này, từ Canada, LS Vũ Đức Khanh, chuyên về bang giao quốc tế và vấn đề biển Đông, nhận xét:

“Trong bối cảnh chính trị thế giới hiện giờ, nếu như Hoa Kỳ bị dính sâu vào những vùng nóng ở các khu vực khác thì tiến trình tái cân bằng cũng như trở lại Á Châu của Hoa Kỳ bị chậm đi, hoặc có thể phải có những thay đổi chiến thuật khác. Điều đó là có lợi cho Trung Quốc. Và trong mối quan hệ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Nga hiện giờ, coi như Trung Quốc đạt được lợi nhiều nhất trong vấn đề đó. Vì khi Hoa Kỳ đụng với Nga trong hiện tại bằng những đòn kinh tế, Nga bắt buộc phải có những thỏa hiệp với Trung Quốc để tiếp tục đứng vững về kinh tế; đồng thời Nga hoặc Hoa Kỳ cũng phải đổ thêm nguồn nhân lực, vật lực vào Cimea và Ukraine.”

Qua bài “ Bàn cờ mới: Trung Quốc được lợi”, GS Nguyễn Hưng Quốc ở Úc nhận xét rằng nước có lợi lớn nhất trong cuộc xâm lấn Crimea của Nga vừa rồi chắc chắn là Trung Quốc, như ông phân tích:

“Lợi ở hai điểm chính: Một, kế hoạch bao vây và kiềm chế Trung Quốc của Mỹ chắc chắn sẽ chậm lại và yếu hơn; như vậy, Trung Quốc sẽ có đủ thời gian để phát triển quân sự ở châu Á; hai, việc Nga lấn chiếm Crimea một cách dễ dàng như vậy cũng tạo nên một tiền đề pháp lý và chiến lược để một ngày nào đó, Trung Quốc nhân danh một lý do lịch sử cũng như việc bảo vệ Hoa Kiều ở đâu đó có thể xua quân lấn chiếm lãnh thổ hoặc một phần lãnh thổ của các nước khác. Đối tượng đáng lo nhất trước mắt là nhóm đảo Điếu Ngư / Senkaku hiện đang tranh chấp với Nhật, đảo Hoàng Nham / Scarborough hiện đang tranh chấp với Philippines; Trường Sa và rộng hơn, Biển Đông hiện đang tranh chấp với Việt Nam.”

Sau khi phân tích về việc “Ngư Ông TQ đắc lợi”, GS Nguyễn Hưng Quốc không quên nêu lên câu hỏi rằng “Chuyện liên quan đến Nhật và Philippines thì đã có hai nước ấy lo; còn chuyện liên quan đến Việt Nam thì sao? Ai lo?”

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ: Trung Quốc nguy hiểm

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ: Trung Quốc nguy hiểm

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc Harris, tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc Harris, tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

10.04.2014

Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chỉ trích thái độ hành xử ‘nguy hiểm’ của Trung Quốc và mô tả chính sách tăng cường quân sự của Bắc Kinh trong khu vực là ‘hung hăng’.

Những lời lẽ mạnh mẽ của Đô Đốc Harry Harris được đưa ra nhân bài diễn văn đọc tại Đài Tưởng niệm Chiến tranh Australia tối ngày 9/4.

Trao đổi với các lãnh đạo quân sự Australia, ông Harrry Harris lên án việc Trung Quốc tự ý lập vùng nhận dạng phòng không bao trùm các khu vực có tranh chấp ở Biển Hoa Đông không cần tham khảo ý kiến các bên.

Đô Đốc Harris cũng tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

Đô đốc Harris nói ông quan ngại trước sự bành trướng quân sự hung hăng, không minh bạch cùng với thái độ ngày càng gây hấn của Trung Quốc trong đó bao gồm các tuyên bố chủ quyền không căn cứ trên luật lệ quốc tế.

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định Hoa Kỳ mạnh mẽ phản đối việc giải quyết tranh chấp bằng các hành động áp bức.

