Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Nguyễn Hưng Quốc

11.02.2013

nguồn: VOA

Tôi có cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đã khá lâu nhưng mấy ngày vừa rồi mới có thì giờ để đọc. Ấn tượng chung: Thích.

Thích nhất là về tư liệu. Đã có nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết
về Việt Nam sau năm 1975 nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào bao quát nhiều khía
cạnh và dồi dào tư liệu đến như vậy. Các cuốn sách khác, cho đến nay, dưới hình
thức hồi ký hay biên khảo, thường chỉ tập trung vào một lãnh vực và từ một góc
độ cụ thể nào đó. Bên Thắng Cuộc, ngược lại, hầu như đề cập đến mọi góc
cạnh lớn, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ tổ chức
chính quyền tại Sài Gòn sau năm 1975 đến các chiến dịch đánh tư sản, các trại
cải tạo, phong trào vượt biên, các nỗ lực “xé rào” về kinh tế, chính sách đổi
mới, chiến tranh với Campuchia cũng như với Trung Quốc và các cuộc tranh giành
quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản. Ở từng vấn đề, Huy Đức đều nêu lên thật
nhiều chi tiết. Các chi tiết ấy thuộc hai loại chính: Một, lời kể của các chứng
nhân được thu lượm qua các cuộc phỏng vấn hoặc qua các hồi ký – đã hoặc chưa
xuất bản – của họ; và hai, các tài liệu đã được công bố đây đó, bằng tiếng Việt
cũng như bằng tiếng Anh. Nguồn tài liệu thứ nhất được Huy Đức thực hiện với tư
cách một nhà báo; nguồn thứ hai, với tư cách một nhà nghiên cứu. Tôi cho sự kết
hợp giữa hai tư cách này là mặt mạnh nhất của Huy Đức đồng thời cũng là ưu điểm
chính của cuốn Bên Thắng Cuộc: Thường, các nhà báo Việt Nam chỉ “tác
nghiệp” theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên những gì mình nghe kể hoặc
quan sát được; còn các nhà nghiên cứu thì lại thiếu thực tế, do đó, hoặc chỉ
xào nấu từ các cuốn sách khác hoặc phải sa vào tư biện, tệ hại hơn nữa là tư
biện kiểu Việt Nam: cứ lải nhải những luận điệu rặt mùi tuyên truyền, tức những
luận điệu ai cũng biết, hơn nữa, biết là sai.

Trong Bên Thắng Cuộc, nguồn tài liệu từ sách vở chỉ có tính chất bổ
sung, chủ yếu để cung cấp số liệu và mở rộng kích thước lịch sử, từ đó, tăng
tính thuyết phục cho những vấn đề được đề cập. Ví dụ, nói về cuộc họp mặt với
khoảng 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội của Nguyễn Văn Linh vào ngày 6 và 7
tháng 10 năm 1987, Huy Đức quay trở lại với thời Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc xa
hơn nữa, thời Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa” năm 1943, thậm chí, một
chút, về lịch sử báo chí Việt Nam trước đó. Nói về kinh tế thị trường (lần đầu
tiên được đưa vào các văn kiện Đảng là năm 1991), anh quay trở lại vấn đề “lược
sử kinh tế tư nhân” ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt, đầu thế kỷ 20, dưới
thời Pháp thuộc. Nói về các chính sách đối với người Hoa vào những năm 1978-79,
anh quay lại quan hệ giữa Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc) với Trung Quốc trong
Hiệp định Geneve năm 1954 cũng như trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc thời
1954-75, bao gồm cả chuyện Hoàng Sa năm 1974, v.v.. Những tài liệu này, thật
ra, không mới, nhưng chúng được trình bày một cách gọn ghẽ, sáng sủa và mạch
lạc, làm cho vấn đề có thêm bề dày của lịch sử.

Nhưng mặt mạnh nhất của Huy Đức là ở tư cách nhà báo. Không những chỉ là người
làm báo lâu năm, anh còn có ba đặc điểm mà không phải nhà báo kỳ cựu nào cũng
có: Một, quan hệ rộng; hai, có tầm nhìn dài; và, ba, có cách làm việc khoa học.

Tôi gặp Huy Đức một lần ở Hà Nội, hình như là vào cuối năm 2002 hay đầu năm
2005 gì đó. Buổi sáng, tôi đang ngồi uống cà phê với nhà thơ Phan Huyền Thư và
nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì anh và nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đến nhập bọn. Phạm Xuân Nguyên giới thiệu Huy Đức với tôi: “nhà báo, đang làm ở tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Lúc ấy, Huy Đức chưa có Osin blog, chưa có các bài bình
luận chính trị được phổ biến rộng rãi trên internet, cho nên, thú thật, tôi
không hề biết anh, kể cả cái tên. Mà Huy Đức cũng rất ít nói. Hôm ấy, anh chỉ
ngồi nghe bọn tôi nói hươu nói vượn về chuyện văn chương và cười. Đến lúc Phạm
Xuân Nguyên đọc một số bài ca dao mới chế giễu giới lãnh đạo Việt Nam, trong
đó, có cả Hồ Chí Minh, cả bọn cười ngất, riêng Huy Đức thì lôi trong túi ra một
cuốn sổ tay nhỏ và đề nghị Nguyên đọc lại, chầm chậm, cho anh chép. Sau đó,
trong suốt buổi nói chuyện, cứ hễ bắt gặp một câu gì hay hay, một chi tiết gì
thú vị, anh lại lôi sổ tay ra chép. Cung cách làm việc của anh khiến tôi để ý.
Và nhớ mãi.

Nhiều người trong giới nhà báo có ưu điểm là biết rộng nhưng phần lớn lại mắc
phải khuyết điểm là sa đà trong các sự kiện có tính chất giai thoại vụn vặt,
cuối cùng, chỉ viết được những bài báo ngăn ngắn, đầy tính thời sự, để được đọc
ngày hôm trước và bị quên lãng ngay vào ngày hôm sau. Huy Đức, khi theo dõi và
ghi chép các tin tức hằng ngày, đã có tham vọng sử dụng cho một bức tranh toàn
cảnh về sinh hoạt chính trị Việt Nam thời anh đang sống. Cuốn Bên Thắng Cuộc,
gồm hai tập, “Giải phóng” và “Quyền bính”, như anh tiết lộ trong lời nói đầu,
được hình thành trong 20 năm, chính là kết quả của tham vọng ấy.

Không phải nhà báo nào cũng có quen biết nhiều, đặc biệt trong giới lãnh đạo,
như Huy Đức. Ở Việt Nam, để có được những quan hệ rộng rãi như thế, không những
cần có tính cách thích hợp (quảng giao) mà còn có cả yếu tố “nhân thân” nữa:
Sinh trưởng ở miền Bắc, vốn là sĩ quan, từng làm việc ở Campuchia với tư cách
chuyên gia quân sự trong hơn ba năm trước khi về làm báo, anh có đủ điều kiện
để được tin cậy. Chính vì thế, anh được báo Tuổi Trẻ giao trách nhiệm tường
thuật các kỳ họp Quốc Hội, ở đó, anh có thể, ở “những thời điểm nóng bỏng
nhất”, “vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan
Văn Khải” hoặc “đến nhà riêng, văn phòng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng
bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn”.  Trong “Mấy lời của tác giả”, anh cho
biết anh đã tiến hành “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”; và theo “Lời cám ơn”, chúng
ta được biết, trong số những người được anh phỏng vấn, ngoài các tên tuổi nêu
trên, còn có Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội
Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, v.v.. Cả trăm người. Toàn những người lãnh đạo ở bậc cao nhất trong nước. Ngoài ra, anh còn phỏng vấn vợ họ, con họ và các
thư ký riêng của họ nữa.

Chắc chắn không có một nhà báo hay nhà biên khảo nào ở hải ngoại, kể cả người
ngoại quốc – vốn vừa ít bị nghi ngờ vừa được các trung tâm nghiên cứu lớn tài
trợ để có thể bỏ ra năm bảy năm thu thập tài liệu cho một cuốn sách – có thể
tiếp cận được đến chừng ấy người trong giới lãnh đạo Việt Nam. Ở trong nước,
làm được điều ấy, cũng không phải dễ. Nhìn từ góc độ xuất bản, có lẽ Huy Đức là
người đầu tiên. Điều này trở thành một thế mạnh đầu tiên của cuốn sách: Đó là
chuyện kể từ những người trong cuộc của “bên thắng cuộc”. Tính chất “trong
cuộc” ấy đã tạo nên những đặc trưng về thể loại và thẩm mỹ của cuốn sách.

Trong cái gọi là đặc trưng thẩm mỹ ấy, tôi chỉ xin tập trung vào một điểm: sự
hấp dẫn.

Phải nói ngay: hiếm có cuốn sách về chính trị nào hấp dẫn như cuốn Bên Thắng
Cuộc
. Điều đó có thể thấy qua những tiếng ồn nó gây ra trong mấy tháng vừa
qua. Lâu lắm rồi, giới cầm bút Việt Nam hầu như hoàn toàn bất lực trong việc
gây ồn. Hầu hết sách báo được xuất bản ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc
biệt ở hải ngoại, đều rơi vào im lặng. Không phải chỉ là chuyện hay hay dở. Mà
chủ yếu ở tâm lý quần chúng: dửng dưng. Cuốn Bên Thắng Cuộc, ngược lại,
ngay từ lúc mới ra mắt ở hải ngoại, là đã gây ồn ào ngay. Kẻ bênh người chống,
bên nào cũng xôn xao và lên tiếng ỏm tỏi trên mọi diễn đàn, từ trên giấy đến
trên mạng. Những tiếng ồn ấy khiến cả những người chưa đọc cuốn sách, hoặc có
khi, không có ý định đọc cuốn sách, cũng quan tâm, thậm chí, như ở California,
xuống đường biểu tình đòi… đốt sách!

