Truyền thông CSVN còn cần thiết tồn tại nữa không?- *Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

January 7, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Sự nổi tiếng của hành giả Minh Tuệ trong năm 2024 là một trong số ít các sự kiện rất đáng kể về phương diện tôn giáo tại Việt Nam. Vì lẽ, từ biết bao lâu nay, công chúng đã mất lòng tin vào sự chân thật của hàng ngũ tu sĩ Phật giáo mà đại đa số thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do chế độ thành lập.

Nhưng với hành giả Minh Tuệ, công chúng hoàn toàn tin cậy vào sự chân thật của ông ấy. Thậm chí, sự tin cậy còn đến từ nhiều vị tu sĩ của các tôn giáo khác khi họ công khai thừa nhận điều đó khi rao giảng cho tín đồ của mình. Trong đó, cách thức tu hành tối giản của ông ấy với một bát, ba y, không chùa, không tượng, không thuyết pháp rao giảng, không thu nạp đệ tử, xưng hô khiêm nhường, bộ hành khất thực cho một bữa ngọ, từ chối nhận cúng dường vật phẩm, tiền tài…

Nhà sư Thích Minh Tuệ tu theo pháp môn hạnh đầu đà. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Pháp môn hạnh đầu đà đã hoàn toàn đối lập với cách thức tu hành bằng cách xây chùa to, dựng tượng lớn, trang phục lòe loẹt, danh hiệu cao đạo, thứ bậc phức tạp, thay cho thuyết pháp là luôn miệng yêu cầu cúng dường bằng tiền bạc, tài sản có giá trị của các tu sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Thực ra, việc bộ hành khất thực dọc theo đường quốc lộ Bắc Nam của hành giả Minh Tuệ không phải mới diễn ra, mà đã kéo dài trong suốt 4 năm qua. Thế nhưng, chỉ đến khi truyền thông “dân lập” nhập cuộc rầm rộ với các Youtuber, thì chính họ đã phổ biến, mang câu chuyện về hành giả Minh Tuệ đến với công chúng trong cả nước, thậm chí, rộng rãi đến cả nước ngoài.

Từ đó, hành giả Minh Tuệ vụt trở nên nổi tiếng và có sức thu hút, ảnh hưởng lớn trong công chúng một cách tự nhiên, ngoài chủ ý của ông ấy. Mỗi bước chân của ông ấy kéo theo hàng nghìn người tìm đến tận nơi để đảnh lễ, cúng dường, chiêm ngưỡng và hàng chục vạn người theo dõi qua mạng xã hội.

Các yếu tố này, một mặt đã phủ nhận cả một hệ thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam to lớn, giàu có, nhưng ít Phật tính do chế độ tạo dựng. Mặt khác, cũng vô hình trung trở thành mối nguy hại tiềm ẩn về an ninh cho chế độ.

Đó cũng là lý do mà chế độ đã ra tay bắt cóc ông ấy tại Huế đưa về Gia Lai vào thượng tuần Tháng Sáu 2024, đồng thời, khuyến khích ông ấy ẩn tu để vô hiệu hóa các yếu tố nguy hại.

Về phương diện pháp lý, biện pháp này của chính quyền đã vi phạm vào quyền tự do tôn giáo của hành giả Minh Tuệ. Khiến cho công chúng phản ứng và tạo nên công luận khiến cộng đồng quốc tế quan tâm, lên tiếng về tình trạng vi phạm nhân quyền.

Sự quan tâm lớn từ công chúng và quốc tế đã khiến chế độ chùn tay đàn áp hành giả Minh Tuệ, khác với trước đây họ đã từng đàn áp nhiều tu sĩ, đến mức độ bỏ tù không xét xử hoặc bí mật thủ tiêu tu sĩ.

Tuy vậy, biện pháp ấy vẫn trở nên kém hiệu quả, khi Gia Lai, một tỉnh vùng cao xa xôi, vắng vẻ vẫn không làm nản lòng dòng người ngưỡng mộ hành giả Minh Tuệ vẫn tiếp tục đổ dồn về đấy để được tiếp xúc với ông.