Nhân vật quân sự có nhiều ảnh hưởng của Mỹ nhấn mạnh các thách thức này càng nêu bật tầm quan trọng của chính sách chuyển trọng tâm về Châu Á của Washington.

Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong cuộc họp thượng đỉnh quốc phòng Mỹ-ASEAN ở Haiwaii hôm 3/4, đã gửi một thông điệp tới Bắc Kinh qua tuyên bố rằng Hoa Kỳ ngày càng quan ngại về các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và kêu gọi các nước tự chế, minh định chủ quyền thông qua luật lệ quốc tế, và cư xử đúng mực.

Nỗ lực tìm kiếm hộp đen của MH370 sau khi bắt được tín hiệu

Nỗ lực tìm kiếm hộp đen của MH370 sau khi bắt được tín hiệu

Máy bay E-7A Wedgetail thuộc Không quân Hoàng gia Australia cất cánh từ sân bay Perth để tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích, ngày 5/4/2014.

Máy bay E-7A Wedgetail thuộc Không quân Hoàng gia Australia cất cánh từ sân bay Perth để tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích, ngày 5/4/2014.

06.04.2014

Người đứng đầu nỗ lực đa quốc gia tìm kiếm chiếc máy bay mất tích của hãng hàng không Malaysia Airlines cho hay thông tin về việc một chiếc tàu của Trung Quốc hai lần bắt được tín hiệu vào cuối ngày thứ Bảy rất đáng phấn khởi nhưng vẫn chưa xác nhận được điều gì.

Tướng Không quân hồi hưu Angus Houston nói tại một cuộc họp báo hôm Chủ nhật rằng mặc dù những tín hiệu này là những tín hiệu của ‘hộp đen’ ghi dữ liệu phi hành, cho đến giai đoạn này, các giới chức chưa thể xác định được có sự liên hệ nào giữa những tín hiệu đó với chiếc máy bay MH370 bị mất tích.

Ông Houston nói rằng hai chiếc tàu của Australia với các thiết bị kỹ thuật cao sẽ phối hợp với chiếc tàu của Trung Quốc để xác nhận hoặc loại trừ việc những tín hiệu bắt được đó là từ hộp đen của chiếc máy bay mất tích.

Ông Houston nói: “Đây là một đầu mối quan trọng và rất đáng kích lệ, nhưng tôi đề nghị chúng ta phải tiếp tục xem xét thận trọng. Chúng ta đang tìm kiếm trên một đại dương bao la, trong một khu vực vô cùng lớn, và cho đến nay, kể từ lúc chiếc máy bay mất tích, chúng ta có rất ít manh mối cho phép chúng ta thu hẹp phạm vi tìm kiếm lại.”

Thủ tướng Australia Tony Abbott hôm nay nói rằng các đội tìm kiếm đang hy vọng nhưng chưa có cơ sở để tin chắc rằng những tín hiệu đó là từ hộp đen của chiếc máy bay mất tích.

Chiếc máy bay của hãng hàng không Malaysia trên đường bay từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh đã biến mất hôm 8 tháng 3, tức gần một tháng qua.

Các nỗ lực tìm kiếm tập trung vào một khu vực xa xôi ở nam Ấn Ðộ dương nơi cuộc tìm kiếm trong lòng đại dương bắt đầu từ hôm qua.

Các nỗ lực tìm kiếm đang trở nên cấp bách hơn vì pin trong hộp đen của chiếc máy bay sắp hết.

 

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các láng giềng

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các láng giềng

Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera (T) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (P) duyệt qua hàng quân danh dự tại trụ sở Bộ Quốc phòng Nhật ở Tokyo ngày 06/04/2014.

Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera (T) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (P) duyệt qua hàng quân danh dự tại trụ sở Bộ Quốc phòng Nhật ở Tokyo ngày 06/04/2014.