Bên Thắng Cuộc hấp dẫn thật. Đọc, chúng ta biết được rất nhiều
chuyện, từ những chuyện lớn liên quan đến chính sách đến những chuyện nhỏ, có
khi nhí nhách nữa, liên quan đến đời sống hàng ngày của một số người. Lớn, ví
dụ, những toan tính đằng sau các chính sách hay chiến dịch có ảnh hưởng đến
sinh mệnh cả hàng chục triệu người; những thay đổi trong tính cách của Lê Duẩn:
từ một cán bộ hay hy sinh cho người khác đến một lãnh tụ chuyên quyền và độc
đoán; trong thái độ của Trường Chinh: từ một người giáo điều và bảo thủ đến một
người đi đầu trong phong trào đổi mới; trong chủ trương của Nguyễn Văn Linh: từ
một người đổi mới đến một người phản-đối-mới. Cũng có thể xem là lớn mối quan
hệ giữa các lãnh tụ với nhau, như giữa Lê Duẩn với Hồ Chí Minh, Trường Chinh,
Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ; giữa Nguyễn Văn Linh với Võ Văn Kiệt, những chi
tiết liên quan đến cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn vào tháng 12 năm 1986
vốn, theo lời Huy Đức, bị “lịch sử phi chính thống […] xếp vào hàng nghi án”
(“Giải phóng”- GP, tr. 151)… Còn nhỏ thì nhiều hơn, có khi lôi cuốn người đọc
hơn, chẳng hạn, chuyện vào ngày 30/4/1975, trong Dinh Độc Lập không hề có chiếc
máy ghi âm nào để thu lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh (GP, tr. 23);
chuyện các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên vào chiếm Dinh không dám bước vào thang
máy vì thấy nó giống cái… hòm và họ sợ bị nhốt luôn trong đó (GP, tr. 22);
chuyện khuya ngày 5/7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị mệt, được đưa vào

bệnh viện Quân y 108 để cấp cứu, nhưng vừa đến nơi thì ông “phát ra một tiếng
kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”; mấy tiếng đồng hô sau, ông mất…
(“Quyền bính” – QB, tr. 64) Có một số chuyện không biết là lớn hay nhỏ, như
chuyện khi Hiệp định Geneva được ký kết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn
Bắc Việt, không hề biết sông Bến Hải nằm ở đâu (vì tất cả đều đã được Trung
Quốc quyết định giùm!) (GP, tr. 52); chuyện Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước, vốn
là thợ cơ khí, nhiều lúc rảnh và buồn quá, lật “chiếc xe đạp của ông ra sửa để
giết thời gian” (GP, tr. 120); chuyện Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng,
biết trước vụ tổng tấn công hồi Tết Mậu thân chỉ có một ngày (QB, tr. 67);
chuyện khi đón tiếp Tổng thổng Bill Clinton trong chuyến thăm Việt Nam năm
2000, “Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” (QB, tr. 137), v.v..

Nhiều chuyện có thể đã được người này người nọ kể đâu đó rồi. Nhưng theo chỗ
tôi biết, chưa có nơi nào các chuyện thuộc loại ấy được tập trung với mật độ
dày đặc như trong cuốn Bên Thắng Cuộc. Trang nào cũng đầy ắp chi tiết.
Có những chi tiết không dễ gì tìm được ở những nơi khác, ví dụ: Ở Sài Gòn,
trước tháng 4/1975, có bao nhiêu đảng viên Cộng sản nằm vùng? – 735 người! (GP,
tr. 27) Cũng ở Sài Gòn, sau tháng 4/1975, có bao nhiêu người ra trình diện để
“được đi học tập cải tạo”? – Có 443.360 người, trong đó, có 28 tướng, 362 đại
tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,
1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền,
và 9.306 người trong các đảng phái bị xem là “phản động’ (GP, tr. 29),
v.v..(Còn tiếp)

***

Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition” của
Bên Thắng Cuộc.

 

Toàn Văn Sứ Điệp Mùa Chay Năm 2013

Toàn Văn Sứ Điệp Mùa Chay Năm 2013

nguồn:Thanhlinh.net

Tin trong Đức Mến khơi dậy lòng Bác ái

“Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” (1
Ga 4, 16)

Anh chị em thân mến,

Cử hành Mùa Chay trong bối cảnh Năm Đức Tin cho chúng ta cơ hội quý giá để suy
niệm về mối tương quan giữa đức tin và đức ái: giữa tin vào Thiên Chúa – Thiên
Chúa của Đức Giêsu Kitô – và tình yêu, là hoa trái của Chúa Thánh Thần vốn
hướng dẫn chúng ta trên con đường dâng hiến cho Thiên Chúa và tha nhân.

1. Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa

Trong Thông điệp đầu tiên của mình, tôi đã đưa ra một vài suy tư về mối tương
quan gần gũi giữa hai nhân đức đối thần: đức tin và đức ái. Khởi đi từ một
khẳng định nền tảng của Thánh Gioan: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu
của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16). Tôi nhận
xét rằng: “Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức
hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người,
Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và một định hướng dứt
khoát.…Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. Ga 4,l0), nên tình yêu không còn
là một “giới luật”, nhưng là lời đáp trả cho hồng ân “tình
yêu” qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. (Thiên Chúa là Tình Yêu, số
1). Đức tin là một sự gắn kết cá nhân, bao gồm toàn thể khả năng của chúng ta,
với mạc khải tình yêu vô điều kiện và thương xót của Thiên Chúa, được mạc khải
trọn vẹn nơi Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là Tình yêu không chỉ hệ tại
ở con tim nhưng bao gồm cả lý trí: “Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con
đường đi đến tình yêu và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của
Người kết hợp sự hiểu biết, ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn
của tình yêu. Đây rõ ràng là một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không
bao giờ “kết thúc” và trọn vẹn được” (ibid., số 17). Vì thế, mọi Kitô
hữu, đặc biệt là những ai “lao tác cho đức ái”, cần đức tin vì “họ cần được
hướng dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này sẽ đánh thức
tình yêu trong họ và mở rộng con tim của họ cho tha nhân, đến độ tình yêu tha
nhân đối với họ không còn là một giới răn được thiết đặt tự bên ngoài, nhưng đó
là bước tiếp nối của đức tin, chính đức tin đó: hoạt động trong tình yêu
(ibid., 31a). Kitô hữu là những người được tình yêu Thiên Chúa khuất phục và do
đó, dưới tác động của tình yêu – “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (Caritas
Christi urget nos)
(2 Cr 5,14) – họ mở ra để yêu mến tha nhận một cách
trọn vẹn trong những việc làm cụ thể (Ibid, 33). Thái độ này chính yếu nảy sinh
từ việc ý thức mình được yêu, được tha thứ và thậm chí là được phục vụ bởi
Thiên Chúa, Đấng đã cúi mình để rửa chân cho các Tông đồ và đã trao hiến chính
mình trên Thập giá để đưa dẫn con người về với tình yêu Thiên Chúa.

“Đức tin chỉ cho chúng ta Thiên Chúa, Đấng đã ban Con của Người cho chúng ta và
ban cho chúng ta niềm xác tín bất khuất: Thiên Chúa là tình yêu! … Niềm tin, ý
thức tình yêu của Thiên Chúa tự tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu
trên thập giá, niềm tin đến phiên mình sẽ làm nảy sinh tình yêu. Tình yêu là
ánh sáng – cuối cùng là ánh sáng duy nhất – sẽ làm cho một thế giới đen tối
được sáng trở lại và ban cho chúng ta sự can đảm để sống và để hành động”
(Ibid., 39). Tất cả điều này giúp chúng ta hiểu rằng điều làm cho đời sống của
người Kitô hữu trở nên trổi vượt chính là vì “tình yêu được đặt nền tảng trên
đức tin và được nhào nặn bởi đức tin” (ibid., số 7).

2. Đức mến như một cuộc sống trong đức tin

Toàn thể đời sống Kitô hữu là một lời đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Lời đáp
đầu tiên là việc đón nhận đức tin, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng
kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta. Và tiếng xin
vâng của đức tin đánh dấu một sự khởi đầu cho một lịch sử chói sáng về tình bạn
với Thiên Chúa vốn đổ đầy và trao ban một ý nghĩa trọn vẹn cho toàn bộ đời sống
con người. Nhưng đối với Thiên Chúa, nếu chúng ta chỉ đơn thuần đón nhận tình
yêu nhưng không của Ngài thì không đủ. Ngài không chỉ yêu thương chúng ta, Ngài
còn muốn lôi kéo chúng ta đến với Ngài, để biến đổi chúng ta một cách sâu xa
đến nỗi như thánh Phaolô, chúng ta có thể thốt lên rằng: “Tôi sống, nhưng không
còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Khi chúng ta dọn chỗ cho tình yêu Thiên Chúa, thì chúng ta trở nên giống Ngài
và chia sẻ chính đức ái của Ngài. Nếu chúng ta mở lòng mình ra cho tình yêu ấy,
chúng ta cho phép Ngài sống trong chúng ta và làm cho chúng ta yêu mến Ngài,
trong Ngài và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Chỉ khi đức tin của chúng
ta “hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6), thì Thiên Chúa mới thực sự ở trong chúng ta
(xem 1 Ga 4,12).

Đức tin nhận biết chân lý và gắn chặt với chân lý (x. 1 Tm 2,4); đức ái là bước
đi trong chân lý (x. Ep 4,15). Nhờ đức tin, chúng ta đi vào mối tương quan tình
bạn với Thiên Chúa, qua đức ái, mối tình này được sống động và được dưỡng nuôi
(x. Ga 15,14). Đức tin làm cho chúng ta ôm ấp lệnh truyền của Thiên Chúa và của
Thầy; đức ái trao ban cho chúng ta niềm vui khi chúng ta thực hành lệnh truyền
ấy (x. Ga 13,13-17). Trong đức tin, chúng ta được sinh ra với tư cách là con
Thiên Chúa; với đức ái, chúng ta gìn giữ mối tình con thảo của chúng ta với
Ngài và trổ sinh hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22). Đức tin giúp chúng
ta nhận ra những quà tặng mà Thiên Chúa tốt lành và quảng đại tặng ban cho ta;
đức ái làm cho những món quà ấy trổ sinh hoa trái (x. Mt 15,14-30).