Do đó, việc đưa hành giả Minh Tuệ ra nước ngoài với danh nghĩa đi hành hương về đất Phật là giải pháp mang tính chất tình thế do chính quyền tạo dựng, trong chừng mực nào đó, nó cũng phù hợp với nguyện vọng của hành giả Minh Tuệ.

Như đã phân tích trên, việc đưa hành giả Minh Tuệ ra nước ngoài chỉ là giải pháp tình thế chứ chưa khắc phục được hoàn toàn mối nguy hại tiềm ẩn về an ninh cho chế độ. Vì sau khi hoàn thành chuyến đi, hành giả Minh Tuệ rất có thể sẽ trở về nước với vị thế và sức ảnh hưởng còn lớn hơn thời điểm trước khi ông ra đi. Vì lẽ, không chỉ người dân trong nước, mà thế giới bên ngoài đã biết đến ông ấy nhiều hơn gấp bội phần thông qua chuyến du hành đến nhiều quốc gia.

Vị thế và sức ảnh hưởng lớn của hành giả Minh Tuệ tỷ lệ thuận với mối nguy hại tiềm ẩn về an ninh cho chế độ. Do đó, công chúng hoàn toàn có lý do để lo ngại rằng chế độ sẽ tiếp tục có biện pháp “cấm cửa” ông ấy trở về Việt Nam hoặc thậm chí, áp dụng các biện pháp cực đoan khác.

Trung Cộng, quốc gia từng được chế độ Cộng Sản Việt Nam xem như là mẫu mực về các chính sách an ninh đã từng có tiền lệ xử lý các vị cao tăng có sức thu hút, ảnh hưởng trong công chúng. Như buộc lưu vong vĩnh viễn đối với trường hợp Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng) là một ví dụ điển hình.

Thế nên, việc chế độ giao cho một người từng là thượng tá an ninh đi theo hành giả Minh Tuệ cùng với nhiều nhân sự và phương tiện như ô tô, máy bộ đàm liên lạc. Cấm đoán hành giả Minh Tuệ tự do tiếp xúc hoặc thu nhận người có nguyện vọng tham gia hành hương… là cách để chế độ kiểm soát, khống chế chặt chẽ hành giả Minh Tuệ trong suốt cuộc hành trình.

Qua đó, trong chuỗi thông tin sự kiện liên quan đến hành giả Minh Tuệ, chúng ta sẽ thấy rất rõ vai trò hết sức nổi bật của hệ thống truyền thông dân lập đã hoàn toàn lấn át vai trò của hệ thống truyền thông của chế độ bao gồm hàng nghìn báo, đài trú đóng trong 63 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó, chính truyền thông dân lập đã đưa sự kiện hành giả Minh Tuệ đến với công chúng chứ không phải truyền thông của chế độ.

Sau khi hành giả Minh Tuệ bị bắt cóc tại Huế đưa về Gia Lai vào thượng tuần Tháng Sáu 2024, truyền thông của chế độ mới được huy động thực hiện buổi phỏng vấn hành giả Minh Tuệ để trấn an công chúng sau những thắc mắc của họ về số phận của ông.

Thế nhưng, dịp truyền thông hiếm hoi ấy lại trở thành thảm họa truyền thông vì không ai tin rằng chúng đã thật sự được thực hiện. Thậm chí, cô Liên Liên, MC của chương trình đó cũng vô tình bị công chúng bêu riếu, cười cợt về tính thực hư của buổi phỏng vấn.

Sau dịp truyền thông đầy thảm họa đó, bất chấp công chúng vẫn tiếp tục duy trì sự quan tâm đến hành giả Minh Tuệ đến mức độ nào đi nữa, truyền thông của chế độ vẫn tiếp tục trở lại với thái độ im lặng đầy khó hiểu.

Một sạp báo lề đường ở Hà Nội. (Hình: Nam Nguyễn/AFP/Getty Images)

Cho đến khi diễn ra sự kiện hành giả Minh Tuệ xuất cảnh với danh nghĩa hành hương về “đất Phật” vào trung tuần Tháng Mười Hai 2024, bộ hành đi qua nhiều quốc gia: Lào, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ… thì truyền thông của chế độ vẫn phải im thin thít.