REUTERS/Alex Wong

Đức Tâm

RFI

Đang công du Nhật Bản, sau cuộc gặp với đồng nhiệm Nhật Bản Itsunori Onodera, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel hôm 06/04/2014, đã nhắc đến tiền lệ Nga sáp nhập vùng Crimée để cảnh báo Trung Quốc không nên có những hành động đơn phương nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Nhật Bản cũng như với các nước Châu Á khác.

Theo Bộ trưởng Chuck Hagel, « tất cả mọi quốc gia đều cần phải được tôn trọng, cho dù đó là nước lớn hay nhỏ » và « chúng ta thấy một ví dụ minh họa rõ ràng cho việc không tôn trọng, cưỡng bức và hù dọa qua những gì mà Nga đã làm tại Ukraina »

Ông Hagel nhấn mạnh : « Không thể vẽ lại đường biên giới, xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia qua các hành động vũ lực, cưỡng bức và dọa nạt – cho dù đó là những hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương hay các quốc gia lớn ở Châu Âu. Và tôi muốn nói rõ điều đó với Trung Quốc ». Bởi vì là « một cường quốc lớn », thì « Trung Quốc phải có trách nhiệm to lớn ».

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tuyên bố như trên trước khi ông tới Bắc Kinh ngày 07/04.

Đồng thời, ông Hagel cũng nhắc lại là Hoa Kỳ cam kết đứng bên cạnh đồng minh Nhật Bản trong khuôn khổ hiệp định phòng thủ chung và phạm vi áp dụng của bản hiệp định này bao gồm cả các quần đảo ở biển Hoa Đông, nơi đang có những tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung Quốc.

Ông nói : « Chúng tôi kiên quyết chống lại mọi hành động cưỡng chế đơn phương nhằm phủ nhận sự kiểm soát hành chính của Nhật Bản » đối với một vùng lãnh thổ và ông kêu gọi Tokyo và Bắc Kinh giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp lãnh thổ.

Afghanistan bắt đầu bầu cử tổng thống

Afghanistan bắt đầu bầu cử tổng thống

Thứ bảy, 5 tháng 4, 2014

400.000 cảnh sát và binh sỹ được điều động để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử

Các cử tri tại Afghanistan bắt đầu bỏ phiếu chọn ra tổng thống mới trong cuộc chuyển giao quyền lực dân chủ đầu tiên tại nước này.

Một chiến dịch an ninh với quy mô lớn đang được tiến hành để ngăn cản lực lượng Taliban, vốn trước đó đã tuyên bố sẽ quấy rối cuộc bầu cử.

Tám ứng viên có cơ hội sẽ thay thế ông Hamid Karzai, người phải rời ghế tổng thống sau hai nhiệm kỳ liên tiếp, theo hiến pháp Afghanistan.

Tuy nhiên, không khí cuộc bầu cử cũng đang bị ảnh hưởng bởi vụ nổ súng vào hai phóng viên AP.

Nhiếp ảnh gia người Đức Anja Niedringhaus đã bị sát hại và phóng viên kỳ cựu người Canada, Kathy Ganno, bị thương, sau khi một viên chỉ huy cảnh sát nổ súng vào xe của họ ở thị trấn Khost, nằm phía đông Afghanistan, hôm 4/4.

Cả hai đã làm việc cho AP nhiều năm.

Đây là vụ tấn công mới nhất trong chuỗi hàng loạt vụ tấn công đẫm máu diễn ra trước thềm cuộc bầu cử.

Cử tri ở Kabul bất chấp mưa lớn để đi bầu cử

Các ứng viên sáng giá

Một chiến dịch quân sự với quy mô lớn nhất kể từ khi chính quyền Taliban bị lật đổ hồi năm 2001 đã được tiến hành để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử, phóng viên BBC tại Kabul, David Loyn, cho biết.

Bất chấp mưa lớn tại thủ đô Afghanistan vào sáng sớm thứ Bảy và những mối đe dọa an ninh, nhiều cử tri, nhất là những người trẻ tuổi, vẫn có mặt ở các điểm bỏ phiếu, phóng viên của chúng tôi cho biết thêm.