3. Mối liên kết bất khả phân ly giữa đức tin và đức ái

Trong ánh sáng này, rõ ràng chúng ta không thể tách rời hoặc đối nghịch giữa
đức tin và đức ái. Hai nhân đức đối thần này liên kết mật thiết với nhau, và
thật sai lầm khi đặt chúng trong một tương quan đối nghịch hay “biện chứng”.
Trái lại, chúng ta cũng cần tránh việc quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan
trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như coi thường những công
việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.
Trái lại, chúng ta cũng không nên quá phóng đại vị trí ưu việt của đức ái và
những hoạt động của đức ái, như thể là việc làm có thể thay thế đức tin. Một
đời sống thiêng liêng trưởng thành cần tránh hai thái cực trên, cần phải xa
tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động về luân lý
(moral activism).

Đời sống Kitô hữu hệ tại ở việc liên lỉ lên núi để gặp Chúa, để rồi “hạ sơn”,
tựa nương vào tình yêu và sức mạnh đã kín múc nơi Ngài, phục vụ anh chị em với
tình yêu của chính Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy lòng hăng say
rao giảng Tin Mừng và khơi dậy đức tin nơi người khác của các tông đồ liên kết
chặt chẽ với mối quan tâm đức ái trong việc phục vụ người nghèo (x. Cv 6,1-4).
Trong Giáo hội, chiêm niệm và hoạt động, trong một cách thức nào đó, được tượng
trưng bằng hình ảnh của Maria và Martha trong Tin Mừng, phải đồng tồn tại và bổ
túc cho nhau (x. Lc 10,38-42). Mối tương quan với Thiên Chúa phải là ưu tiên
hàng đầu, và sự chia sẻ của cải đích thực, theo tinh thần của Tin Mừng cần cắm
rễ sâu trong đức tin (Tiếp Kiến Chung, 25-04-2012). Thực tế, đôi lúc chúng ta
có xu hướng giản lược thuật ngữ “đức ái” xuống thành tình liên đới hay chỉ là
hoạt động trợ giúp nhân đạo đơn thuần. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là
công việc bác ái lớn nhất chính là việc truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là “sứ vụ
của Lời”. Không có hành động nào có tính bác ái hơn là hành động nuôi dưỡng tha
nhân bằng lời Chúa và sẻ chia với họ những Tin Vui của Phúc Âm, giới thiệu cho
họ đi vào mối tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng
tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất. Trong Thông điệp Phát Triển Các Dân
Tộc (Populorum Progressio), tôi Tớ Chúa, Đức Phao-lô VI viết rằng
việc công bố về Đức Giêsu Kitô là sự đóng góp đầu tiên và quan trọng nhất cho
sự phát triển. Chân lý căn bản về Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta
chính là việc sống và công bố tình yêu ấy, vì điều này sẽ giúp đời sống chúng
ta đón nhận tình yêu này và làm cho sự phát triển hội nhất của nhân loại và của
mỗi người trở nên khả thi (x. Tình Yêu Thiên Chúa, số 8).

Một cách thiết yếu, mọi thứ đến từ tình yêu và hướng về Tình yêu. Tình yêu
nhưng không của Thiên Chúa được tỏ cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng.
Nếu chúng ta vui vẻ đón nhận Tin Mừng với đức tin, chúng ta đang lãnh nhận để
đi với một tương tác trước hết và không thể tách rời với Thiên Chúa. Mối tương
quan này làm cho chúng ta “phải lòng với Tình Yêu”, và rồi, chúng ta sẽ ở lại
trong Tình Yêu, lớn lên và hân hoan loan báo về Tình yêu ấy cho người khác.

Liên quan đến mối tương quan giữa đức tin và việc làm của đức ái, một đoạn
trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô cung cấp cho chúng ta một tường thuật tốt nhất
về mối liên kết giữa hai nhân đức này: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng
tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của
Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.
Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Ðức
Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho
chúng ta” (2,8-10). Ở đây, chúng ta có thể thấy toàn bộ kế hoạch cứu độ khởi đi
từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài và từ sự tha thứ của Ngài được lãnh nhận nhờ
đức tin. Thế nhưng, sáng kiến của Thiên Chúa không hạn chế tự do và trách nhiệm
của chúng ta, trái lại, sáng kiến này làm cho chúng trở nên chân thực và hướng
chúng đến công việc của đức ái. Đây không phải là kết quả của những nỗ lực của
chúng ta, để rồi chúng ta phải hãnh diện, nhưng chúng sinh ra từ đức tin và
tuôn trào từ ân sủng mà Thiên Chúa đã trao ban một cách rất phong phú. Đức tin
không có việc làm tựa như cây không trổ sinh hoa trái: hai nhân đức này bao hàm
trong nhau. Qua những thực hành truyền thống của đời sống Kitô hữu, Mùa Chay
mời gọi chúng ta biết dưỡng nuôi đức tin của mình bằng cách chú tâm, siêng năng
lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, và đồng thời lớn lên trong đức ái
và tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân qua những việc làm cụ thể như ăn
chay, đền tội và làm việc bố thí.

4. Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến

Như mọi quà tặng của Thiên Chúa, đức tin và đức ái có nguồn gốc nơi hoạt động
của cùng một Chúa Thánh Thần ( x. 1Cr 13); Thần Khí ngự trong chúng ta và giúp
chúng ta thưa lên rằng “Abba, Cha ơi” (Gl 4,6) và chính Ngài cũng làm chúng ta
tuyên xưng: “Đức Giêsu là Chúa!” (1 Cr 12,3) và “Maranatha” (1 Cr 16,12; Kh
22,20).

Đức tin, như một quà tặng và một lời đáp trả, giúp chúng ta nhận biết chân lý
của Đức Giêsu Kitô như là Thiên Chúa nhập thể và chịu đóng đinh khi hoàn toàn
vâng phục Thánh ý Cha và lòng thương xót vô biên dành cho con người; đức tin
ghi khắc vào con tim và tâm trí chúng ta một niềm xác tín vững chắc rằng chỉ có
Tình Yêu đó mới có thể chiến thắng sự dữ và cái chết. Đức tin cũng mời gọi
chúng ta hướng về tương lai với nhân đức hy vọng, trong sự mong chờ đầy tin
tưởng vào cuộc vinh thắng của Đức Kitô sẽ được viên mãn. Về phần mình, đức ái
thúc giục chúng ta đi vào tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Giêsu
Kitô và làm cho chúng ta đi vào tình yêu tự hiến và hoàn hảo của Đức Giêsu dành
cho Chúa Cha và cho anh chị em mình một cách cá vị và sống động. Bằng cách đổ
đầy tình yêu này, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên những kẻ chung phần
trong tình yêu con thảo của Đức Giêsu dành cho Thiên Chúa và tình yêu huynh đệ
đối với tha nhân (Rm 5,5).

Mối tương quan giữa hai nhân đức này tựa như mối tương quan giữa hai bí tích
nền tảng của Giáo hội: Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Bí tích Rửa tội
(bí tích đức tin – sacramentum fidei) đến trước bí tích Thánh Thể
(bí tích đức ái – sacramentum caritatis). Nhưng bí tích Rửa tội là
sự chuẩn bị của bí tích Thánh Thể, và bí tích Thánh Thể giúp người Kitô hữu đi
trọn hành trình của mình. Cũng vậy, đức tin đến trước đức ái nhưng đức tin chỉ
trở nên chân thực nếu đạt đến cực điểm nhờ đức ái. Mọi sự khởi đi từ việc đón
nhận đầy khiêm hạ của đức tin (biết rằng tôi được Thiên Chúa yêu), nhưng đức
tin phải đạt đến chân lý là đức ái (biết yêu Thiên Chúa và tha nhân), vốn tồn
tại mãi mãi và là sự viên mãn của tất cả các nhân đức (1 Cr 13,13).

Anh chị em thân mến, trong Mùa Chay này, như là dịp chúng ta chuẩn bị kỷ niệm
biến cố Tử Nạn và Phục sinh – một biến cố mà tình yêu Thiên Chúa đã cứu độ thế
giới và chiếu tỏa ánh sáng vào lịch sử – tôi ước mong rằng tất cả anh chị em có
thể dùng thời gian này để thắp lại ngọn lửa đức tin vào Đức Giêsu. Nhờ đó chúng
ta có thể cùng với Ngài đi vào tình yêu đầy năng động dành cho Cha, cho anh chị
em mình, những người mà chúng ta gặp gỡ trong đời sống của chúng ta. Vì lý do
này, tôi dâng lời nguyện này lên Chúa, và nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho
mỗi người và cho mỗi cộng đoàn!

Từ Vatican, 15 tháng 10 năm 2012

Nguyễn Minh Triệu sj

Vatican sáng lòa tia chớp

Vatican sáng lòa tia chớp

Chỉ vài giờ sau khi Đức Giáo hoàng Benedict bất ngờ tuyên bố sẽ từ chức, một tia chớp đã lóe lên trên đỉnh mái vòm thánh đường St Peter.

