Đức Thánh Cha ân xá cho ông Paolô Gabriele

Đc Thánh Cha ân xá cho ông Paolô Gabriele

Linh Tiến Khải

12/23/2012

VATICAN – Trong buổi họp báo sáng ngày 22-12-2012 Cha Federico Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ân xá cho ông Paolo Gabriele cựu quản gia.

Cha Lombardi nói với các nhà báo rằng: ”Sáng nay Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã vào tù thăm ông Paolo Gabriele, cựu quản gia của ngài để xác định với ông rằng ngài đã tha thứ cho ông và đích thân báo cho ông biết ngài đã chấp thuận lời xin của ông và ân xá cho ông. Đây là một cử chỉ hiền phụ đối với một người mà Đức Thánh Cha đã chia sẻ vài năm sống tình gia đình mỗi ngày. Tiếp theo đó ông Paolo Gabriele đã được ra khỏi tù và trở về nhà. Mặc dù không được tiếp tục làm việc, nhưng ông được trú ngụ trong nội thành Vaticăng. Tin tưởng nơi sự chân thành xét lại của ông Tòa Thánh cống hiến cho ông khả thể tiếp tục cuộc sống với gia đình trong sự thanh thản”.

Như đã biết ông Gabriele đã bị bắt hồi tháng 5 năm 2012 vì tội đánh cắp nhiều
tài liệu mật của Tòa Thánh, một thỏi vàng và một ngân phiếu 100.000 mỹ kim của
Đức Thánh Cha. Ông đã bị kết án ba năm tù ngày mùng 6 tháng 10 vừa qua, và được
giảm còn một năm rưỡi (SD 22-12-2012)

Xem phim hay muà Noel: Les Miserables (Những kẻ khốn cùng).

Xem phim hay muà Noel: Les Miserables (Những kẻ khốn cùng).

Trần Mạnh Trác
 
12/28/22012

nguồn: Vietcatholic.net

‘Les  Miserables’ (1862 ) là một cuốn truyện lừng danh cuả nhà đại văn hào Victor  Hugo bên Pháp, đã được nhà văn Hồ Bửu Chánh phóng tác sang truyện Việt Nam  với tựa đề ‘Ngọn cỏ gió đùa’, từng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ cải lương  và phim truyện ở Việt Nam. Truyện kể về một nhân vật Jean Valjean (Lê văn Ðó)  nghèo nàn dốt nát, vì ăn cắp một ổ bánh mì (trã cháo heo ) để nuôi đứa cháu  gái sắp chết đói mà bị bắt. Anh ta lại vi phạm luật tại ngoại do đó bản án bị  tăng lên tới 20 năm. Sống ngoài vòng pháp luật, cả đời cuả anh lo quanh việc  lẩn trốn khỏi bàn tay cuả ông thanh tra cảnh sát Javert (Phạm Kỳ)…20 năm  sau, hai người đụng độ nhau tại Paris giữa bối cảnh cuả cuộc Cách Mạng  Pháp…

Năm nay, một phiên bản Ca Nhạc cuả Anh Quốc sẽ được trình chiếu tại các rạp hát bên Mỹ vào dịp Giáng Sinh (từ ngày 25 tháng 12.)

Đây là một tác phẩm Âm Nhạc sáng tác năm 1980 cuả hai nhạc sĩ Alain Boublil and Claude-Michel Schönberg. Hai nhạc sĩ đã từng hợp tác với nhau và sáng tạo ra nhiều tác phẩm nổi danh khác cho Broadway và London’s West End, trong đó có Miss Saigon (1989).

Thành phần đạo diễn và tài tử cũng hùng hậu. Đạo diễn là Tom Hooper. Kịch bản do William Nicholson, Boublil, Schönberg và Herbert Kretzmer. Diễn xuất gồm có Hugh Jackman, Russell Crowe và nhiều vai phụ do Anne Hathaway, Amanda Seyfried, Eddie Redmayne, Samantha Barks, Sacha Baron Cohen, Helena Bonham Carter, và Aaron Tveit.

Cảnh trí trong phim được quay ở các vùng Winchester và Portsmouth ở
Hampshire, Anh Quốc, và ở Paris Pháp Quốc.

Ngay cả trước khi ra mắt, cuốn phim đã được đề nghị 4 giải thưởng Golden
Globe là giải Phim Hay Nhất, Nhạc Hay Nhất, Tài Tử Hay Nhất (Hugh Jackman ) và Vai Phụ Hay Nhất (Anne Hathaway).

Qua nhãn quan Công Giáo, cuốn phim đề cao nhiều thông điệp quan trọng về Sự Tha Thứ và Tình Yêu, rất cần cho hoàn cảnh hiện tại cuả thế giới ngày nay.

Thí dụ một anh Jean Valjean (Lê văn Ðó) cay đắng hận đời đã được một vị Giám Mục nhân từ cảm hoá. Ngài không những bảo vệ anh khỏi cảnh tù đày vì tội ăn cắp tiền bạc và chén thánh cuả nhà Thờ, ngài còn tặng cho anh số tiền anh đã ăn cắp với chỉ một lời khuyên là anh ta phải sử dụng những tặng phẩm đó để “trở thành một người lương thiện.”

Lòng thương xót cuả vị giám mục đã biến đổi Valjean. Anh đã quỳ xuống trước bàn thờ, vật lộn với lòng hận thù của mình và phát hiện ra sự tha thứ. Cuối cùng anh đã cho phép sức mạnh của lòng thương xót ấy hoán cải anh trở thành một con người mới.

Ngược lại với Valjean là viên thanh tra cảnh sát Javert (Phạm Kỳ). Javert
không phải là hiện thân của cái ác, nhưng là hiện thân của những gì phải xảy
ra khi công lý bị tách rời khỏi lòng thương xót.

Javert không tham lam vì lợi ích riêng, ông ta chỉ nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật và không tin rằng con người có khả năng cải hoá. Do đó khi cái trớ
trêu cuả cuộc đời đã làm cho ông ta rơi vào bàn tay cuả Valjean, ông đã không thể hiểu tại sao mình được kẻ thù tha cho. Ông không thể hiểu được sự tha thứ.

Trong cuộc đối đầu cuối cùng giữa hai người, Javert cũng không hiểu được tại sao ông không thể bấm cò kết liễu cuộc đời cuả Valjean. Sự giằng co giữa nhiệm vụ và lòng biết ơn đã dẫn đến sự hủy hoại của nhân vật Javert. Tấm bi kịch cuả nhân vật Javert là một hậu quả điển hình của một nền công lý không dựa vào nhân bản.

…Trong phim còn nhiều thí dụ khác về Tình Yêu, sự Hy Sinh, lòng Vị Tha qua
nhiều nhân vật đáng chú ý khác nữa.

Cuốn phim được xếp hạng PG-13 vì có nhiều cảnh ‘khá nặng’ về mãi dâm và bạo lực.

Nhưng đây là một cuốn phim có chiều sâu. Là một làn gió mới khác hẳn với
những cuốn phim nông cạn mà Hollywood sản xuất gần đây.

Với hình ảnh rực rỡ, diễn xuất sôi động và âm nhạc thanh thoát, Les Misérables là một câu chuyện của sự cứu rỗi và ân sủng tái sinh, có thể nhắc
nhở cho chúng ta một chân lý rất đơn giản là: “Yêu người khác tức là nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa.”

Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen

Mừng lễ Giáng Sinh 2012 tại Thánh thất Bàu Sen
Một mùa Giáng Sinh nữa lại về. Những người Công giáo hẳn đã quen với hình ảnh thân thương của hang đá, máng cỏ, với không khí nôn nao của những ngày chuẩn bị đón mừng đại Lễ. Nhưng có bao giờ bạn mừng Lễ Giáng Sinh ở một không gian không thuộc khuôn viên nhà thờ giáo xứ chưa? Mời bạn cùng Ban Mục vụ Đối thoại liên tôn trải nghiệm không khí ngày lễ Giáng Sinh nơi Thánh Thất Bàu Sen của các bạn đạo Cao Đài nhé!
Không gian Thánh Thất Bàu Sen hôm nay là sự hòa quyện tinh tế giữa Đông và Tây, một hồ sen nho nhỏ làm nền cho Thiên Nhãn kỳ vương cao trên nền trời xanh, được điểm thêm hình ảnh những quả châu màu đỏ. Màu của không khí Giáng Sinh hòa cùng màu xanh cánh sen của làng quê Việt Nam. Nơi góc sân, một hang đá nhỏ đơn sơ với mái nhà tranh, nơi gia đình Thánh Gia cư ngụ…
Sau lời cầu nguyện dâng lên Đức Chí Tôn, mọi người cùng lắng nghe chia sẻ của linh mục Phanxicô Xaviê Bảo Lộc, trưởng Ban MVĐTLT đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Những bạn đạo Cao Đài và các tín hữu Công giáo có dịp nhìn lại lịch sử của ngày lễ Giáng Sinh cũng như niềm vui của những người có Chúa ở cùng.
THÁNH THẤT BÀU SEN: MỪNG CHÚA GIÁNG SINH

Đáp lời, giáo sỹ Huệ Ý nhắc lại truyền thống thờ Trời của của người Việt ta. Từ ngàn xưa, khi chỉ có vua mới được gọi là Thiên Tử, thì người Việt đã cảm nhận sự xa vời vợi của vị “Thiên Tử” này, trong khi ngước mắt lên, họ có thể thấy cả bầu trời rộng lớn phía trên đầu. Ông bà ta đã cắm một cây cột giữa sân nhà, lập một bàn thờ nhỏ chỉ một hai gang tay, đó là Bàn Thiên, là nơi thờ Trời. Trong niềm tin dân gian, khi đó ông Trời đang ở cùng chúng ta. Và trong giáo lý Cao Đài có dạy con người luôn hướng thượng và tu tập:
“Tu là học để làm Trời
Phải đâu muôn kiếp làm người thế gian”
Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe các Đạo tỷ Cao Đài hát rất tâm tình bài “Chứng nhân tình yêu” của linh mục Nguyễn Duy. Một bài thánh ca các tín hữu quen nghe trong thánh đường được cất lên tâm tình trong không gian mang nét Á Đông với lư đèn, các bài vị cùng hương trầm lan tỏa…
Buổi lễ kết thúc với bữa cơm chay huynh đệ. Có một Đạo huynh Cao Đài nói vui: “Ngộ hén, cơm chay mà có cả cơm rượu, đây là rượu của Gia-tô ban cho trong ngày vui này!”.
Giáng Sinh đang trở nên ngày lễ dân gian của toàn xã hội, là ngày của niềm vui và là dịp để tri ân nhau, trao tặng những món quà nhân ái và thắt chặt mối tương giao bằng hữu. Nhưng để có được niềm vui hôm nay, mỗi người chúng ta cần tạ ơn về món quà đầu tiên được trao ban nơi hang đá nhỏ Bêlem, trong một đêm đông lạnh giá cách nay hơn hai ngàn năm. Ước mong sao Chúa Hài Đồng luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta mọi ngày, để tất cả cùng đồng tâm xây dựng đại gia đình nhân loại tốt đẹp hơn.
Nguồn:  nhipcautamgiao
Maria Thanh Mai gởi

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình trạng Syria hiện nay giống tình trạng hơn bốn thiên niên kỉ trước.
26.12.2012
nguồn: VOA
Hạn hán, thành thị suy tàn, và chính phủ sụp đổ chấm dứt vai trò kinh tế trung tâm của Syria trong Vùng Trung Đông 4.200 năm trước.
Cuộc khảo cứu của trường đại học Sheffield ở Anh nêu lên những điểm tương đồng
quan trọng giữa một Syria bị chiến tranh tàn phá hiện nay với vụ đảo lộn thời
đế quốc Mesopotamia được biết tới với tên Akkadia vào thời kỳ đồ đồng.
Ellery Frahm, thuộc khoa khảo cổ của trường này tìm thấy những liên hệ bằng
cách nghiên cứu vấn đề thương mại tại Osidia trong trung tâm thương mại đô thị
của Urkesh, nơi bây giờ là miền đông bắc Syria.
Kính núi lửa được dùng để chế tạo dụng cụ sắc như dao cạo lấy từ sáu núi lửa
khác nhau trước khi xảy ra vụ sụp đổ của đế quốc Akkadia trải dài tới nước Iraq
hiện tại.
Khi tuyến đường thương mại và các chính phủ trong vùng sụp đổ trong thời kỳ mà
một số sử gia nói là giai đoạn gia tăng chế độ quân phiệt và bạo động, thành
phố này chỉ có thể mua osidian từ hai nguồn cung cấp kế cận, cho thấy ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng đối với sự lưu thông của người và hàng hóa.
Thêm nữa, ông Frahm nói canh nông vào thời đó cũng như bây giờ chủ yếu dựa vào
nước mưa thay vì thủy lợi,và các vụ mùa ở Akkadia không thể đáp ứng trước tình
trạng gia tăng dân số trong vùng.
Ông nói thêm với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay gây ra thêm nhiều khô
hạn, và với dân số đông hơn bao giờ hết, nông nghiệp hiện đại của Syria cũng không
thể bền vững được.
Ông Frahm khẳng định rằng công việc của ông không thể rọi ánh sáng vào tình
hình bạo động hiện nay ở Syria, thay vào đó nó đem lại một phương cách để hiểu
về những gì trước mắt, bằng cách tìm hiểu phương cách mà các bậc tiền bối phản
ứng trước các cuộc khủng hoảng của chính họ và của nước ngoài.