Chủ tịch Ủy ban Bầu cử Độc lập Ahmad Yousuf Nouristani đã kêu gọi tất cả người dân Afghanistan tham gia bỏ phiếu, trong lúc ông bỏ lá phiếu của mình trên sóng truyền hình trực tiếp.

Tình trạng kẹt xe đã gây khó khăn cho việc đi vào thủ đô Afghnistan vào thứ Sáu, với các chốt canh của cảnh sát được dựng lên ở mọi chốt giao thông.

Toàn bộ 400.000 cảnh sát và các binh sỹ ở nước này đã được triển khai để bảo vệ cho 12 triệu cử tri đi bỏ phiếu, nhà chức trách cho biết.

Các quan sát viên quốc tế tỏ ra khá lạc quan rằng các biện pháp an ninh cũng như những hình thức ngăn ngừa gian lận bầu cử sẽ giúp mang lại một cuộc bầu cử công bằng hơn trước đây, phóng viên của chúng tôi nhận định.

Người dân Afghanistan đã bị ngăn gửi tin nhắn trước tối thứ Bảy để ngăn ngừa việc dịch vụ này bị sử dụng để vận động bầu cử vào phút chót.

Trong số tám ứng viên tổng thống hiện nay, có ba người được xem là sáng giá: Các cựu ngoại trưởng Abdullah Abdullah và Zalmai Rassoul, cựu bộ trưởng tài chính, ông Ashraf Ghani Ahmadzai.

Ông Abdullah đã có một chiến dịch vận động bầu cử thành công, ông Ghani có được sự ủng hộ từ giới trẻ ở những khu vực thành thị, trong khi ông Rassoul được cho là người được ông Hamid Karzai tín nhiệm, phóng viên của chúng tôi cho biết.

Tuy nhiên, hiện không có ứng viên nào được trông đợi là sẽ dành được hơn 50% phiếu bầu để chiến thắng tuyệt đối, điều đồng nghĩa với việc nhiều khả năng một vòng bầu cử bổ sung sẽ diễn ra vào ngày 28/5.

Lừa được dùng để đưa thùng phiếu đến những nơi hẻo lánh

Quyết tâm cao

Vào thời điểm bị tấn công, Anja Niedringhaus và Kathy Gannon đang đi cùng đoàn xe của các nhân viên bầu cử, dưới sự bảo vệ của lực lượng an ninh Afghanistan, nhằm phân phát phiếu bầu từ trung tâm Khost tới huyện Tani ở khu vực ngoại ô.

Các nhân chứng cho biết cả hai đang ở trong xe riêng và đang đợi đi qua một chốt canh được canh gác cẩn mật, thì bị một viên chỉ huy cảnh sát nhắm bắn.

Bà Niedringhaus, 48 tuổi, một nhiếp ảnh gia người Đức từng là thành viên của một nhóm phóng viên được nhận Giải thưởng Pulitzer vì những bài tường thuật ở Iraq, đã tử vong ngay tại chỗ.

Bà Kathy Ganno, 60 tuổi, gốc Canada, người từng đứng đầu văn phòng thường trú của AP tại Afghanistan trong nhiều năm và là phóng viên đặc biệt của hãng thông tấn này trong khu vực, bị trúng hai phát đạn và đã được giải phẫu. Tình hình của bà hiện được cho là đã ổn định.

Bộ trưởng Nội vụ Afghanistan cho biết sẽ điều tra kỹ lưỡng vụ việc, nhưng cũng cho rằng nhiều khả năng các nạn nhân đã bị hung thủ nhận dạng nhầm.

Khu vực gần với biên giới Pakistan này đã bị phiến quân nhắm vào trong suốt 48 tiếng qua, người phát ngôn Sidiq Siddiqi cho biết.

Tòa nhà được canh gác cẩn mật của Bộ Nội vụ, nơi đặt trụ sở của Ủy ban Bầu cử Độc lập, và khách sạn năm sao Serena, đều đã bị tấn công.

Tuy nhiên, theo phóng viên của chúng tôi, tình trạng bạo lực có vẻ như đã làm tăng cao quyết tâm đi bỏ phiếu của người Afghanistan.