Tia chớp lóe lên vào lúc trước 6 giờ chiều, giờ địa phương. St Peter, nằm trong Vatican City, được xem là một trong những địa điểm Thiên chúa giáo thiêng liêng nhất.

httpv://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/02/130212_pope_lightening.shtml

Starbucks khai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam

Starbucks khai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam

Cửa hàng Starbucks đầu tiên ở Việt Nam (Ảnh: Lan Vy)
06.02.2013
Công ty cà phê Starbucks nổi tiếng của Mỹ đã mở một cửa hàng đầu tiên ở Việt Nam, một thách thức đối với công ty tại quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu trên thế giới trong năm 2012, một đất nước đã có nhiều thương hiệu cà phê, nhưng cũng có nhiều khách tiêu thụ thức loại nước uống này.
Hàng trăm người hôm 1/2 đã xếp hàng trước cửa hàng Starbucks đầu tiên ở thành
phố HCM để chờ đến lượt thưởng thức thương hiệu cà phê nổi tiếng của Mỹ.
Một khách hàng trẻ của Starbucks tại Sài Gòn, chị Lan Vy, cho biết:
“Rất là đông vì ai cũng háo hức được vô uống. Phải xếp hàng từ ngoài vào
trong để được tới cầm cái ly Starbucks. Rất là hay khi được uống Starbucks tại
Việt Nam.”
Chị Vy nói dù phải xếp hàng rất lâu để mua được một ly cà phê Starbucks nhưng
cũng đáng công vì hương vị thơm ngon của sản phẩm, cung cách phục vụ ân cần và
tác phong kinh doanh chuyên nghiệp của nhãn hiệu này:
“Có người bảo không biết có đáng đến nỗi trưa nắng mà phải xếp hàng để uống
cà phê Starbucks hay không. Nhưng mình thấy OK vì được uống món mình thích mà
phải xếp hàng thì cũng OK thôi, đâu có gì. Người Việt Nam hầu như uống cà phê
dạng phin đậm đặc. Cho nên, những người không hợp với cà phê đậm đặc như Vy sẽ
thích uống loại pha chế như của Starbucks. Ở Việt Nam, những quán cà phê sân
vườn một ly cà phê đã hơn 2 đô la rồi. Một ly Starbucks hiện giờ có giá từ
75.000 đến 100.000, tức từ 3,5 đến 5 đôla. Nhiều người nói rằng không phù hợp
với túi tiền của người dân Việt Nam. Nhưng mà đâu phải ngày nào mình cũng uống
cà phê 2, 3 lần. Mình sẽ giới thiệu với bạn bè mình thứ nhất về cung cách phục
vụ, thứ hai về nước uống của Starbucks. Những cái gì mới và ngon thì ai cũng
muốn thử cả.”
Starbucks cho biết công ty sẽ “duy trì truyền thống đặc biệt và khẩu vị uống cà
phê của người Việt Nam.”
Trong vòng mấy năm qua, Starbucks cố gắng mở rộng thị trường ở Trung Quốc và
các nước châu Á Thái Bình Dương.
Công ty có kế hoạch mở gần 4.000 cửa hàng cà phê trước cuối năm  2013.

Phản ứng của thế giới tôn giáo và chính trị về sự kiện ĐGH Bênêđictô XVI từ chức

Phản ứng của thế giới tôn giáo và chính trị về sự kiện ĐGH Bênêđictô XVI từ chức

Đăng bởi lúc 7:37 Sáng 12/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (12.02.2013) – Roma, Italia – Ngay sau khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đích thân loan báo ngài sẽ từ chức, thì các cơ quan truyền thông nhanh chóng đăng tải sự kiện này. Riêng truyền hình quốc gia Trung Quốc CCTV không đưa tin. Dưới đây là một vài lời phát biểu của các quan chức tôn giáo và chính trị Tây phương.

Cha Federico Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh nói, “ĐTC làm tất cả chúng ta ngạc nhiên”.

Đức Hồng y Angelo Sondano, Niên trưởng Hồng y Đoàn nói: “Đây thực sự là một tiếng sét giữa bầu trời thanh quang”.

Đức cha Wojciech Polakl, Thư ký HĐGM Ba Lan: “Sự từ chức của ĐTC làm tất cả chúng ta hết sức ngạc nhiên. Nhưng ĐGH đã suy nghĩ kỹ xem ngài có còn đủ sức khỏe để chu toàn sứ vụ của  người kế vị thánh Phê rô khi tuổi đã cao”.

Rabbi Yona Metzger, Giáo trưởng Do Thái giáo, phát biểu: “Dưới triều đại của ngài (ĐGH Bênêđictô XVI), quan hệ giữa Giáo hội và giáo trưởng Do Thái đã cải thiện rất nhiều. Tôi hy vọng xu hướng này sẽ được tiếp tục”.

Đức Tổng Giám Mục Léonard, HĐGM Bỉ: “Trước hết tôi muốn diễn tả lòng biết ơn đối với một trong những vị giáo hoàng sáng chói nhất trên phương diện tri thức và thần học trong 150 năm vừa qua. Đó là một trí tuệ mẫn tiệp, một tấm lòng khiêm
nhường, đặc biệt là khả năng hiểu biết, tinh thần tổng hợp nhưng cũng hài hước.
Bênêđictô XVI là mẫu người khác hẳn vị tiền nhiệm Gioan Phaolo II, chắc chắn
ngài không cảm thấy thoải mái trong đám đông, nhưng với ngài chúng ta có thể có
những cuộc trò chuyện riêng tư rất thú vị. Ngài là bạn tôi hồi xa xưa nhưng
chúng tôi rất hiểu nhau và tôi rất ngạc nhiên và vui mừng khi ngài được bầu làm
giáo hoàng năm 2005, mặc dù trước đó có những lời đồn đại bất công của một vài
người đối với ngài”.

Đức Tổng Giám mục Justin Welby, Giáo chủ Anh giáo, phát biểu: “Với tấm lòng trĩu nặng và với sự thông cảm hoàn toàn, chúng tôi hiểu quyết định từ chức giám mục Roma sáng nay của ĐGH Bênêđictô XVI, chức vụ mà ngài đã chu toàn bằng phẩm giá, bằng sự hiểu biết và bằng lòng can đảm lớn lao. Trong chuyến viếc thăm vương quốc Anh, ĐGH đã cho mọi người thấy một phần trong ơn gọi của sứ vụ giám mục Roma trên phương diện thực tiễn là làm chứng cho tầm ảnh hưởng hoàn vũ của Tin mừng và trở thành sứ giả mang niềm hy vọng trong lúc niềm tin Kitô giáo đang bị đặt vấn đề. Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho ĐGH trong khi về hưu, để ngài lòng trí ngài được bình an và chúng tôi phó thác cho Chúa Thánh thánh những ai có trách nhiệm bầu chọn người kế vị ngài”.

Ông Romana Prodi, cựu Thủ tướng Ý và cũng là cựu Chủ tịch Ủy Ban châu Âu nói: “Tôi cảm thấy vô cùng gần gũi với Đức Thánh Cha trong quyết định nghiêm trọng và khó khăn này. Trong lúc này tôi thấy cần thiết phải có bổn phận diễn tả lòng biết ơn của chúng ta, vì sự quyết định mới mẻ và bất ngờ của Đức Thánh Cha, góp phần mang lại một sự đổi thay sâu xa trong Giáo Hội”.

Mario Monti, đương kim Thủ tướng Ý nói: “Tôi hết sức bàng hoàng vì tin này. Tôi mới biết cách đây vài phút. Đấy là một tin “tuyệt đối”. Trả lời câu hỏi của các nhà báo về mối quan hệ của nước Ý với Vaticano, ông thủ tướng nói: “Tôi thực sự không muốn bình luận về một đề tài quan trọng và sâu sắc thế này trước khi hiểu biết các sự kiện”.

Giorgio Napolitano, Tổng thống Cộng hòa Ý: “Như thực tế chứng tỏ và như chúng
ta đã nhận biết là ĐTC đã rất mệt mỏi và khó có thể đảm đương chức vụ. Tôi tin
quyết định của ngài là một hành động cực kỳ can đảm và được thực hiện trong
tinh thần trách nhiệm. Gánh vác trên vai một nhiệm vụ đòi phải dân thân một
cách phi thường như chức vụ giáo hoàng cần phải cân nhắc, trường thọ nhưng
nhưng không phải luôn luôn trong điều kiện tương ứng với việc chu toàn được
nhiệm vụ”. ĐGH Bênêđictô đã có một hành động can đảm lớn lao và một sự quảng
đại lớn lao. Bản thân tôi hết sức kính trọng ngài”.

Pier Luigi Bersani, Tổng Thư ký của Đảng Dân chủ Ý phát biểu trên Radio
Montecarlo: “Đấy là một quyết định có tầm mức lịch sử. ĐGH Bênêđictô là một nhà
thần học lớn, đã dùng thần học để phục vụ Giáo hội. Quyết định từ chức của ngài
là một hành động độc đáo, đặt cơ sở cho tương lai”.

Ông Angelino Alfano, Thư ký Đảng Nhân dân vì Tự do Ý, phát biểu: “Tôi diễn tả lòng biết ơn sâu xa đối với những gì ĐGH đã thực hiện với quyền giáo huấn của ngài và đối với những gì ngài sẽ tiếp tục thực hiện trong tương lai”.

Bà Merkel, Thủ tướng Đức bày tỏ: “Lòng kính trọng sâu nhất đối với quyết định từ nhiệm của ĐGH vì lý do tuổi cao”. Bà cũng nói rằng “ĐGH là một trong những nhà tư tưởng tôn giáo quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài đã đưa ra quyết định từ chức là vì lợi ích của Giáo Hội và của các tín hữu trong Giáo Hội”.

Ông Francois Hollande, Tổng thống Pháp: “Đấy là một quyết định
đáng được kính trọng cách tuyệt đối. Tổng thống Cộng hòa Pháp đón chào quyết
định này của Đức Thánh Cha nhưng không có bình luận nào thêm về sự kiện trước
nhất thuộc về Giáo Hội. Đó là một quyết định nhân bản và là một quyết định gắn
kết với một ý chí cần phải được tôn trọng”.

Ông Barack Obama, Tổng thống Hoa Kỳ: “Nhân danh nhân dân Hoa Kỳ trên thế giới, Michelle và bản thân tôi muốn diễn tả lòng biết ơn và lời cầu nguyện của chúng ta dành cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Tôi đánh giá cao công việc mà chúng ta đã cùng nhau thực hiện 4 năm vừa qua, mà trong đó có một số chính sách, nhất là trong lãnh vực ngừa thai, đã tạo nên những va chạm với các tổ chức công giáo Hoa Kỳ. Giáo hội Công giáo đóng một vai trò chủ chốt tại Hoa Kỳ và trên thế giới và tôi muốn gửi những lời cầu chúc của tôi đối với những ai sắp tham dự bầu chọn người kế vị
ĐGH”

Ông Cameron, Thủ tướng Anh: “Tôi xin gửi lời chúc mừng đến ĐGH Bênêđictô XVI. Ngài đã làm việc không ngừng để củng cố mối quan hệ giữa Vatican với Vương quốc Anh. Chuyến viếng thăm Vương quốc Anh của ngài năm 2010 được ghi nhớ với lòng kính trọng và yêu mến”.