Đột kích nhà mẹ đẻ: Tuyên bố không thừa nhận bố mẹ

Đột kích nhà mẹ đẻ: Tuyên bố không thừa nhận bố mẹ
nguồn: Báo Datviet.vn
(ĐVO) – Ngày 12/12, cụ Nguyễn Thị Muộn (82 tuổi) đã có đơn trình báo gửi cơ quan chức năng tố cáo hai người con trai thuê côn đồ đột nhập vào nhà cụ cắt khóa, sinh sống trong nhiều ngày.
Con trai
Cụ Nguyễn Thị Muộn (82 tuổi, Láng Hạ, Hà Nội) sinh được 7 người con, 2 gái, 5
trai.
Theo trình bày của cụ Muộn, cụ có quyền sử dụng thửa đất cùng quyền sở hữu nhà
ở tại địa chỉ: 153 phố Láng Hạ, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, HN theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số do Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, cấp ngày 26/04/2012 mang tên bà Nguyễn
Thị Muộn (có chồng là ông Đào Văn Sỏi đã chết).
Hình ảnh được cho là nhóm côn đồ đã phá khóa, chiếm nhà cụ muộn
Hình ảnh được cho là nhóm côn đồ đã phá khóa, chiếm nhà cụ Muộn
Nhưng 2 phòng của ngôi nhà ở tầng 1 (nơi cụ Muộn vẫn sống và thờ cúng chồng) bị con trai cả của cụ là Đào Văn Chung (60 tuổi, phố Hàm Long, phường Hàng Bài) cho một chủ cửa hàng kinh doanh nước đóng bình thuê bất hợp pháp (cửa hàng kinh doanh nước chính là của ông Chung làm chủ thuê vợ chồng anh em trai quản lý).
Sau khi cụ Muộn cùng 5 người con đuổi nhân viên cửa hàng ra khỏi nhà để cho người khác thuê lại, người con trai út là Đào Minh Lợi cùng vợ xông vào hành hung, khóa cửa lại. Người thuê mới buộc phải dùng khóa khác, khóa lần 2.
Ngày 7/12, ông Lợi đã thuê các đối tượng xã hội và các đối tượng mạo danh
thương binh đến cắt khóa nhằm chiếm căn phòng. Cụ Muộn đã trình báo chính quyền
địa phương nhưng không được giải quyết.
Ngày 11/12, anh Lợi cùng vợ tiếp tục thuê hàng chục đối tượng xã hội cùng nhiều
xe tự chế (giả xe thương binh) đến tiếp tục cắt khóa cả cửa trong và cửa ngoài,
chiếm dụng cả 2 phòng. Các đối tượng còn ăn ở, sinh hoạt trái phép trong nhà từ
ngày 11/12 đến chiều tối ngày 14/12.
“Nó còn đổ mắm tôm, dầu nhớt trước cửa để cho tôi đi trơn ngã mà chết”, cụ Muộn cay đắng cho biết.
Cụ Muộn cùng các con đã phải cầu cứu công an phường Láng Hạ và cảnh sát 113,
nhưng khi cơ quan chức năng đến lại chỉ đứng nhìn mà không giải quyết.
Trước hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật của
các đối tượng, cụ Muộn đã có đơn cầu cứu tới các cơ quan chức năng. Trong đơn
cụ viết: “Là một công dân lương thiện, tôi khẩn thiết mong quý cơ quan có
biện pháp can thiệp kịp thời để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của gia đình tôi,
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật”.
Ngày 18/12, trao đổi với phóng viên, cụ Muộn chỉ mong muốn được trả lại tầng 1
của ngôi nhà cho cụ ở đỡ phải leo lên, leo xuống.
Theo anh D (người thuê gian nhà tầng 1 của cụ Muộn để bán phở) cho biết:
“Có khoảng 7 xe giả xe thương binh xếp thành hàng dài dọc ngõ 151 Lạng Hạ.
Mỗi xe ít nhất là một người, họ có phải là xã hội đen hay đầu gấu hay không tôi
không biết. Tôi chỉ thấy họ vào nhà ngồi trong nhà nhưng không đập phá, đánh
đập hay gây gổ gì.
Sự việc kéo dài trong mấy ngày, nhưng vì là người thuê nhà nên tôi cũng không
quan tâm chuyện nhà chủ. Nói ra nói vào không phải đầu cũng phải tai”, anh
D cho biết.
Một cụ ông ngõ 151 cho biết thêm, mâu thuẫn thực chất đã xảy ra từ mấy năm
trước. Nhiều lần cụ thấy chuyện tranh chấp, xảy ra giữa anh em, mẹ con tại ngôi
nhà này.
Không thừa nhận bố mẹ
Theo cụ Muộn, mọi mâu thuẫn bắt nguồn từ quyển sổ đỏ của cụ bị vợ chồng ông Đào
Văn Chung tự ý đi làm thủ tục sang tên đổi chủ. “Nó bảo tôi cho nó mượn
quyển sổ đỏ để làm thủ tục kê khai. Ai nghĩ rằng nó lại làm lại sổ đứng tên vợ
chồng nó mà gạt tên tôi ra khỏi sổ”.
Ông Đào Văn Chung và Đào Minh Lợi đã có đơn gửi cơ quan chức năng không thừa nhận cụ Muộn là mẹ đẻ của mình
Ông Đào Văn Chung và Đào Minh Lợi đã có đơn gửi cơ quan chức năng không thừa nhận cụ Muộn là mẹ đẻ của mình
Nghĩ rằng, cũng là con cái, nhà cửa không ai khiêng đi được nên cụ Muộn cũng bỏ qua. Đến khi các con cụ ở nước ngoài trở về đã yêu cầu trả lại tên sổ đỏ cho cụ.
Đến ngày 26/4/2012, Ủy ban quận Đống Đa đã ra quyết định hủy sổ đỏ của vợ chồng
ông Chung, cấp lại GCN Quyền sở hữu cho cụ Muộn.
Ngày 25/10/2012, ông Chung cùng em trai là Đào Minh Lợi đã có Đơn khiếu nại
khẩn cấp gửi các cơ quan chức năng cho rằng chính quyền địa phương đã cấp nhầm
sổ đỏ cho người đã chết.
Vì sổ hộ khẩu mới cấp cho cụ Nguyễn Thị Muộn và chồng là Đào Văn Sỏi (đã chết).
Nhưng hai người đó không phải là bố mẹ ông.
Theo ông Chung, bố mẹ ông phải là cụ Đào Văn Sõi (đã chết) và mẹ là Nguyễn Thị
Muôn (chứ không phải là cụ Muộn và cụ Sỏi).
Do vậy, các giấy chứng nhận sở hữu nhà đất tại số nhà 153 phường Láng Hạ mà UBND
quận Đống Đa cấp ngày 26/4/2012 cho cụ Nguyễn Thị Muộn và chồng là Đào Văn Sỏi
(đã chết) là trái pháp luật vì… hai người có tên trong sổ mới không phải là
mẹ và bố ông Chung, không phải là chủ sử dụng mảnh đất tại 153 phố Láng Hạ,
quận Đống Đa, Hà Nội.
Sau khi cấp lại giấy chứng nhận, cụ Muộn đã đòi lại 1 phòng tầng 1 cho thuê lại
với giá 21 triệu/tháng. Căn phòng thứ 2 do Công ty nước của con trai cụ Đào Văn
Chung và Đào Minh Lợi là nhân viên không chịu rời đi dù đã được cụ đưa thông
báo.
Cụ Muộn cùng các con đã dùng khóa khóa cửa phòng, cho người khác thuê, dẫn đến
sự việc ông Lợi thuê người đến phá khóa, đột nhập vào sinh sống trong nhà.
“Ngôi nhà 153 Láng Hạ là ngôi nhà do bố mẹ tôi là ông Đào Văn Sõi và mẹ Nguyễn Thị Muôn để lại, những người tên là Nguyễn Thị Muộn và ông Đào Văn Sỏi không phải là bố mẹ của chúng tôi,
không có quyền hành gì tại ngôi nhà 153 Láng Hạ”, ông Lợi và ông Chung khẳng định.
Tuy nhiên, tại công văn trả lời của Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, đã khẳng
định, việc cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà ở cho cụ Muộn là hoàn toàn hợp pháp.
Đồng thời cũng khẳng định, cụ Nguyễn Thị Muộn với cụ Đào Văn Sỏi chỉ là một.
Việc ông Chung phủ nhận bố mẹ, cho rằng cụ Muộn và ông Sỏi không phải bố mẹ ông
Chung là không có cơ sở.
Trả lời phóng viên, ông Cáp Quang Thành – Trưởng công an phường Láng Hạ cho biết,
những đối tượng đó không phải là xã hội đen. Khi công an xuống, thì họ đã rút hết
khỏi hiện trường.

Ông Thành cũng cho biết, căn phòng đó là nơi vợ chồng ông Lợi đã từng sinh sống,
làm ăn từ nhiều năm nay, giờ đang xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, ông Thành không nói rõ về hình thức xử lý những đối tượng này. Theo
ông Thành, đó là chuyện nội bộ trong gia đình.

Những bóng hồng làm nguyên thủ quốc gia

Những bóng hồng làm nguyên thủ quốc gia

Giới lãnh đạo nữ trên thế giới vừa bổ sung thêm một nhân vật, nữ Tổng thống Hàn Quốc, Park Geun-hye.