Kết quả kháo sát do Quỹ Bầu cử Tự do và Công bằng tiến hành cho thấy hơn 75% người tham gia lấy ý kiến cho biết họ có ý định bỏ phiếu, mặc dù niềm tin vào hệ thống bầu cử bị cho là đang giảm đi.

Các nước Liên Xô cũ run rẩy trước việc Nga sáp nhập Crimée

Các nước Liên Xô cũ run rẩy trước việc Nga sáp nhập Crimée

Bản đồ các nước thuộc khối Đông Âu và Liên Xô cũ

Bản đồ các nước thuộc khối Đông Âu và Liên Xô cũ

DR

Thụy My

RFI

Sự kiện Nga sáp nhập Crimée làm lãnh thổ của mình đã dội một gáo nước lạnh vào các nước Liên Xô cũ, nơi mà Tổng thống Nga nhận được rất ít sự ủng hộ chính thức. Những quốc gia có vấn đề với các phe ly khai được Nga hỗ trợ thì lên án, còn những nước khác giữ thái độ im lặng quan sát một cách thận trọng.

Hôm thứ Tư 19/03/2014, ông Guiorgui Margvelachvili, Tổng thống Gruzia – quốc gia thuộc Liên Xô cũ nằm ở phía nam Kapkaz và thân phương Tây – đã tuyên bố : « Các sự kiện ở Ukraina là mối đe dọa không chỉ cho sự ổn định trong khu vực, mà còn cho mọi trật tự thế giới ».

Tháng 8/2008, Gruzia đã nếm mùi trận chiến năm ngày với Nga, sau đó điện Kremli công nhận Nam Ossetia độc lập cùng với một lãnh thổ ly khai khác là Abkhazia, và triển khai hàng ngàn binh lính. Tbilissi và các nước phương Tây tố cáo một sự chiếm đóng trên thực tế.

Về phần chính quyền của hai lãnh thổ ly khai này, được Matxcơva chống lưng và không được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, đã vỗ tay hoan nghênh việc Nga sáp nhập Crimée, sau khi kiểm soát được bán đảo này bằng các lực lượng thân Nga và tổ chức cuộc trưng cầu dân ý hôm 16/3.

Moldova, quốc gia thuộc Liên Xô cũ với đa số dân nói tiếng Rumani, nằm giữa Rumani và Ukraina, cho biết rất quan ngại kịch bản Ukraina sẽ lặp lại trên lãnh thổ nước mình. Tại phần đất phương Đông của Moldova là Transnistria, cư dân hầu hết là người Nga và Ukraina. Vùng này đã ly khai, với sự ủng hộ của Nga, sau cuộc chiến tranh năm 1992 – một năm sau khi Liên Xô sụp đổ, nhưng không được bất kỳ một quốc gia nào công nhận.

Tổng thống Moldova, Nicolae Timofti tuyên bố: « Có quá nhiều cái chung giữa các sự kiện tại Crimée và tình hình ở Transnistria. Chúng tôi có những thông tin, theo đó có những sự việc cụ thể được tiến hành nhằm gây bất ổn tình hình ».

Chính quyền Nga hôm thứ Năm 20/3 họp về vấn đề « hỗ trợ cho Transnistria ». Cuộc hội nghị này đã được Phó thủ tướng Nga Dimitri Rogozine loan báo từ hôm thứ Ba, Phó thủ tướng Nga lên án nước Ukraina láng giềng đã « quyết định phong tỏa Transnistria trên thực tế ».

Hôm qua tại Washington, Tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen khẳng việc Matxcơva can thiệp vào Crimée nằm trong một « chiến lược toàn cầu » của Nga.

Tổng thống Noursoultan Nazarbaiev của Kazakhstan – đất nước Trung Á giàu tài nguyên dầu khí và là một trong những đối tác quan trọng nhất của Nga, mà vùng thảo nguyên là nơi đặt sân bay vũ trụ Baikonour và 26% dân số là người Nga – đã giữ im lặng hoàn toàn.