Điều này không nằm ngoài chủ trương của chế độ trong chủ đích nhằm hạn chế sức lan tỏa, ảnh hưởng của hành giả Minh Tuệ trong công chúng. Mặt khác, “cứu vớt” lòng tin còn sót lại của công chúng vào Giáo Hội Phật Giáo đầy tính chất “xôi thịt” do chế độ tạo dựng.

Không sao cả, truyền thông dân lập vẫn tiếp tục chiếm vị thế thượng phong, phủ sóng rộng khắp. Họ kịp thời đưa đầy đủ thông tin, hình ảnh về chuyến bộ hành xuyên qua nhiều quốc gia ấy đến với công chúng quan tâm.

Đến mức này, công chúng không thể không tự hỏi: Hệ thống truyền thông của chế độ với hàng nghìn báo đài, hàng vạn nhà báo có thẻ, được trang bị phương tiện hiện đại… có còn cần thiết tồn tại nữa hay không?

DC, ngày 06 Tháng Một 2025

Đặng Đình Mạnh


 

Thời kỳ Phục Hưng Hoa Kỳ: Chương trình lần chuỗi Mân Côi có đông người tham dự hơn các chương trình podcast nổi tiếng nhất Hoa Kỳ

Tổng Hợp Báo Chí Đạo và Đời
Đài tin tức Fox News

‘Rosary’ đánh bại Rogan

Joe Rogan là ông vua không thể chối cãi của podcasting Mỹ , tự hào có hợp đồng podcast lớn nhất và lượng người nghe lớn nhất trong số các podcast từng được ghi nhận.

Tuần này, vua của podcasting đã bị thay thế bởi một nữ hoàng (trên trời). Một podcast mới về Kinh Mân Côi đã đánh bại Joe Rogan trên bảng xếp hạng Apple Podcast trong 7 ngày và vẫn đang tiếp tục.

Báo Ý Aleteia

Sự thành công nhanh chóng của một podcast dành riêng cho Kinh Mân Côi

Trong những năm gần đây, Ascension đã chứng minh rằng công chúng lắng nghe mong muốn hiểu sâu hơn về Kinh thánh và giáo lý của Giáo hội với hai podcast thành công vang dội: The Bible in a Year và The Catechism in a Year , cả hai đều do Cha Mike Schmitz dẫn chương trình.

Báo Daily Wire

Podcast ‘Rosary In A Year’ ra mắt ở vị trí số một, vượt qua Joe Rogan

“Rosary in a Year” do Cha Mark-Mary Ames dẫn chương trình là phần tiếp theo của chương trình ăn khách năm 2021 của nhà phát hành Ascension,

Báo Ấn Độ Ngày Nay

Đây là podcast số 1 thế giới …

Chương trình podcast dựa trên đức tin của Cha Mark-Mary Ames, The Rosary in a Year, đã đứng đầu Apple Podcasts, vượt qua Joe Rogan một thời gian ngắn, nhấn mạnh sự quan tâm ngày càng tăng của công chúng đối với nội dung tôn giáo, được cho là xuất phát từ nguồn cảm hứng thiêng liêng và lòng sùng kính chung.

…Cha Mark-Mary Ames, sinh ra và lớn lên tại Quận Cam, California trong một “gia đình giàu có”, cho biết Mẹ Teresa đã truyền cảm hứng cho ông từ bỏ cuộc sống đặc quyền để phục vụ người khác.

“Tôi nghe nói rằng có một nhóm người thuộc dòng Phanxicô ở New York là những người rắn rỏi và nằm ngủ trên nền đất. Rồi tôi đã tìm hiểu về họ, và tôi đọc hiến pháp của Dòng …. và tôi nghĩ, ‘nếu điều đó đúng, thì đó là tất cả những gì tôi đang tìm kiếm.’ Tóm lại, tôi là một đứa trẻ rất, rất là bình thường, trên một con đường đời bình thường. Và rồi Chúa đến và Ngài đã tạo ra sự thay đổi (kỳ diệu) này.” “Tôi được tạo ra để trao tặng cuộc đời mình cho những người nghèo nhất trong số những người nghèo”.

Ông nói thêm. “Trải nghiệm lớn lao, sâu sắc trong cuộc đời tôi là những gì Chúa đã ban trong sự hào phóng. Và vì vậy, không có điều gì tôi đã bỏ lại phía sau hoặc hy sinh mà Người không đền đáp gấp trăm lần. Theo những cách mới mẻ và sâu sắc hơn”.