Bà Park Geun-hye trở thành tân Tổng thống Hàn Quốc hôm qua. Bà là con của cựu Tổng thống Park Chung-hee. Ở tuổi 61, bà Park chưa chồng và không có con. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc giữ cương vị này.
Yingluck Shinawatra sinh ngày 21/6/1967. Bà trở thành thủ tướng thứ 28 của Thái Lan từ hồi tháng 8/2011. Bà Yingluck là nữ Thủ tướng Thái Lan đầu tiên trong lịch sử quốc gia này và là thủ tướng trẻ tuổi nhất Thái Lan trong vòng 60 năm qua.
Cristina Fernández de Kirchner sinh ngày 19/2/1953. Bà là đương kim tổng thống thứ 55 của Argentina và là góa phụ của người tiền nhiệm Néstor Kirchner. Bà Cristina là nữ tổng thống đầu tiên của Argentina được bầu và là bóng hồng thứ 2 giữ cương vị này trong lịch sử. Trước đó, bà Isabel Martínez de Perón đã là tổng thống của Argentina từ năm 1974 đến 1976.
Helle Thorning-Schmidt năm nay 57 tuổi. Bà trở thành Thủ tướng Đan Mạch từ ngày 3/10/2011 và cũng là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đảm nhiệm cương vị này.
Bà đầm thép Angela Merkel là nữ thủ tướng đầu tiên của Đức. Bà năm nay 59 tuổi. Bà Markel đảm nhiệm chức vụ đứng đầu nước Đức từ năm 2005.
Dilma Vana Rousseff sinh năm 1947, là đương kim tổng thống thứ 36 của Brazil. Bà cũng người phụ nữ đầu tiên ở quốc gia Mỹ La tinh này trở thành người đứng đầu đất nước.
Julia Eileen Gillard sinh năm 1961, hiện là thủ tướng thứ 27 của Australia. Bà đảm nhiệm công việc này từ tháng 6/2010 và cũng là bóng hồng đầu tiên trong lịch sử quốc gia này làm thủ tướng.
Ellen Johnson Sirleaf năm nay 64 tuổi, là tổng thống thứ 24 của Liberia. Trước đó, bà đã là bộ trưởng Tài chính từ năm 1979 đến năm 1980 dưới thời của Tổng thống William Tolbert. Cho đến nay, bà đã là tổng thống của Liberia được 7 năm. Bà là phụ nữ châu Phi đầu tiên trở thành người đứng đầu nhà nước.
Sheikh Hasina sinh năm 1947, là Thủ tướng Bangladesh từ năm 2009. Trước đó, bà cũng có một giai đoạn làm thủ tướng nước này từ 1996 đến 2001. Bà Sheikh cũng chính là con gái đầu lòng của Tổng thống Bangladesh đầu tiên,
Sheikh Mujibur Rahman.
Laura Chinchilla Miranda năm nay 54 tuổi và là tổng thống nữ đầu tiên của Costa Rica trong lịch sử nước này. Bà là phụ nữ thứ 6 trong lịch sử châu Mỹ La tinh giữ cương vị tổng thống và tổng thống nữ đầu tiên của Costa Rica từ tháng 5/2010.
Jóhanna Sigurðardóttir sinh năm 1942, là thủ tướng của Iceland. Bà cũng là nữ thủ tướng đầu tiên của quốc gia này đồng thời là nhà lãnh đạo Chính phủ đầu tiên công khai đồng tính.
Kamla Persad-Bissessar sinh năm 1952, là nữ thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Trinidad và Tobago. Bà nhậm chức tháng 5/2010.
Dalia Grybauskaitė là tổng thống của Lithuania, bà nhậm chức tháng 7/2009. Bà Dalia là người phụ nữ đầu tiên ở đất nước này giữ cương vị đứng đầu nhà nước.

 

Một thời để Người Kitô hữu nhập thế

Một thời để Người Kitô hữu nhập thế

Bài của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI
Đan Quang Tâm dịch
Giáng sinh là một thời gian vui vẻ hân hoan và một dịp để suy tư sâu sắc, Đức
giáo hoàng Bênêđictô XVI nói
“Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” là câu trả lời của
Đức Giêsu khi được hỏi về việc đóng thuế. Dĩ nhiên, những kẻ hỏi Người đang gài
bẫy Người. Họ muốn buộc Người phải đứng về phía nào trong cuộc tranh luận chính
trị nảy lửa về việc cai trị của Rôma tại đất nước Israel. Cái bẫy nằm ở chỗ
này: Nếu Đức Giêsu quả thực là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, thì Người chắc
chắn sẽ chống lại những kẻ thống trị Rôma. Cho nên câu hỏi đã được suy tính
nhằm làm cho Đức Giêsu phải lộ diện như một mối đe dọa đối với chế độ hoặc như
một kẻ lừa đảo.
Câu trả lời của Đức Giêsu khéo léo chuyển cuộc tranh luận lên một bình diện cao
hơn, nhẹ nhàng khuyến cáo đừng có chính trị hóa tôn giáo lẫn thần thánh hóa quyền lực nhất thời, để mà mê mải tìm kiếm của cải.
Những kẻ đang nghe Người nói cần được nhắc nhở rằng Đấng Mêsia không phải là Xêda, và Xêda không phải là Thiên Chúa. Vương quốc mà Đức Giêsu đã đến để thiết lập thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn cao hơn. Như Người đã bảo Phongxiô Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Những câu truyện Giáng sinh trong Tân ước nhằm chuyển tải một sứ điệp tương tự.
Đức Giêsu sinh vào thời có chiếu chỉ “kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ”
của Xêda Augúttô, vị hoàng đế nổi tiếng với việc mang Pax Romana (nền hòa bình
của đế quốc Rôma – người dịch) đến các vùng đất dưới quyền thống trị Rôma. Thế
nhưng, hài nhi này, được sinh ra ở một góc hẻo lánh và xa xôi của đế quốc, sẽ
cống hiến cho thế giới một nền hòa bình lớn lao hơn nhiều, có phạm vi thực sự
mang tính hoàn vũ và vượt trên mọi giới hạn về không gian và thời gian.
Đức Giêsu được trình bày với chúng ta như người thừa kế của Vua Đavít, thế
nhưng sự giải thoát mà Người mang lại cho dân Người lại không phải về việc đánh
đuổi quân thù; sự giải thoát của Người là về việc chiến thắng vĩnh viễn tội lỗi
và sự chết.
Việc Đức Kiô giáng sinh thách thức ta đánh giá lại các ưu tiên của ta, các giá trị của ta, chính cách sống của ta. Hiển nhiên Giáng sinh là một khoảng thời gian để ta vui vẻ hân hoan, nhưng đó cũng là một dịp để ta suy tư sâu sắc, thậm chí để ta vấn tâm xét mình. Vào cuối một năm rất khó khăn về kinh tế đối với nhiều người, ta có thể học được gì từ cảnh khiêm hạ, nghèo khó, đơn sơ của hang Bêlem?
Giáng sinh có thể là thời gian để ta học đọc Tin Mừng, học biết Đức Giêsu không
những chỉ là hài nhi nơi máng cỏ, mà còn là  hài nhi trong đó ta nhận ra Thiên Chúa đã làm người. Chính nơi Tin Mừng các Kitô hữu tìm thấy nguồn linh hứng cho cuộc sống hàng ngày của mình và tham gia các việc trần thế – cho dù tại Quốc hội hay thị trường chứng khoán. Người Kitô hữu không được xuất thế xa lánh thế gian; họ cần nhập thế. Thế nhưng việc họ tham gia chính trị và kinh tế cần phải vượt lên trên mọi hình thái ý thức hệ.
Người Kitô hữu đấu tranh chống nghèo đói, xuất phát từ sự nhìn nhận phẩm giá
tối cao của mỗi con người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được dành
ban cho sự sống đời đời. Họ cộng tác nhằm chia sẻ công bằng hơn các tài nguyên
của trái đất, xuất phát từ niềm tin rằng – với tư cách người quản lý các tạo thành của Thiên Chúa – chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc những người yếu nhất và dễ bị thương tổn nhất. Các Kitô hữu chống lại sự tham lam và bóc lột, xuất phát từ niềm xác tín rằng sống quảng đại và yêu thương vô vị kỷ, như Đức Giêsu Thành Nazareth đã dạy và đã sống, là con đường dẫn đến sự sống viên mãn. Niềm tin vào vận mệnh siêu việt của mỗi người khiến cho công tác cổ vũ hòa bình và công lý cho mọi người trở nên khẩn cấp.
Vì các mục tiêu này được biết bao người chia sẻ, nên việc hợp tác sinh hoa kết
quả giữa các Kitô hữu và những người khác là điều có thể thực hiện được. Thế
nhưng người Kitô hữu chỉ trả lại cho Xêda những gì thuộc về Xêda, chứ không
phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Trong lịch sử, đôi khi người Kitô hữu không
thể tuân thủ những đòi hỏi của Xêda. Từ thói tôn thờ hoàng đế thời cổ đại Rôma
đến những chế độ toàn trị trong thế kỷ qua, các Xêda đã cố chiếm đoạt vị trí
của Thiên Chúa.
Khi người Kitô hữu từ chối cúi mình trước các thần ngụy tạo được đề xuất thời nay, thì điều đó không xuất phát từ một thế giới quan cũ mèm. Sở dĩ như vậy là vì họ hoàn toàn tự do thoát khỏi những kiềm tỏa của ý thức hệ, và được linh hứng bởi tầm nhìn về vận mệnh con người, cao quý đến nỗi họ không thể nào thỏa hiệp với bất kỳ điều gì đe dọa tầm nhìn đó.
Tại Ý, người ta dựng nhiều cảnh hang Bêlem nổi bật trước hậu cảnh các phế tích
dinh thự Rôma thời cổ đại. Điều này cho thấy sự ra đời của hài nhi Giêsu đã
đánh dấu sự kết thúc trật tự cũ, thế giới ngoại giáo, trong đó các yêu cầu của
Xêda hầu như không thể tranh cãi được. Bây giờ đã có một vì vua mới, vị vua này không cậy vào sức mạnh của vũ khí, nhưng dựa vào sức mạnh của tình yêu.
Người mang hy vọng đến cho tất cả những ai, cũng giống như Người, đang sống bên
lề xã hội. Người mang hy vọng đến cho tất cả những người dễ bị thương tổn trước
các biến động kinh tế của một thế giới bấp bênh. Từ máng cỏ, Đức Kitô kêu gọi chúng ta hãy sống như những công dân của nước trời do Người lập, một vương quốc mà tất cả các người thiện chí đều có thể góp phần xây dựng tại đây, trên trái đất.
Tác giả là Giám mục Rôma và tác giả “Đức Jesus Thành Nazareth:  Các Trình
Thuật Thời Thơ Ấu”
Đan Quang Tâm dịch