Nhà phân tích Konstantin Kalatchev, trưởng nhóm chuyên gia chính trị khẳng định : « Kazakhstan tỏ ra ngoan ngoãn, chứng tỏ mình vẫn là một đối tác của Nga nhưng tại các vùng mà dân cư người Nga và người Kazakhstan tương đương nhau, hay dân Nga chiếm đa số, các tiến trình nhằm đảo ngược tỉ lệ này đang được tiến hành ».

Một đối tác tầm cỡ khác là Belarus, đất nước có chế độ độc tài nằm kề Liên hiệp châu Âu, tỏ ra hết sức thận trọng. Trong thông báo hôm qua, Minsk cho biết chỉ muốn tạo « mọi nỗ lực cần thiết để cho quan hệ giữa Ukraina và Nga lại trở nên quan hệ anh em và láng giềng tốt đẹp ».

« Làm thế nào thoát khỏi được một ‘người bạn’ như thế ? » – nhà phân tích chính trị Andrei Klimov tự hỏi. Theo dự đoán của ông, một cuộc trưng cầu dân ý về việc sáp nhập Belarus vào Nga sẽ diễn ra trước năm 2015.

Nga, Belarus và Kazakhstan vào năm 2010 đã thành lập Liên hiệp Thuế quan, mà đến năm 2015 sẽ chuyển thành Liên minh Kinh tế Âu-Á. Đến tháng 9/2013 có thêm Armenia tham gia. Theo ông Klimov : « Nếu Nga cứ tiếp tục chính sách hiện nay, thì coi như đặt dấu chấm hết cho Liên minh Âu-Á ».

Rốt cuộc, sự ủng hộ lại đến từ Tổng thống Armenia Serge Sarkissian. Ông này cho rằng cuộc trưng cầu dân ý ở Crimée là « một ví dụ mới về quyền tự quyết của một dân tộc ».

Láng giềng của Armenia là Azerbaijan cũng đang có tranh chấp lãnh thổ, và cũng muốn giữ hòa khí với Nga nên tỏ ra kín tiếng. Tại Trung Á, các nước Tuskmenistan, Uzbekistan và Tadjikistan đều giữ im lặng. Còn Kirghistan, ban đầu không thừa nhận tổng thống thân Nga bị lật đổ ở Ukraina, đã đợi mất bốn ngày cho đến hôm nay mới chịu nhìn nhận cuộc trưng cầu dân ý ở Crimée là một « thực tế khách quan ».

 

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới
March 20, 2014

nguoi-viet.com


VATICAN CITY (NV)
Tạp chí Fortune hôm Thứ Năm liệt kê Ðức Giáo Hoàng Francis đứng đầu danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên theo TODAY.com, Tổng Thống Barack Obama nằm ngoài danh sách này.

Cựu Tổng Thống Bill Clinton đứng hạng năm trong danh sách qua hoạt động “hăng say và không ngừng nghỉ” cho nhiều mục tiêu.

Ðức Giáo Hoàng Francis, vừa được tạp chí Fortune xếp đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới. (Hình: Franco Origlia/Getty Images)

Fortune cho biết qua một văn bản: “Tổng Thống Obama không bị loại khỏi danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại trên thế giới.”

Tạp chí này thêm rằng, năm nay, ông Obama không đạt được địa vị của 50 cá nhân xuất chúng, chỉ vì ông không đủ tiêu chuẩn lọt vào danh sách này, dành cho những người từng chứng tỏ khả năng lãnh đạo hiếm hoi trong nhiều lãnh vực, hoặc từng chứng tỏ một quá trình lãnh đạo lâu dài.

Ðức Giáo Hoàng Francis được xếp hạng cao nhất qua phong cách vốn gây được sự chú ý và khâm phục chỉ mới trong một năm, hơn hẳn bất kỳ vị tiền nhiệm nào trong suốt nhiều thập niên.