(Trích đoạn) Đọc thêm tại foxnews.com …

YouTube player

Sự thành công của chương trình podcast “Chuỗi Mân Côi suốt năm” phản ánh nhu cầu được nối kết tinh thần và tỉm ra ý nghĩa của đời sống.

Cha Mark-Mary Ames là Giám đốc Truyền thông của Dòng Phanxicô Khó Khăn (CFR).

Cha Mark-Mary là người dẫn chương trình cho loạt video Ascension Presents The CFRs và là người dẫn chương trình podcast năm 2025 The Rosary in a Year – Chuỗi Mân Côi suốt năm.

Cha Mark-Mary nói: “Người ta từng đọc Kinh Mân Côi và làm thay đổi lịch sử Thế Giới, ta có thể lập lại  điều đó bằng cách lần chuỗi.”

Anh em chúng con làm podcast “chuỗi Mân Côi suốt năm” để khích lệ mọi người suy ngẫm nét đẹp ơn cứu độ của Chúa Giê Su và Mẹ, giúp chúng ta yêu mến trở lại và đổi mới một lần nữa

The 15 Promises of Mary to Christians Who Recite the RosaryỞ Pháp vào những năm 1100 và 1200, tâm trí của người Công giáo đã bị những kẻ dị giáo làm cho hư hỏng. Những kẻ dị giáo, được gọi là Albigensians, đã thuyết phục nhiều người Công giáo tự tử, để họ có thể thoát khỏi cơ thể của mình, mà những người Albigensians cho là xấu xa.

Vào khoảng năm 1214.Đức Mẹ đã trao Kinh Mân Côi cho Thánh Đaminh để đánh bại họ và ngăn chặn những lời dối trá khủng khiếp mà họ đang lan truyền. Thánh Đaminh không chỉ đánh bại họ, mà còn trung thành khuyến khích mọi người cầu nguyện Kinh Mân Côi để tôn vinh Chúa Jesus và Đức Mẹ cho đến ngày nay.

Năm 1917, Đức Mẹ Mân Côi đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên – Thánh Jacinta, Thánh Francisco và Lucia – tại Cova da Iria ở Fatima, Bồ Đào Nha, sau những lần viếng thăm của một thiên thần xuất hiện sau khi các em đọc Kinh Mân Côi. Từ ngày 13 tháng 5 đến ngày 13 tháng 10 năm đó, Đức Mẹ đã hiện ra với các em sáu lần.

Mẹ không chỉ yêu cầu các em cầu nguyện Kinh Mân Côi mỗi ngày để mang lại hòa bình cho thế giới và chấm dứt Thế chiến thứ nhất, mà Mẹ còn tự nhận mình là Đức Mẹ Mân Côi, và Mẹ cầm một tràng chuỗi Mân Côi sáng ngời trên tay. Đến tháng 11 năm 1918 thì Chiến Tranh Thế Giới chấm dứt.

Vào năm 1945, trong Thế chiến II, tám linh mục Dòng Tên sống trong một ngôi nhà xứ cách nơi quả bom nguyên tử được thả xuống thị trấn Hiroshima ở Nhật Bản chưa đầy một dặm. Trong khi nhà thờ bên cạnh ngôi nhà xứ bị phá hủy hoàn toàn và hàng ngàn người đã thiệt mạng và hàng ngàn người phải chịu đựng rất nhiều đau khổ vì phơi nhiễm phóng xạ, ngôi nhà vẫn đứng vững và tám linh mục truyền giáo đã sống sót một cách kỳ diệu. Cũng thật kỳ diệu và khó hiểu khi không ai trong số tám linh mục Dòng Tên bị phơi nhiễm phóng xạ.

Trong những năm sau vụ nổ, họ đã được kiểm tra nhiều lần, Cha Schiffer and 7 anh em linh mục đã sống nhiều năm sau đó.

Các Cha đã cho rằng sự sống sót của họ là do họ đang sống theo thông điệp Fatima. Họ nói rằng họ đã cầu nguyện Kinh Mân Côi một cách trung thành trong ngôi nhà đó mỗi ngày.