TRUNG THÀNH VÀ CHÂN THẬT

TRUNG THÀNH VÀ CHÂN THẬT

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

nguồn:thanhlinh.net

… Cách đây vài năm, vào dịp Lễ Giáng Sinh, tờ ”Ecco tua Madre – Đây là Mẹ con” đăng chứng từ của anh Jean – cựu tù nhân – về một vị Linh Mục anh dũng người Hoa. Vị Linh Mục là đan sĩ cao niên dòng Xitô. Anh Jean là tín hữu Công Giáo người Pháp. Xin giới thiệu trọn chứng từ.

Nơi trại tù lao động cải tạo Trung Cộng ở phía nam Bắc Kinh, vào cuối năm 1961,
tôi nhìn thấy vị Linh Mục lần chót. Từ đó đến nay bao năm trôi qua, nhưng cứ
mỗi độ Giáng Sinh về, khuôn mặt gầy guộc của vị Linh Mục lão thành người Hoa
lại hiện lên rõ nét trong ký ức tôi. Đó là một khuôn mặt nhăn nheo với đôi mắt
tinh anh không dễ bị chế ngự. Tôi có cảm tưởng như lại trông thấy vị Linh Mục
đứng đó, trong cơn gió lạnh, tay cầm bánh và rượu giơ lên đọc Lời Truyền Phép,
với ý thức rõ ràng mình sẽ gặp hiểm nguy nếu bất chợt bị khám phá điều đang
làm.

Tôi biết Cha Xuân – tạm gọi tên vị Linh Mục người Hoa – vào đầu năm xa xôi ấy,
khi một toán tù nhân đông đảo được chuyển đến trại chúng tôi dưới sự canh chừng
khe khắt của ông cai tù tên Giang. Tôi được chỉ định làm trưởng nhóm tù nhân
gồm 18 người. Chúng tôi có nhiệm vụ rửa chuồng heo, khuân vác các bao phân bón
và chôn cất người chết. Cha Xuân ngủ trên chiếc chiếu nằm bên cạnh tôi.

Ngay từ ngày có mặt giữa chúng tôi, Cha Xuân trở thành đối tượng khiến mọi
người phải lo âu. Cha mang dáng dấp của một cụ già thật yếu ớt, vậy thì làm sao
có thể chu toàn các công tác lao động vô cùng nặng nhọc? Hơn thế nữa – và đây
mới là mối bận tâm lớn lao nhất của chúng tôi – Cha là một đan sĩ Xitô và vì
thế, Cha luôn luôn nói với chúng tôi về THIÊN CHÚA. Cha nhắc chúng tôi nhớ rằng
THIÊN CHÚA sẽ luôn luôn trợ giúp chúng tôi nếu chúng tôi không đánh mất Đức Tin
nơi Ngài.

Mà thật sự thì chúng tôi bỏ mất Đức Tin từ lâu lắm rồi! Chính những người cộng
sản vô thần đã nghĩ đến điều này và đã lo liệu cho chúng tôi. Đối với người
cộng sản thì tôn giáo là thuốc phiện mê dân, là mê tín dị đoan và nó đã hoàn
toàn bị tước bỏ khỏi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc rồi! Nếu có ai còn ngoan cố tin
vào sự hiện hữu của một quyền lực cao hơn quyền lực của ông chủ tịch
Mao-Trạch-Đông, thì người ấy sẽ bị nghiêm khắc trừng phạt, bị kết án tử! Nói
tóm lại, các Kitô hữu bị bách hại cũng chỉ vì cái tội dám công khai thờ lạy
THIÊN CHÚA của đế quốc thực dân!

Cha Xuân – là người hơn ai hết – phải biết rõ hiểm nguy đó, vì Cha bị kết án 20
năm tù cải tạo lao động chỉ vì cái tội duy nhất là làm Linh Mục!

Vậy mà Cha không sợ hãi gì hết. Cha cứ tiếp tục cầu nguyện và sống đạo, dũng
mạnh y như Kitô Giáo của Cha. Tất cả tù nhân chúng tôi biết thế, nên để Cha yên
và dĩ nhiên là tìm cách xa lánh Cha. Chúng tôi đã có quá nhiều nguy hiểm rồi,
không cần gánh thêm cái hiểm nguy đến từ tôn giáo của Cha Xuân! Nhưng Cha Xuân
không mảy may khiếp sợ. Tôi không biết làm thế nào mà Cha Xuân khám phá ra tôi
là tín hữu Công Giáo duy nhất trong nhóm tù nhân, ngoài Cha ra.

Một ngày trong lúc nghỉ xả hơi, Cha Xuân tiến lại gần tôi và nói:

– Con vẫn luôn là tín hữu Công Giáo tốt phải không? Nhất là con vẫn giữ đạo
trong lòng phải không?