Ông Kris Peeters, Thủ tướng kiêm Tổng thống Bỉ diễn tả lòng “kính trọng
đối với quyết định của ĐGH Bênêđictô XVI”, muốn chuyển giao chức vụ cho người
kế vị “ngược với truyền thống”. Thời đại chuyển biến nhanh chóng này đòi hỏi
rất nhiều trên bình diện kinh tế, xã hội và “điều này cũng có giá trị đối với
những nhà lãnh đạo tinh thần”. Kris nhấn mạnh rằng “họ phải tìm được sự quân
bình chính đáng giữa đòi buộc chính thức và sự thích nghi, giữa truyền thống
của quá khứ và những thách thức của thời đại và những con người ấy phải có khả
năng hành động với niềm tin lớn lao, dựa trên một sức khỏe khả quan”.

Thăng Long, VRNs

Tổng hợp từ báo chí Tây phương

 

Video: Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị sáng Thứ Hai 11/2/2013

Video: Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị sáng Thứ Hai 11/2/2013

2/11/2013

Sáng nay thứ Hai 11/2/2013, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã tuyên bố thoái vị vì lý do sức khoẻ.

Dưới đây là lời tuyên bố của Đức Thánh Cha trong công nghị Hồng Y đặc biệt
diễn ra sáng thứ Hai 11/2/2013. Ngài nói bằng tiếng La Tinh
Các Hiền Huynh thân mến,
Tôi đã triệu tập các Hiền Huynh đến Công Nghị này, không chỉ để bàn về ba án phong Thánh nhưng còn là để trao đổi với các Hiền Huynh một quyết định rất quan trọng đối với đời sống của Giáo Hội. Sau nhiều lần tự vấn lương tâm trước mặt Chúa, tôi đã đi đến sự xác tín rằng năng lực của tôi, do tuổi cao, không còn phù hợp để cáng đáng đầy đủ sứ vụ Giáo Hoàng. Tôi biết rằng sứ vụ này, do bản tính siêu nhiên của nó, phải được thực hiện không chỉ bằng lời nói và việc làm, nhưng phải đi kèm với không ít những lời cầu nguyện và đau khổ. Tuy nhiên, trước một thế giới với quá nhiều những thay đổi nhanh chóng và đang rúng động bởi những vấn nạn liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin; để có thể lèo lái con thuyền của Thánh Phêrô và rao giảng Tin Mừng, cả năng lực của trí óc lẫn thể xác đều là cần thiết. Năng lực của tôi trong vài tháng qua, đã xấu đi đến mức mà tôi phải thừa nhận sự bất lực của tôi không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ được giao phó cho mình. Vì lý do này, và cũng nhận thức được mức độ
nghiêm trọng của hành động này, với hoàn toàn tự do, tôi tuyên bố thoái vị
khỏi sứ vụ của Giám Mục Roma, Người kế vị Thánh Phêrô, đã được giao phó cho tôi bởi các Hồng Y ngày 19 Tháng Tư năm 2005. Như thế, kể từ 20 giờ ngày 28 Tháng Hai năm 2013, Ngai Tòa Thánh Phêrô, sẽ được bỏ trống và một Mật Nghị Hồng Y s được triệu tập để bầu vị Giáo Hoàng bởi những vị có thẩm quyền.
Các Hiền Huynh thân mến,
Tôi chân thành cảm ơn tất cả anh em vì tình yêu và những công việc mà anh em đã ủng hộ tôi trong sứ vụ của mình và xin tha thứ cho tất cả các khiếm khuyết của tôi. Và bây giờ, chúng ta hãy ủy thác Giáo Hội cho sự chăm sóc của vị Mục Tử tối cao của chúng ta, là Chúa Giêsu Kitô, và khẩn cầu Mẹ Maria chí thánh của Ngài trợ giúp các Hồng Y Giáo Phụ với lòng ưu ái từ mẫu của Mẹ trong việc bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Liên quan đến bản thân mình, tôi cũng muốn tận tụy phục vụ Giáo Hội Thánh của Thiên Chúa trong tương lai thông qua một cuộc sống tận hiến cho việc chuyên tâm cầu nguyện.
Từ Vatican, ngày 10 tháng 2 năm 2013
+ BENEDICTUS PP XVI
Bản Anh Ngữ từ Phòng Báo Chí Tòa Thánh
Dear Brothers,
I have convoked you to this Consistory, not only for the three canonizations,
but also to communicate to you a decision of great importance for the life of
the Church. After having repeatedly examined my conscience before God, I have come to the certainty that my strengths, due to an advanced age, are no
longer suited to an adequate exercise of the Petrine ministry. I am well
aware that this ministry, due to its essential spiritual nature, must be
carried out not only with words and deeds, but no less with prayer and
suffering. However, in today’s world, subject to so many rapid changes and
shaken by questions of deep relevance for the life of faith, in order to
govern the bark of Saint Peter and proclaim the Gospel, both strength of mind
and body are necessary, strength which in the last few months, has
deteriorated in me to the extent that I have had to recognize my incapacity
to adequately fulfill the ministry entrusted to me. For this reason, and well
aware of the seriousness of this act, with full freedom I declare that I
renounce the ministry of Bishop of Rome, Successor of Saint Peter, entrusted
to me by the Cardinals on 19 April 2005, in such a way, that as from 28
February 2013, at 20:00 hours, the See of Rome, the See of Saint Peter, will
be vacant and a Conclave to elect the new Supreme Pontiff will have to be
convoked by those whose competence it is.
Dear Brothers,
I thank you most sincerely for all the love and work with which you have
supported me in my ministry and I ask pardon for all my defects. And now, let us entrust the Holy Church to the care of Our Supreme Pastor, Our Lord Jesus Christ, and implore his holy Mother Mary, so that she may assist the Cardinal Fathers with her maternal solicitude, in electing a new Supreme Pontiff. With regard to myself, I wish to also devotedly serve the Holy Church of God in the future through a life dedicated to prayer.
From the Vatican, 10 February 2013
BENEDICTUS PP XVI

Giáo Hoàng bất ngờ tuyên bố từ chức

Giáo Hoàng bất ngờ tuyên bố từ chức

thứ hai, 11 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Đức Giáo hoàng sẽ từ chức sau bảy năm cầm quyền

Đức Giáo hoàng sẽ từ chức vào cuối tháng này trong một diễn biến hoàn toàn bất ngờ, Vatican vừa xác nhận.

Dự kiến ngày Ngài từ nhiệm sẽ là 28 tháng 2, vào lúc 20:00.

Vatican tuyên bố việc chuyển giao chức vụ sẽ êm ả nhưng hiện chưa rõ việc bầu chọn tân giáo hoàng sẽ được tổ chức ra sao.

Lý do sức khoẻ

Vị Hồng y 85 tuổi chuyên về thần học trở thành Giáo Hoàng Benedict XVI hồi tháng Tư 2005, sau khi Giáo hoàng John Paul II qua đời.

Khi đó, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, vị giáo sư biết chơi đàn piano, đang định nghỉ hưu. Ngài nói Ngài chưa bao giờ muốn trở thành Giáo hoàng.

Lý do đằng sau việc từ chức đầy bất ngờ của Ngài vẫn chưa được nêu ra.

Ở tuổi 78, cựu Hồng y Joseph Ratzinger là một trong những vị tân giáo hoàng cao tuổi nhất trong lịch sử, khi được bầu chọn.

Từ mấy năm nay sức khoẻ của Đức Giáo hoàng người Đức đã sút giảm.

Vatican nói quyết định của Giáo hoàng thể hiện ‘lòng dũng cảm’

Hồi lễ Phục Sinh năm ngoái, báo chí đã đưa tin trông Ngài mỏi mệt, chắc là vì chuyến công du kéo dài tới Mexico và Cuba.

Anh trai Ngài từng nói Giáo hoàng Benedict, khi đó có dự định giảm công du nước ngoài vì lý do sức khỏe.

Hôm nay, 11/2, Vatican trích lời Giáo hoàng nói Ngài không còn đủ sức khoẻ để “hoàn toàn thực hiện sứ mệnh được ủy thác”.

Cũng vào Lễ Phục Sinh năm 2012, Ngài lên tiếng cảnh báo rằng loài người đang ‘mò mẫm trong bóng tối’.

Tuyên bố từ chức được Đức Giáo hoàng đưa ra bằng tiếng Latin, trong buổi họp các hồng y tại Vatican.

Tòa Thánh nói quyết định từ chức sẽ khiến vị trí Giáo hoàng bị bỏ trống cho tới khi một vị tân giáo hoàng được bầu chọn, dự kiến vào tháng 3, theo Reuters từ Rome.