Vừa đánh dấu một năm lên ngôi vị Giáo Hoàng, ngài đã góp tay giúp làm sạch vụ tai tiếng tiền bạc của ngân hàng Vatican, và quan tâm đến vụ lạm dụng tình dục trẻ em của giáo hội.

Ngài cũng tạo một phong thái nổi bật mới qua mẫu mực khiêm cung, theo Fortune, điều chỉ có nơi các lãnh tụ vĩ đại.

Vài tháng trước đây, tạp chí Time cũng xếp hạng Ðức Giáo Hoàng Francis là nhân vật nổi bật nhất trong năm. (TP)

Xin xem thêm:

Tạp chí Fortune: Đức Phanxicô là “Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất Thế Giới” (Vietcatholic.net)

 

Tiếp tục tìm kiếm máy bay mất tích

Tiếp tục tìm kiếm máy bay mất tích

Thứ sáu, 21 tháng 3, 2014

Bốn phi cơ quân sự của Úc, Mỹ và New Zealand đang tham gia tìm kiếm

Cuộc kiếm tìm quốc tế chiếc máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines tại phía nam Ấn Độ Dương được tiếp tục trong ngày thứ hai.

Bốn phi cơ quân sự đang tham gia tìm kiếm chiếc máy bay mà khi mất tích có 239 người trên khoang.

Các hình ảnh vệ tinh được công bố hôm thứ Năm cho thấy các vật thể có thể liên quan tới chiếc máy bay này tại phía nam Ấn Độ Dương.

Tuy nhiên, nhà chức trách nói thời tiết xấu đã cản trở nỗ lực tìm kiếm và phải dừng tay khi đêm xuống.

Bốn chiếc máy bay quân sự, trong đó có hai chiếc Orion của Không lực Hoàng gia Australia, đang tham gia kiếm tìm, theo thông cáo của Cục An toàn Hàng Hải Australia (Amsa).

Cùng với đội máy bay này là các tàu biển, tìm trong phạm vi rộng khoảng 23.000 km, cách thành phố Perth của Úc 2.500km về phía tây nam.

Chuyến bay MH370 từ Kuala Lumpur đi Bắc Kinh biến mất hôm 8/3.

Thoạt tiên nó mất liên lạc với kiểm soát không lưu, sau đó biến mất khỏi radar.

Vô cùng tồi tệ

Bốn máy bay trinh sát và sáu tàu biển đang tìm kiếm trong khu vực rộng lớn ở miền nam Ấn Độ Dương, nhưng chưa đạt được kết quả gì vào hôm thứ Năm.

Hai chiếc Orion là của Úc còn hai chiếc kia là của Mỹ và New Zealand.

Cơ trưởng của một trong hai chiếc AP-3C Orion khi quay trở lại căn cứ từ khu vực tìm kiếm cho hay rằng thời tiết tại nơi đó “vô cùng tồi tệ”, sóng to và gió lớn.

Sáng thứ Năm, Bộ trưởng Giao thông Malaysia Hishammuddin Hussein đã mô tả việc phát hiện ra các mảnh vỡ trên hình ảnh vệ tinh hôm 16/3 là “manh mối có thể tin được”.

Chính quyền Úc cho hay vật thể lớn nhất có thể dài tới 24m.

Một số địa điểm phát hiện ra các vật thể có khả năng là mảnh vỡ máy bay đã được điều tra kể từ khi chiếc máy bay mất tích nhưng không mang lại kết quả gì.

Các nhà điều tra cũng xác định hai khu vực hành lang tìm kiếm, một ở phía bắc và một ở phía nam, được cho là máy bay có thể bay tới trong khoảng thời gian bảy tiếng đồng hồ từ khi cất cánh.

Điều này dựa vào các tín hiệu yếu ớt mà máy bay phát tới một vệ tinh mỗi giờ sau khi hệ thống liên lạc đã bị tắt.

Malaysia nói đã huy động 18 tàu, 29 máy bay và sáu trực thăng đi theo tàu để tìm kiếm trong cả hai khu vực.