Tôi mệt mỏi cau có trả lời:

– Tôi là tù nhân, ông lão ơi! Hãy để tôi yên thân!

Cha Xuân có vẻ như không nghe lời tôi nói nên vẫn tiếp tục:

– Chúng ta có thể cầu nguyện chung, Jean à! Rồi Cha cũng có thể nghe con
xưng tội nữa!

Tôi tỏ ra sừng sộ – vì sợ mấy tù nhân chung quanh có thể nghe lời ông cụ già
điên khùng này – nên tôi nói:

– Nếu ông muốn tự đưa đầu cho người ta chém thì đó là chuyện của ông. Còn tôi,
tôi muốn cứu lấy mạng sống tôi. Ông có hiểu không?

Nhưng lời nói vô lễ của tôi vẫn không làm Cha Xuân phật ý. Cha dịu dàng tiếp
tục:

– Không sao hết con à, Cha hiểu! Cha chỉ muốn con nhớ rằng Cha là bạn của con.

Rồi Cha Xuân lãng ra xa để lấy cái bao phân bón mang đi. Đôi môi Cha mấp máy
đọc lời Kinh Mân Côi.

Mặc dầu thân xác gầy gò ốm yếu, nhưng người ta không thể hiểu được làm sao mà
Cha Xuân lại có thể gánh hai bao phân – mỗi bao nặng 35 ký – và bước đi trên
đường đất gồ ghề. Người Cha như gập làm đôi dưới sức nặng quá lớn. Chưa hết.
Chẳng những Cha thi hành công tác dành cho Cha mà còn làm thêm công tác của
những người ốm yếu hơn Cha! Thật là chuyện không thể tưởng tượng được! Có lần
một người trong chúng tôi đặt câu hỏi:

– Ai biết điều gì ban sức mạnh cho cụ già vẫn tiếp tục tiến bước không?

Một người nhanh nhẹn trả lời:

– Chính THIÊN CHÚA! Khi ông cai tù không canh gác thì THIÊN CHÚA ngự xuống
và vác cái bao phân bón cho cụ già!

Câu giải thích khiến mọi người cất tiếng cười vang. Chúng tôi có rất ít dịp để
cười! Chúng tôi lao động từ sáng sớm tới chiều tối mà phần ăn thì thật ít ỏi.
Tối đến thì ngủ trong cái chòi giam đầy dẫy ruồi muỗi kêu vo ve. Mỗi ngày đều
phải chôn cất người chết. Chúng tôi phải mang xác chết leo lên đồi để chôn ở
nghĩa trang.

Mùa hè năm ấy tôi nghĩ là đã đến lượt tôi sẽ được chôn cất nơi nghĩa trang. Tôi
bị suy nhược vì lao động quá mức và vì thiếu dinh dưỡng. Tôi bị ngất xỉu nhiều
lần nên được mang lên bệnh xá. Trong mấy ngày liền tôi mê man bất tỉnh.

Rồi một đêm, khi tỉnh lại, tôi thấy Cha Xuân đang ngồi cạnh tôi và quạt gió mát
lên mặt tôi. Cha lén lút đút vào miệng tôi cháo nóng được nấu bằng gạo và rau.
Sau mỗi muỗng cháo, tôi cảm thấy như sức lực dần dần hồi phục trong tôi. Rồi
Cha Xuân thì thầm vào tai tôi:

– Họ có thể hành hạ và giết chết thân xác chúng ta, con à. Nhưng họ không
thể nào chạm đến linh hồn chúng ta. Chính chúng ta có nhiệm vụ gìn giữ linh hồn
chúng ta. Hơn thế nữa, còn có Đức Mẹ MARIA trợ giúp chúng ta.

Sau đó Cha Xuân còn đến thăm tôi ba lần nữa và mỗi lần đều mang theo cháo nóng.
Chỉ vào tháng 9 khi đủ sức trở lại lao động với nhóm tù nhân, tôi mới biết Cha
Xuân đã thành công trong việc cổ động các tù nhân khác tìm kiếm rau cỏ ăn được
trong các giờ nghỉ, còn chính Cha thì lén lút lấy trộm mỗi khi một ít gạo, rồi
để dành cho đến lúc đủ số lượng nhỏ thì bắt nồi lên nấu cháo. Tôi cảm động cám
ơn Cha Xuân và hổ thẹn vì đã cư xử bất nhã bất kính đối với vị Linh Mục lão
thành.

Một ngày, Cha Xuân kể cho tôi nghe câu chuyện Cha bị bắt giam.

Vào năm 1947, mấy người cộng sản hùng hổ tiến vào chiếm quyền cai trị nơi thành
phố quê sinh của Cha. Cha vắng mặt ở Đan Viện Xitô, và lúc trở về thì thấy các
anh em đan sĩ đã bị giết chết, còn đan viện thì bị đập phá tan tành. Các người
lính cộng sản sát máu trông thấy Cha liền bắt Cha tống giam. Sau khi bị tra
khảo trong vòng 2 năm trời, Cha bị kết án 20 năm tù ”cải tạo bằng lao động”.
Nghe xong tôi nhẹ nhàng nhận xét:

– Thôi thì ít ra là Cha vẫn còn sống!

Cha nhìn thẳng mặt tôi và nói:

– Cha còn sống bởi vì Chúa muốn thế. Cha tin rằng Chúa muốn trao cho Cha một
sứ vụ. Nếu không phải như thế thì Cha ao ước được thông phần số phận của các
đan sĩ anh em của Cha hơn!

Tháng 11 cùng năm ấy – 1961 – ông cai tù Giang chỉ định tôi làm trưởng nhóm tù
nhân có nhiệm vụ chuẩn bị cánh đồng lúa ở trại 23. Một thời ngắn sau đó ông gọi
tôi đến và nói rằng có người báo cáo cho ông biết là Cha Xuân cầu nguyện lén
lút vào ban đêm. Rồi ông hét lớn:

– Có đúng vậy không?

Tôi mỉm cười nói vớt vát:

– Không phải vậy đâu, đó chỉ là chuyện một ông già lao lực suốt ngày nên đêm
đến thì mệt mỏi và nói ú ớ trong giấc ngủ thôi!

Ông Giang nhìn chằm chặp mặt tôi dò xét hồi lâu rồi nói với giọng hăm dọa:

– Nếu ngày nào tôi biết được là ông ấy đọc kinh thì tôi sẽ nghiêm khắc trừng
phạt cả nhóm và đặc biệt là hai người. Phải nói cho ông ta biết như thế.

Vừa về đến chòi giam tôi tìm gặp ngay Cha Xuân và nói:

– Xin Cha ý tứ. Con có thể bị biệt giam vài tháng. Nhưng Cha thì .. mạng sống
lâm nguy.

Cha Xuân bình thản nhìn tôi và nói:

– Mạng sống của Cha quan trọng đến thế sao?

Rõ thật khổ, không có cách gì làm cho cụ già này lý luận bình thường được!

Tháng 12 đến. Trời lạnh cắt da và gió buốc thổi từ đông bắc đến. Một ngày gần
cuối tháng 12, Cha Xuân tìm đến gặp tôi nơi bờ ruộng và hỏi xem Cha có thể nghỉ
ngơi vài phút không. Tôi nói:

– Còn chút nữa thì đến giờ nghỉ. Cha không đợi được sao?

Cha đáp:

– Không, bởi vì sau đó thì tới giờ lính canh đến.

Có lẽ Cha muốn nói thêm điều gì đó nhưng không biết nói sao nên Cha hỏi tôi:

– Con có biết hôm nay ngày gì không?

Tôi khó chịu trả lời:

– Thứ hai 25 tháng 12!