 

Từ anh hùng đến bạo chúa

Từ anh hùng đến bạo chúa
07.02.2013
Ở Việt Nam, đảng Cộng sản thường hay nói: Họ là những người
có công trong việc giành độc lập cho đất nước từ tay thực dân Pháp vào năm
1945, bởi vậy, chỉ có họ mới xứng đáng giữ vai trò lãnh đạo đất nước, hơn nữa,
độc quyền lãnh đạo đất nước. Mỗi lần nghe những câu nói như vậy, tôi lại nhớ
đến các nhà độc tài ở châu Phi và châu Á: Hầu hết đều bắt đầu “sự nghiệp” tàn
phá đất nước của họ như những anh hùng!
Thì Pol Pot (1925-1998) cũng là một “anh hùng” của Campuchia đấy chứ? Ông đã
lãnh đạo đảng Cộng sản Campuchia lật đổ Norodom Sihanouk, “giải phóng” đất nước
của ông và có “công” biến Campuchia thành một nước “xã hội chủ nghĩa thực sự”.
Kết quả, ai cũng biết: thứ nhất, ông đã giết khoảng từ một triệu đến ba triệu
người, tức khoảng 25% dân số Campuchia; thứ hai, biến Campuchia suýt trở lại
thời kỳ đồ đá trong vòng ba năm; và cuối cùng, biến Campuchia thành thuộc địa
của Việt Nam, ít nhất trong vòng hơn 10 năm, từ 1978 đến 1989.
Muammar Muhammad Abu Minyar al-Gaddafi (1942-2011) cũng là một “anh hùng” của Libya, hơn nữa, có lúc, còn được xem là “anh hùng” của cả châu Phi đấy chứ? Ông
đã lật đổ được vua Idris, giải thể chế độ quân chủ, thành lập Cộng hòa Ả Rập
Libya với “định hướng” xã hội chủ nghĩa, tiến hành các cuộc “cách mạng bình
dân” và hỗ trợ các phong trào đấu tranh độc lập ở một số nước châu Phi. Kết
quả? Với Libya, kinh tế thì kiệt quệ, đối ngoại thì bị cô lập, đời sống dân
chúng thì vô cùng điêu đứng. Với bản thân ông thì bị thế giới nhìn như một con
chó điên, và cuối cùng, con chó điên ấy bị kéo lên từ ống cống để đền tội.
Dù sao Pol Pot lẫn Gaddafi cũng đều đã chết. Ở châu Phi hiện nay vẫn còn một số
“anh hùng” khác chưa bị đền tội. Trong số đó, “nổi tiếng” hơn cả là Robert
Mugabe ở Zimbabwe.
Sinh năm 1924, lúc Zimbabwe còn là một thuộc địa của Anh, Mugabe, cũng giống
như nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam, tham gia cách mạng từ nhỏ và cũng chịu đựng
cảnh bắt bớ và tù tội liên miên. Nhưng khác với giới lãnh đạo Việt Nam, ông rất
chịu khó học tập. Sau khi tốt nghiệp ngành Sư phạm, trở thành thầy giáo, ông
còn học, chủ yếu bằng cách hàm thụ, ở một số đại học ở Nam Phi và Anh, để lấy
thêm sáu cái bằng nữa, gồm: bằng Cử nhân về Quản trị và Cử nhân Giáo dục (từ
Đại học Nam Phi), Cử nhân Khoa học, Cử nhân Luật, Thạc sĩ Khoa học và Thạc sĩ
Luật (tất cả đều từ trường Đại học Mở rộng London). Trong số các bằng ấy, hai
bằng về luật được ông học trong thời gian ông còn ngồi trong nhà tù, từ 1964
đến 1974.
Từ thập niên 1960, Mugabe nổi lên như một anh hùng trong phong trào du kích
chống chính quyền da trắng của Ian Smith để giành độc lập cho nước ông. Những
án tù đày càng làm tăng uy tín của ông trong dân chúng. Ra khỏi nhà tù năm
1974, ông được bầu làm lãnh tụ Liên hiệp Quốc gia Phi châu Zimbabwe (ZANU),
cuối cùng, năm 1980, ông trở thành thủ tướng đầu tiên của Zimbabwe độc lập. Sau
đó, năm 1987, ông trở thành tổng thống. Từ đó đến nay, ông liên tục tái đắc cử
tổng thống: 1990, 1996, 2002 và 2008.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của ông, đất nước Zimbabwe ra sao?
Sau 30 năm chịu sự lãnh đạo “thiên tài” của Mugabe, Zimbabwe, từ một quốc gia
được xem là giàu có ở châu Phi đã biến thành một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới.  Tổng sản phẩm nội địa của Zimbabwe vào năm 2012 là khoảng 500 đô la trên đầu người; tỉ lệ thất nghiệp vào năm 2009 là 95%; trị giá một Mỹ kim vào năm 2008 là 430.000 (gần nửa triệu) đồng bạc Zimbabwe. Không có nước nào trên thế giới có đồng tiền bị mất giá nhanh như đồng bạc Zimbabwe. Ngay trước khi độc lập, một đồng Rhodesia (tên cũ của Zimbabwe) trị giá một nửa bảng Anh. Năm 1987, Zimbabwe in tiền riêng, thoạt đầu, một đồng Zimbabwe cao hơn một đô la Mỹ. Sau đó, đồng tiền cứ mất giá liên tục; mỗi lần quá mất giá, chính phủ lại in tiền mới; khi
tiền mới lại mất giá, họ lại in loại tiền khác. Cứ thế, liên tục.
Lạm phát ở Zimbabwe không được gọi là lạm phát. Mà là siêu lạm phát
(superinflation). Ở những nơi khác, lạm phát vài trăm, hay thậm chí, chỉ vài
chục phần trăm là đã thấy khủng khiếp. Ở Zimbabwe, ví dụ vào năm 2008, lạm phát lên đến hàng tỉ tỉ phần trăm! (Con số lạm phát chính xác vào tháng 11 năm 2008 là 79.600.000.000% (bảy mươi chín ngàn sáu trăm tỉ!) Có lúc cả tỉ đồng Zimbabwe không đủ để mua một ổ bánh mì. Để cứu vãn tình hình kinh tế, vì không ai còn tin tưởng vào đồng tiền Zimbabwe nữa, từ năm 2009, chính phủ chấp nhận đồng Mỹ kim là đồng tiền chính thức để mua bán khắp nơi. Đến lúc ấy lại nảy sinh một vấn đề khác: Vì vật giá ở Zimbabwe quá rẻ, mua cái gì cũng chỉ có mấy xu, do đó, nếu bạn cầm một tờ 5 đô la, chẳng hạn, người bán hàng sẽ không có tiền để thối lại. Đưa tờ một đồng, người ta cũng không có tiền cắc để thối lại.
Để thấy “công lao” của Mugabe, chúng ta có thể nhìn vào bản đồ biểu tổng sản phẩm  nội địa  của Zimbabwe từ năm 1980 đến năm 2005 dưới đây:

​​
Về phương diện y tế, tuy Zimbabwe có giảm tử suất của trẻ sơ sinh nhưng tuổi
thọ trung bình của người dân thì càng ngày càng giảm, từ 59.1 tuổi vào năm 1980
xuống còn 45.1 tuổi vào năm 2008.
Năm nay, Mugabe đã gần 90 tuổi. Báo chí tường thuật trong nhiều cuộc họp hay
hội nghị kể cả với các chính khách thế giới, ông ngồi ngủ gục ngon lành! Gần
đây, ông bị bệnh, phải sang Singapore chữa trị. Thế nhưng ông vẫn không có ý
định từ chức. Ông vẫn cho chỉ có ông mới xứng đáng để lãnh đạo đất nước. Rất
nhiều người đối lập bị ông giết chết; vô số người khác bị ông bỏ tù. Với bàn
tay sắt, ông chà đạp lên cả dân chủ lẫn nhân quyền, bất chấp sự phê phán và lên
án của quốc tế.
Tin mới nhất liên quan đến Zimbabwe: Đầu năm 2013, Bộ trưởng Tài chính Zimbabwe tuyên bố, sau khi trả tiền lương cho các công chức, trong quỹ của họ chỉ còn lại có hai trăm mười bảy đô la (217 dollars). Họ định sẽ tổ chức bầu cử trong
năm nay. Chi phí cho cuộc bầu cử dự định là khoảng 104 triệu. Bây giờ với cái ngân khố trống rỗng như vậy, họ lo là sẽ không thể tổ chức bầu cử được!
A! Ít ra Zimbabwe cũng còn nghĩ đến chuyện bầu cử!

HỌ ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ

HỌ ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.
nguon:Conggiaovietnam.net

Sau nhiều năm vì hoàn cảnh, hôm nay tôi được diễm phúc trở lại vùng đất Tây Nguyên – vùng đất tập trung khá nhiều anh em đang dõi bước cha anh phục vụ công cuộc truyền giáo cho anh chị em dân tộc thiểu số.

Đến Gia Lai, màn đêm buông xuống, hình ảnh thành phố thân thương ngày nào đang hiện dần trước mắt. Thay đổi khá nhiều bởi lẽ cuộc sống ngày càng đổi thay. Người anh tôi thăm viếng không ở gần thành phố cho lắm, chạy từ thành phố vào non đủ 50 cây số. Sau hơn một giờ, xe đưa hai anh em tôi vào đến buôn làng nơi anh đang phục vụ. Cảnh cũng quen quen nhưng phần nào đã đổi bởi lẽ sau nhiều năm người anh tiền nhiệm đã gầy dựng từ con số không trên mảnh đất thân thương làng Khop này. Khá mệt, tôi chìm vào giấc ngủ đêm với khí trời se lạnh.

Tờ mờ sáng, tiếng các em dân tộc được
người anh cưu mang ríu rít với nhau cạnh bên chiếc nhà sàn cổ nhất. Cổ nhất
không phải là xa xưa lắm nhưng cổ ở đây chính vì đây là căn nhà sàn đầu tiên mà
người khởi xướng gầy dựng ở nơi đây. Sau khi hoàn thành việc khởi xướng, người
anh này rời bỏ nơi đây để phục vụ một nơi khác cũng trên mảnh đất Tây Nguyên. Giờ
đây anh lại bỏ nơi xưa đi xa hơn nữa để giúp làm trung tâm hành hương Đức Mẹ
tận Kontum.

Khởi đầu ngày mới là vài gói mì tôm.
Hỏi cô bé Boai là người phục vụ mới biết đây là món chính của cha con người dân
tộc ở cái nhà thờ làng Khop này. Cha chưa nuôi đủ bản thân mình lại cưu mang
thêm gần chục đứa nhỏ nên chuyện mì gói muôn năm cũng chẳng có gì là lạ. Những
gói mì tuy đạm bạc nhưng đã bắn bó tình nghĩa cha con nơi vùng đất giáp ranh
biên giới nghèo này.



Mì gói xong, tôi cùng anh và bà con dân
tộc cùng nhau lên chiếc xe có một không hai của vùng này, không dám quá lời, nó
cũng là chiếc xe có một không hai của nước Việt. Nó đặc biệt bởi lẽ đây là
chiếc xe 25 chỗ ngồi hiệu Asia được mua lại từ nguồn hàng phế liệu, nhờ người
giáo dân người Kinh tốt bụng ở Thị Trấn Đức Cơ chỉnh sửa để chở các em học sinh
đi học. Hay nhất là trên xe không còn hàng ghế nguyên thủy mà thay vào đó là
một chồng ghế nhựa cho tiện dụng. Chiếc xe vẫn vui vẻ đưa học sinh đi học mỗi
ngày hôm nay được tận dụng đi đám tang trong làng xa. Cầm lái chiếc xe cổ này
vẫn là người anh linh mục có lòng yêu thương dân tộc khá đặc biệt.

Phải dừng lại một tí để nói về chiếc xe
đặc biệt này. Nó chỉ “được phép” chạy vòng vòng ở trong cái huyện Đức
Cơ chứ đừng hòng béng mảng ra khỏi Thị. Chỉ “được phép” ở Đức Cơ bởi
lẽ nó không còn hạn kiểm định nữa và cũng chẳng còn cơ may đi kiểm định. Nhìn
chiếc xe chỉ còn cái xác bên ngoài chứ bên trong không còn là chiếc xe nữa.
Nghèo nên phải tận dụng những gì người ta phế thải để phục vụ những người
nghèo. Cha anh kể lại rằng có hôm anh bận việc, nhờ người dân tộc lái, công an
gọi lại nhắc nhở và hôm sau anh lái. Anh chủ động dừng lại gặp công an và công
an vui vẻ cho xe chạy cùng lời an ủi “phục vụ cộng đồng tốt lắm!”.

Qua chặng đường dài bụi bay mù mịt
chúng tôi đến với đám tang người dân tộc mới qua đời.

Cụ ông Giuse qua đời ở cái tuổi 87.

Mọi sự để chuẩn bị cho Thánh Lễ
đã sẵn sàng.

Đây là lần đầu tiên tôi được tham dự
nghi thức nhập quan cũng như Thánh Lễ an táng cho người dân tộc Jrai.

Hết chuyện lạ này sang chuyện lạ khác bởi nét văn hóa của người Jrai. Trong những chuyện lạ đó, nét văn hóa hay nói đúng hơn nền văn minh tình thương của người Jrai được thể hiện nhiều hơn cả. Mỗi người cầm theo phần của mình đi dự đám tang. Họ cùng chia sẻ của ăn, thức uống với nhau trong những ngày tang lễ. Nghèo nhưng họ yêu thương nhau quá !

Lễ xong, rời đám tang, chúng tôi lại cùng nhau lên xe chia sẻ chút quà tết cho làng sâu bên trong hơn nữa.

Lúc này, chúng tôi được ngồi trên chiếc xe cũng có một không hai của vùng này. Xe này nguyên thủy của Tòa Giám Mục Kontum. Cũng qua nhiều đời chủ nay nó không còn được sử dụng bởi ai cũng chê nó cũ kỹ. Thấy vậy, người anh thân thương thuê xe khác kéo xe này về và lại nhờ người giáo dân kia sửa lại để chở đồ cho người dân tộc ở trong vùng sâu. Sau khi thay cái máy khác, chiếc xe này đã trở thành “hàng chính chủ” của người anh linh mục phục vụ tại làng Khop này.

Đi vào tận trong sâu để gặp gỡ trực
tiếp những người có thân phận kém may mắn.

Tình thương người nghèo và đặc biệt
người dân tộc thiểu số đã làm cho cái đói, cái mệt đi vào quên lãng. Ở cái vùng
đất nghèo này thì chẳng có thời gian và cũng chẳng có không gian. Không biết có
quá lời không khi các làng dân tộc nghèo ở rải rác khắp nơi trong một diện tích
rộng và nếu tính thời gian thì không thể nào phục vụ cho những người nghèo ở
đây được.

Chiều về, dẫu mệt nhưng nhớ đến những
người nghèo ở trong các làng để rồi cái mệt chạy đi đâu mất.

Cơm nước đạm bạc xong, nghỉ ngơi một
chút thì bà con lại quy tụ với nhau trong ngôi nguyện đường thật khiêm tốn.
Ngôi nguyện được ngày được người anh tiên khởi đến đây thiết kế để phục vụ cho
người dân tộc J’rai ở đây khá phù hợp với cái vẻ đơn sơ và mộc mạc.

Tiếng kinh râm rang được cất lên thật nhịp nhàng.

19 g 20 phút, Thánh Lễ được cử hành.
Tham dự Thánh Lễ ở cái làng Khop này làm cho tôi liên tưởng rằng mình đang ở
đâu đó ở nước ngoài bởi lẽ tiếng J’rai làm sao tôi hiểu được. Cùng hiệp nguyện
với cộng đoàn phụng vụ trong lời kinh tiếng hát. Hiểu chút chút với phần nghi
thức sám hối, đặc biệt là “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng” bằng tiếng J’rai.

Lễ xong cộng đoàn ra về.

Chúng tôi được một đêm yên hàn sau một ngày mệt nhọc.

Tờ mờ sáng hôm sau, tiếng trống báo hiệu một ngày mới bắt đầu.

Thánh Lễ tạ ơn và cầu bình an cho ngày mới được cử hành trong bầu khí trang nghiêm và sốt sắng. Điều khá ngạc nhiên ở đây là Thánh Lễ tối qua cũng như sáng nay được khá nhiều người tham dự. Cũng là điều đáng mừng cho ngôi nhà nguyện khiêm tốn ở đây chứ không thì buồn lắm vì lẽ nhà nguyện sẵn có mà lại chẳng có ai. Ngôi nhà nguyện ở đây phù hợp với cái làng nghèo này. Nhiều nơi buồn lắm bởi lẽ nhà nguyện hay nhà thờ thì cao chót vót và thật hoành tráng nhưng số người dự lễ thật thưa thớt. Vẫn là điều nghịch lý bấy lâu nay cho những công trình xây dựng để đời ngay tại nhưng nơi mà bà con giáo dân còn phải chạy ăn từng bữa hay là bữa đói bữa no.

Lễ xong, cộng đoàn các sơ và các em được cha cưu mang cùng cha ở lại đọc kinh Phụng Vụ. Giữa cái vùng đất nghèo này vang lên lời kinh của Hội Thánh thật dễ thương.

Kinh xong, một ngày mới lại bắt đầu với những công việc không tên.

Được biết một cha kia ngày xưa đã từng
đến phục vụ ở vùng nghèo này khi còn làm thầy nay trở lại chia sẻ chút quà cho
bà con ở làng xa. Chiếc xe mới ngày hôm qua chở tôi đi vào làng nay lại nằm một
chỗ. Chẳng lạ gì vì nó là đồ phế thải mang về chạy tạm. Tội nghiệp cho người
thợ giáo dân thương mến cha đặc trách vào tận bên trong làng để sửa mang về.
Mãi đến chiều tối chiếc xe mới chịu nổ máy để đưa các em dân tộc tháp tùng về
lại nhà thờ.

Lấm lem bụi cộng với dầu nhớt làm cho hình ảnh nắng sương của các em làm cho các em thêm phần bụi bặm hơn. Tranh thủ rửa tay và vào dùng bữa bởi lẽ cả ngày chẳng có gì trong bụng với chiếc xe nằm đường.

Cha đặc trách lại phải ngược xuôi với
những công việc của ngày cuối năm. Chốc chốc lại chạy ra công trường để xem
nhân công đang làm bờ rào cho khuôn viên nhà thờ. Cũng chẳng nghĩ đến chuyện
rào chắn nhưng kẻ trộm đã không khước từ ngay cả nơi nhà Chúa nên Cha bấm bụng
làm cho xong chuyện. Ngại lắm mới có cái chuyện làm hàng rào hàng cửa chứ chẳng
ai nghĩ đến chuyện rào chắn nơi cái vùng đất nghèo này. Nhưng có lẽ đến lúc
cũng phải làm để chặn ngăn những kẻ không còn chút lương tri là vào tận nhà xứ
để rinh đồ.

Chiều tối, sau khi ăn vội chút cơm
chiều, cha anh lại đưa tôi ra ngoài phố để chuẩn bị cho cuộc trở về Sài Thành
trong những ngày giáp Tết.

Lại tạm xa cái làng Khop thân thương để trở về với những công việc thường nhật.

Ngồi trên xe trên hành trình về lại nhưng hình ảnh của những người dân tộc nghèo và hình ảnh của người anh linh mục đang phục vụ nơi đây vẫn còn trong tâm thức.

Họ nghèo, anh đến với họ và anh sống nghèo, sống lam lũ với họ trong ơn gọi tận hiến của Hội Dòng. Anh tôi đã đến đây và sống nghèo cùng họ.

Thật lòng ngưỡng mộ anh cũng như biết bao nhiêu cha anh khác đang âm thầm phục vụ cho người nghèo ở cái vùng hẻo lánh như vùng hẻo lánh nơi đây.

Vẫn còn bạt ngàn cho cánh đồng truyền giáo và vẫn cần những người thợ gặt tận tâm tận tình với những con người nhỏ bé ở nơi đây.

Giữa một thế giới văn minh, giữa một đất nước chuyển mình nhưng lại vẫn còn những người nghèo ở cái mảnh đất ven biên giới này. Họ nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Bao nhiêu năm nay họ vẫn chìm trong cảnh thiếu trước hụt sau, bữa đói bữa no.

Biết đâu được đây là bước dò đường cho cuộc đời tận hiến còn lại.

Có chăng cả cuộc đời còn lại sẽ được ở nơi những con người nghèo này.

Mệt nhoài cho thân xác bởi lẽ phải lo toan đủ thứ đủ điều nhưng đêm về ngon giấc không còn phải nghĩ suy.

Có thể Chúa lại rẽ hướng cho tôi đến với những con người nghèo nơi đây chẳng nên.

Tất cả là hồng ân ! Tất là là Thánh ý của Chúa trong cuộc đời.