Nói xong tôi bỗng im lặng vì trong tích-tắc tôi hiểu rằng, không phải chỉ là Lễ
Giáng
Sinh mà là cụ già muốn cầu nguyện! Tôi nói gần như khẩn khoản:

– Cha biết rõ đây là hiểm nguy mà!

Cha Xuân bình tĩnh nói:

– Nhưng Cha phải cầu nguyện. Rồi Cha cũng muốn con cầu nguyện với Cha nữa,
bởi vì chỉ với riêng hai chúng ta thì ngày này mới có một ý nghĩa gì đó. Đức
Chúa GIÊSU đã sinh ra từ Đức Trinh Nữ MARIA!

Tôi nhìn quanh quất. Không thấy lính canh, còn tù nhân gần nhất thì đang đứng ở
giữa đường từ trại đến. Tôi nói:

– Cha xuống cái hố khô nước đi. Con chỉ cho Cha 15 phút thôi. Không hơn đâu
nhé!

Cha hỏi:

– Con không xuống sao?

Tôi đáp:

– Con đứng ở đây!

Thật là những giây phút kinh hoàng tiếp theo đó. Cứ mỗi lần nghe tiếng gió rít,
tôi có cảm tưởng như nghe tiếng hét của lính canh. Thế rồi, không hiểu một cái
gì đó giúp tôi thắng vượt nỗi sợ hãi và đẩy nhanh tôi xuống cái hố. Và điều tôi
trông thấy như muốn đè bẹp tôi.

Lần đầu tiên từ bốn năm qua – tôi quên bẵng ông cai tù Giang và trại tù – để
chỉ còn nhớ thế nào là điều thật ý nghĩa khi tin tưởng vào một cái gì đó cao cả
hơn là cuộc sống bình thường.

Dưới cái hố khô nước, Cha Xuân đang cử hành Thánh Lễ. Thánh Đường là mảnh đất
hoang nằm ở miền Bắc Trung Quốc. Bàn Thờ là cụm đất cứng lạnh. Áo Lễ là chiếc
áo tù nhân. Chén Lễ là cái tách bể. Rượu Lễ được vắt từ mấy trái nho được cẩn
thận cất giữ. Bánh Lễ là một miếng bánh khô. Không có nến cháy nhưng thay vào
đó là cành củi cháy. Ca Đoàn là tiếng gió rít liên tục như làm thành bản Thánh
Thi. Hình như ngọn lửa nhỏ mang lời cầu nguyện của vị Linh Mục lão thành anh
dũng bay đến tận Trời Cao và ngọn gió mang đi phân phối đến tận bốn gốc bể chân
trời.

Trong phút chốc tôi bỗng cảm thấy niềm ao ước sâu xa được san sẻ Đức Tin của
Cha Xuân. Tôi nghĩ rằng không nơi nào trên thế giới, kể cả trong những thánh
đường đồ sộ nguy nga nhất của Kitô Giáo, không ai có thể cử hành – vào đúng
ngày Lễ Giáng Sinh – một Thánh Lễ ý nghĩa như thế.

Một cách vô thức không ngờ, tôi bỗng cất cao lời thánh thiêng:

– Et cum spiritu tuo – Và ở cùng Cha!

Không hề lộ vẻ ngạc nhiên Cha Xuân đọc tiếp như khích lệ tôi:

– Ite Missa est – Lễ đã xong!

Miệng tôi phát ra lời kinh tưởng chừng như quên bẵng từ rất lâu:

– Deo gratias – Tạ ơn Chúa!

Thánh Lễ đã kết thúc.

Cha Xuân nói với tôi:

– Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta và hiểu rằng chúng ta không thiếu sự tôn
kính. Đây chỉ là cách thức thích hợp nhất cho hoàn cảnh của chúng ta!

Tôi thấy cổ họng nghẹn cứng. Nỗi sợ hãi lớn lao nhất của Cha Xuân không phải là
sợ bị bắn chết mà là sợ xúc phạm đến THIÊN CHÚA! Sau cùng, điều

mà vị Linh Mục lão thành cố gắng làm cho tôi hiểu suốt trong thời gian này
chính là:

– Sự sống còn – như bất cứ loài động vật nào – tạo nên từ sự khéo-léo ma-lanh
và làm cho khiếp đảm, thì không thể đủ cho con người. Con người cần phải có cái
gì khác bên trên chính con người để có thể sống còn, như một giấc mơ, một niềm
tin chẳng hạn.

Tôi nói với Cha Xuân:

– Con tin là Chúa sẽ hiểu và sẽ tha thứ cho chúng ta.

Cha Xuân đáp:

– Cám ơn con, Jean à! Xin THIÊN CHÚA bảo vệ con. Xin Đức Mẹ MARIA chúc lành cho
con.

Và lần đầu tiên kể từ bốn năm qua, tôi tin rằng lời Cha Xuân nói đã ứng nghiệm.
Vừa lúc đó thì tôi trông thấy ông cai tù tên Giang đang đạp xe về hướng cái hố
khô nước. Trong chớp nhoáng tôi đủ giờ để nhảy xuống hố và làm bộ giơ tay trên
ngọn lửa như tìm cách sưởi ấm, trước khi ông ta kịp nhìn xuống hố nghi ngờ dò
xét. Ông ta hạch hỏi:

– Mấy người làm gì dưới hố?

Tôi trả lời đánh trống lãng kèm theo nụ cười ngây thơ:

– Cụ già muốn làm chút lửa để sưởi ấm.

Ông Giang hét lớn:

– Công việc chỉ được ngừng khi đến giờ nghỉ, chứ không phải trước giờ nghỉ! Hãy
trở lại với công việc đang làm!

Vài ngày sau biến cố trên đây diễn ra cuộc thay đổi và di chuyển tù nhân.

Cha Xuân không còn ở chung đội tù với tôi nữa. Và từ đó trở đi tôi không còn
trông thấy Cha Xuân nữa. Nhưng cái ngày đáng ghi nhớ ấy vẫn ghi khắc trong ký
ức tôi suốt trong thời gian kinh hoàng còn lại của cuộc sống lao động tù đày.
Nó nằm sâu nơi một góc nhỏ an toàn kín ẩn trong trái tim tôi mà không một ai có
thể lọt vào, kể cả ông cai tù Giang và các tên lính canh. Thật an toàn và không
sợ hãi.

Có lẽ hôm nay khi tôi viết những hàng này thì Cha Xuân vẫn còn sống. Hay có lẽ
Cha đã trở thành người thiên cổ. Nhưng cho dầu những người cộng sản Trung Hoa
đã giết chết Cha, thì họ cũng chỉ có thể giết chết thân xác Cha mà thôi, còn
hồn thiêng bất tử của Cha, họ vẫn không thể nào chạm tới.

… ”Bấy giờ tôi thấy Trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi
ngựa mang tên là ”Trung Thành và Chân Thật”, Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ”Lời của THIÊN CHÚA”. Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai mịn trắng tinh. Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để chém muôn nước.
Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của THIÊN CHÚA Toàn Năng. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: ”VUA các vua, CHÚA các chúa”

(Sách Khải Huyền 19,11-16)
.