Tạ ơn Chúa với biết bao nhiêu ơn lành Chúa đã tuôn đổ trên tôi trong suốt cả cuộc đời và gần nhất là trong năm cũ gần qua. Những ngày ngắn ngủi trên mảnh đất này đã để lại những hình ảnh của những người nghèo, của người anh linh mục đang dấn thân nơi đây.

Vẫn mong đâu đó có những tấm lòng sẻ chia phần nào đó về tinh thần và vật chất cho những người nghèo ở nơi đây.

Những ngày giáp Tết Quý Tỵ

Anmai, CSsR

Lê Công Định: sự trở về mang hy vọng

Lê Công Định: sự trở về mang hy vọng

thứ năm, 7 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

LS Lê Công Định tại tòa

Việc Luật sư Lê Công Định được trả tự do trước thời hạn hơn 1 năm đã được hoan nghênh trong nhiều giới.

Ông Định ra tù sáng thứ Tư 6/2 và hiện còn phải chịu 3 năm quản chế tại địa phương.

Phản ứng trước sự kiện này, ông Lê Thăng Long, người cùng bị xét xử một đợt với ông Lê Công Định nhưng vì án nhẹ hơn nên được trả tự do năm ngoái, nói với BBC:
“Tôi thực sự rất vui mừng trước sự trở về của anh Định”.

“Tôi cho đây là tín hiệu rất tích cực trong quá trình đổi mới về chính trị của Việt Nam, nó cho thấy các tác động của cả từ bên trong lẫn bên ngoài, cũng như
của những thay đổi trong môi trường chính trị toàn cầu và chính ngay
trong nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam.”

Ông Lê Thăng Long cũng cảnh báo LS Định rằng “cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục, con đường phía trước chắc chắn còn nhiều khó khăn và rủi ro rất lớn”.

Tuy nhiên, theo ông, sự đóng góp của ông Lê Công Định, người mà ông nhận xét là “rất trăn trở về bản Hiến pháp Việt Nam” ngay trong quá trình thu thập ý kiến
đóng góp về sửa đổi Hiến pháp 92 là một điều tích cực.

“Tôi hy vọng và tin tưởng rằng đây là cơ hội cho anh Định đóng góp một cách công khai và hợp pháp cho đất nước.”

Người còn ở trong tù

Trong khi đó, ông Trần Văn Huỳnh, cha của doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, người cũng bị xét xử cùng đợt với các ông Định và Long những lãnh án tù nặng nhất 16 năm, nói: “Nghe tin mừng của Lê Công Định, tôi nghĩ ngay đến con
tôi”.

“Tôi hy vọng các tổ chức quốc tế và dư luận trong nước tiếp tục ủng hộ, vận động để các tù nhân lương tâm như con trai tôi sớm được trả tự do vì họ không làm gì
có tội.”

Trong phiên xử ngày 20/1/2010,  bốn người là các ông Lê Thăng Long, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung và Trần Huỳnh Duy Thức đã nhận án tù nhiều năm vì tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Ông Lê Công Định, theo cáo trạng, còn là đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam vốn không được phép hoạt động.

Đảng này, ngay sau khi ông ra tù, đã ra thông cáo cho hay LS Lê Công Định là Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam từ ngày 1/6/2009.

“Việc trả tự do cho hai ông Lê Công Định và Nguyễn Quốc Quân khiến người ta nghĩ rằng Việt Nam đang mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ.”

GS Carl Thayer

“Đảng Dân chủ Việt Nam yêu cầu nhà nước Việt Nam tiếp tục trả tự do cho các đảng viên và cộng sự của Đảng Dân chủ còn đang bị giam cầm trái phép. Trả tự do cho các tù nhân chính trị chính là hành động thiết thực để thể hiện tinh thần thật tâm hòa hợp toàn dân tộc, tôn trọng sự thật và công lý, quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền.”

Thông cáo cũng viết rằng “đối thoại trên tinh thần xây dựng là cách tốt nhất nên có nhằm thay đổi tích cực hình ảnh của Việt Nam, hướng đến lợi ích chung của quốc gia và dân tộc”.

Phản ứng quốc tế

Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên lên tiếng về sự kiện LS Lê Công Định được trả tự do.

Phát ngôn viên cho Đại sứ quán Mỹ, Christopher Hodges, được hãng thông tấn AP dẫn lời nói: “Chúng tôi hoan nghênh quyết định của chính quyền Việt Nam trả tự do nhân đạo cho LS Lê Công Định”.

“Nhân quyền, kể cả việc kêu gọi thả tất cả các tù chính trị, tiếp tục là một phần quan trọng trong quan hệ song phương của chúng tôi với Việt Nam.”

Tuần trước, Việt Nam cũng đã thả ông Nguyễn Quốc Quân, đảng viên Việt Tân, người bị bắt từ tháng Tư năm ngoái.

Bão tuyết lớn ở đông bắc Hoa Kỳ

Bão tuyết lớn ở đông bắc Hoa Kỳ

thứ bảy, 9 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Bản đồ di chuyển của bão tuyết

Miền đông bắc nước Mỹ đang chịu bão tuyết lớn, với mức tuyết rơi ở một số nơi dự đoán có thể lên tới 91cm.

Các chuyến bay đi và tới New York đã bị hủy và có cảnh báo sẽ cắt điện, khi bão tuyết từ vùng Great Lakes tràn xuống nhiều nơi ở New England.

Người dân được cảnh báo không ra ngoài đường, mua trữ lương thực thực phẩm và các đồ dùng cần thiết khác.

Cơ quan Dự báo Thời tiết Quốc gia nói sự kết hợp giữa hai hệ thống thời tiết hình thành từ các dòng chảy cực bắc và cận nhiệt đới có thể tạo ra cơn bão “lớn
lịch sử”.

Cảnh báo bão tuyết đã được đưa ra tại một số nơi ở New Jersey, New York, Massachusetts, Rhode Island và Connecticut, sau được mở rộng ra New Hampshire và Maine.

Ở Canada, tuyết dày 25cm và gió mạnh được dự báo sẽ xảy ra tại phía nam tỉnh Ontario, cũng như ở Quebec.

Ít nhất đã có ba người chết tại Ontario.

‘Không ra đường’

Các bang Massachusetts và Connecticut đã cấm giao thông trên các con đường từ tối thứ Sáu.

Ít nhất 4.200 chuyến bay đã bị hủy ở toàn nước Mỹ vì đợt bão.

Amtrak cũng tạm dừng dịch vụ xe lửa từ New York tới Boston vào chiều thứ Sáu.

Ở Boston, nơi các trường học đã đóng cửa từ thứ Sáu, Thị trưởng Thomas Menino kêu gọi các doanh nghiệp cho nhân viên ở nhà để giảm nguy cơ.

Tuyết rơi dự báo có thể lên đến hàng chục cm

Thống đốc Massachusetts Deval Patrick thì ra lệnh cho tất cả các nhân viên công quyền nếu không thậ̣t cần thiết cũng nên ở trong nhà.

Boston có thể có tuyết rơi dày gần 1 mét, hơn hẳn mức cao nhất từ trước tới nay là 70cm, hồi năm 2003.

Các lái xe đổ xô đi mua xăng tại các nơi từ Connecticut đến New York City, trong khi có cảnh báo sẽ thiếu nhiên liệu.

Tại New York City, Thị trưởng Michael Bloomberg nói các xe dọn tuyết và 250.000 tấn muối đã được chuẩn bị sẵn.

Người ta lo ngại sẽ có cắt điện trên diện rộng, với nước ngập ở nhiều khu duyên hải.

Một số khu dân cư vẫn còn đang phải khắc phục hậu quả của bão Sandy, cùng mưa lũ hồi tháng 10 năm ngoái.

Các quan chức ở Brick Township, New Jersey, đã khuyến cáo sơ tán tự nguyện đối với người dân.

Trong khi hiện các trường học và giao thông vẫn đang hoạt động, ông Bloomberg khuyên người New York dự trữ nhu yếu phẩm và thuốc men.

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

(Dân trí) – Đá cuội ở sông suối không phải là thứ xa lạ đối với hầu hết mọi người. Tuy nhiên, khi xem những viên đá cuội đã được nữ họa sĩ Ernestina Gallina “thổi hồn”, chắc chắn người xem không khỏi thán phục.

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Họa sĩ Ernestina Gallina đến từ Cenestino, nước Ý từ khi còn là một đứa trẻ đã biết
cách biến những vật tầm thường thành những vật độc đáo lạ mắt. Lúc nhỏ, bà
Gallina rất đam mê lĩnh vực hội họa, thiết kế. Tuy nhiên, do gia đình Gallina
không ủng hộ sự lựa chọn này của bà cho nên bà không có cơ hội để phát triển kỹ
năng của mình cũng như đăng ký tham gia học tập tại bất kỳ trường nghệ thuật
chính thống. Bà chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật của mình như là một thú vui
giải trí.

 

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Năm 1987, bà cùng với gia đình chuyển đến thành phố Nairobi, ở Kenya để sinh sống. Tại đây sự nghiệp hội họa của bà được thăng hoa. Gallina kể lại, vào một hôm tại
thư viện, vô tình bà đã vấp phải một cuốn sách được trưng bày trên những bức
tranh đá. Từ hôm đó bà bắt đầu suy nghĩ về cách biến những viên đá cuội bình
thường ở sông suối thành những tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là điểm mấu chốt
giúp bà kết hợp và phát huy được niềm đam mê nghệ thuật cùng với tình yêu thiên
nhiên đất trời. Kể từ đó, bà đến với nghệ thuật vẽ tranh trên đá như một điều
tất yếu và không bao giờ ngừng lại được.

Sau 3 năm làm quen với công việc vẽ tranh trên đá, bà Ernestina Gallina đã có thể dạy lại những bí quyết vẽ tranh trên đá cho nhiều học viên, đến năm 2003 bà đã thành lập câu lạc bộ vẽ trên đá đầu tiên tại Ý.

Chiêm ngưỡng một số tác phẩm của bà Ernestina Gallina:An TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn Tử