(”PRO DEO ET FRATRIBUS – Famiglia di Maria”, Veniva nel mondo La Luce Vera,
Novembre/Dicembre 2009, Publicazione mensile, Anno 20, N 144-145, trang 8-13)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn:vietvatican.ne

 

Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho hòa bình trong thông điệp Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho hòa bình trong thông
điệp Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh lễ Đêm Giáng Sinh tại Đại giáo đường Thánh Phê-Rô, 24/12/2012.
25.12.2012
Đức Giáo hoàng Benedicto 16 đã cầu nguyện cho hòa bình, nhất là ở vùng Trung Đông, trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh, giữa lúc tín đồ Cơ đốc giáo trên khắp thế giới mừng ngày Chúa Giê Su ra đời hơn 2.000 năm trước.
Phát biểu trước các tín đồ tại Đại giáo đường Thánh Phê-Rô đông nghẹt người hồi
tối thứ hai, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt đổ máu ở Syria, Li Băng, Iraq và
các nước láng giềng.
Ngài cũng cầu nguyện cho Israel và Palestine có thể chung sống hòa bình với nhau.
Hàng vạn du khách trên khắp thế giới tụ tập ở thị trấn Bethlehem ở Vùng Tây
Ngạn để mừng ngày lễ ở nơi mà người ta tin là Chúa Giê Su chào đời.
Người Palestine chủ nhà đặc biệt vui mừng trong lễ Giáng Sinh năm nay vì tháng
trước Palestine được Liên hiệp quốc thừa nhận là một quốc gia độc lập.
Trong bài thuyết giảng trước Giáng Sinh hàng năm, Giám mục Fouad Twal, chức sắc
hàng đầu của Giáo hội Thiên chúa giáo La mã trong khu vực, đã tán dương thành
tựu đó của người Palestine và thúc giục họ làm việc chung với người Israel để
chấm dứt cuộc xung đột dường như không có hồi kết trong khu vực.

Chúc mừng Lễ Giáng Sinh và năm mới 2013:

Nhân mùa Chúa Giáng Sinh và năm mới 2013:

Ban Biên Tập “Kẻ đi tìm” xin Cầu chúc các bạn:

Nim tin làm mi th trnên dễ dàng;

Hy vng làm mi th đều chất chứa niềm vui.

Tình yêu làm mi thđều  tốt đẹp.

Thân mến Chúc bn có c3 điu y
trong mùa Giáng Sinh này và mãi mãi về sau.

18 lÝi chúc ¥n t°ãng nh¥t ngày lÅ Noel - 1

Xin mời thưởng thức:

We wish you a Merry Christmas Song Video! – lyrics

httpv://www.youtube.com/watch?v=V_S0Rd48hfU

Abba – Happy New Year

httpv://www.youtube.com/watch?v=3Uo0JAUWijM

Cám ơn Nguyễn Thọ đã gởi hai Video này.

10 bức ảnh khiến dân mạng rơi nước mắt

10 bức ảnh khiến dân mạng rơi nước mắt
1. Tình bạn chân thành của hai cậu bé
2. Cậu bé 2 tuổi khóc bên xác mẹ
3. Học sinh quỳ đất trong lễ khai giảng
4. Cậu bé ôm di ảnh mẹ thiệt mạng tại Nga

Ngày 11.09.2012 vừa qua đã xảy ra vụ hỏa hoạn kinh hoàng tại một xưởng may tại
Nga khiến 14 công nhân Việt Nam thiệt mạng. Trong ảnh là cậu bé Nguyễn Ngọc
Minh (10 tuổi, quê Nghệ An) khi đi nhận di hài của mẹ tại sân bay. Cậu bé ngồi
gục trên sàn, một tay cầm di ảnh của mẹ, một tay ôm mặt khóc nức nở. Sau 5 năm
xa cách, Minh “đón” mẹ về nước nhưng mãi mãi không được gặp mẹ nữa.

 

5. Bà cụ mù nép mình bên ghế đá kiếm tiền nuôi con


Giữa đêm Hà Nội mưa lạnh, một bà cụ mù đã gần 90 tuổi ngồi khép nép bên ghế đá ở Hồ Gươm, trên người chỉ có bộ quần áo mỏng và chiếc áo mưa đã sờn rách. Cụ vừa tránh mưa vừa mong bán thêm được chút hàng để kiếm tiền nuôi những đứa con tàn phế và không nghề nghiệp.
6. Hai anh em mồ côi ngủ trên bậc cầu thang

Đây là hình ảnh hai em nhỏ mồ côi ôm nhau ngủ vội bên bậc cầu thang, quần áo
đen bẩn, rách rưới, bên cạnh chỉ có một bình nước nhỏ. Nỗi mệt mỏi, nhọc nhằn
còn hằn sâu trên khuôn mặt của hai em khiến người xem không khỏi xót xa.

7. Nghị lực sống của người đàn ông không tay, không chân

 

Một người đàn ông không còn tay, không chân và chỉ có thể di chuyển trên tấm trượt. Hoàn cảnh của người đàn ông này khiến nhiều người thương cảm, nhưng nghị lực sống phi thường của anh khiến không ít người phải ngưỡng mộ.
8. Em nhỏ ăn thức ăn thừa trên đường
Thêm một bức ảnh khiến nhiều người rơi nước mắt vì nỗi cực khổ của  những em nhỏ lang thang, cơ nhỡ. Trong ảnh là một em nhỏ trong bộ quần áo cũ rách đang nhặt nhạnh thức ăn thừa mà người ta rơi vãi trên đường để ăn vội qua cơn đói khát.

9. Em nhỏ bị bỏ rơi trên lan can đường

Bức ảnh này có thể khiến bất cứ ai bật khóc. Một người mẹ nhẫn tâm  nào đó đã bỏ rơi đứa trẻ và đặt trên bụi cây ven đường khi trên người chỉ quấn mảnh vải mỏng. Đáng thương hơn, em nhỏ đã bị côn trùng bò kín khắp người.

10. Hai chị em nghèo bên bãi rác

Cám ơn anh chị Thụ & Mai gởi
Xem các hình trên ai cũng phải rơi lệ.

Hoa Kỳ chuẩn bị hợp tác quân sự với Miến Điện

Hoa Kỳ chuẩn bị hợp tác quân sự với Miến Điện

DR

Trọng Thành
nguồn: RFI

Theo AFP hôm qua 19/12/2012, một giới chức quốc phòng cao cấp của Mỹ cho biết Washington dự định bước đầu hợp tác quân sự với Miến Điện, nhằm cổ vũ làn sóng cải cách của tân chính quyền Miến Điện. Việc hợp tác quân sự song phương sẽ được tiến hành « từng bước một ».

Giới chức Mỹ xin giấu tên tuyên bố : « Chúng tôi ủng hộ chủ trương : Một mối quan hệ quân sự thận trọng và có trọng điểm, là tích cực đối với các cải cách tại Miến Điện ». Giới chức quân sự Mỹ giải thích thêm, hợp tác quân sự với chính quyền Naypyidaw sẽ diễn ra trong một« tương lai gần ». Mỹ sẽ hỗ trợ Miến Điện trong các hoạt động phi tác chiến như tập huấn quân y, trợ giúp nhân đạo, cũng như hỗ trợ cải cách bộ máy quản lý quốc phòng.

Mới đây, hai viên chức Lầu Năm Góc đã tới Miến Điện trong đoàn công du của Bộ Ngoại giao Mỹ để thảo luận về khả năng hợp tác giữa hai nước.

Hồi tháng 10/2012, Washington cho biết sẵn sàng mời Miến Điện tham gia cuộc tập trận tại Thái Lan, giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh, vào năm tới 2013 với tư cách quan sát viên.

Quan hệ song phương Hoa Kỳ – Miến Điện hoàn toàn thay đổi về chất, kể từ khi chính quyền gồm những cựu quân nhân theo đường lối cải cách lên thay thế tập đoàn quân sự vào đầu năm 2011. Quan hệ nống ấm giữa hai bên được đánh dấu đặc biệt với chuyến công du của tổng thống Barack Obama tới Miến Điện vào ngày 19/11/2012, tức là chỉ một tuần sau khi ông tái đắc cử. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Mỹ đương nhiệm đặt chân tới quốc gia Đông Nam Á này.