Chuyện gì đang xảy ra với Nước Mỹ vậy, có phải Chúa đang cứu nước Mỹ và sau đó lan đến toàn Thế Giối với cuộc chấn hưng tinh thần nhờ việc đọc và suy niêm Kinh Thánh và Kinh Mân Côi chăng?  Sitting at the School of Mary - Knights of The Holy Eucharist

YouTube player

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –  Lê Đình Kình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

07/01/2025

Khi có dịp gặp nhau, ở bất cứ nơi đâu, những người Việt tị nạn Cộng Sản vẫn thường hay sa đà vào những câu chuyện có liên quan đến vấn đề thời sự hay chính trị ở quê nhà. Bữa rồi, trong tiệc cưới, có ông mượn một thành ngữ thường nghe ở Hoa Kỳ (“The only good Indian is a dead Indian”) để lên tiếng giễu cợt: “Thằng cộng sản chỉ tốt khi nó không còn thở nữa.” Câu nói được nhiều người ngồi chung bàn người bật cười tán thưởng.

Sự thực (e) không giản dị thế đâu. Khối thằng đã chết từ lâu nhưng di hại vẫn kéo dài mãi mãi:

Bác Hồ đang sống bỗng chuyển qua từ trần vào năm 1969 nhưng hơn một phần tư thế kỷ qua ổng vẫn gây ra hao tốn đều đều, và mỗi lúc một thêm hao. FB Vũ Huy Hoàng  cho biết “ngân sách cho BQL Lăng đã tăng từ 157,300 tỷ đồng năm 2010 lên tới 318,730 tỷ đồng cho năm 2016.” Thảo nào mà số nợ công hằng năm cũng  tăng theo vùn vụt.

Cái kiểu lìa đời của bác Trần Đại Quang cũng phiền nhiễu lắm. Ổng chiếm một “khu lăng mộ vài chục ngàn mét vuông” lận. Khoảnh đất bao la này mà mang bán cho anh Vượng Vin để xây chung cư thì số nợ công chắc cũng giảm kha khá, chứ không phải ít. Bác Phạm Văn Đồng tuy đã rời xa nhân thế khá lâu nhưng vẫn để lại một dấu ấn khó phai: Công Hàm (158). Bác Nguyễn Văn Linh và bác Đỗ Mười, tất nhiên, cũng không kém cạnh: Mật Ước Thành Đô

Gần đây, có lẽ, chỉ có một đảng viên cộng sản duy nhất khi sống (cũng như lúc thác) vẫn được coi là một người tốt là ông Lê Đình Kình. Nhân vật này bị giết hại  một cách tàn bạo, vào rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, và ngay hôm sau kẻ thủ ác được Đảng và Nhà Nước truy tặng huân chương chiến công hạng nhất. Tuy thế,  cái chết thương tâm của ông (tựa như một giọt nước tràn ly) đã gây ra một hiệu ứng tích cực về mặt nhận thức nơi rất nhiều người:

  • TS. Mạc Văn Trang: Sự kiện đảng viên Đảng CSVN LÊ ĐÌNH KÌNH 58 tuổi đảng, 84 tuổi đời, một lý lịch đảng viên đầy chiến tích, mà không một UV Trung ương hay UV Bộ Chính trị nào hiện nay dám so sánh với Cụ, đã bị chính các đồng chí của mình sát hại, vẫn gây chấn động nhân tâm. Nhân đây, nhìn lại TÌNH ĐỒNG CHÍ của các đảng viên Đảng cộng sản thì mới rõ. ĐỒNG CHÍ = “ĐỒNG CHÓ”!
  • Nhà báo Lê Phú Khải : “Máu ở Đồng Tâm như một thứ thuốc hiện hình làm rõ những điều mà trước đây người ta không thể nghĩ tới! Nó là một bước ngoặt vô hình của lịch sử.
  • Nhà văn Nguyên Ngọc: “Tôi thiết tha kêu gọi mọi bậc trí giả trong nước và trên thế giới cùng mọi người có lương tri lên án tội ác man dại này và ngăn chặn nó có thể tái diễn bất cứ ở đâu.”

Lời kêu gọi “thiết tha” thượng dẫn được đáp ứng tức thì:

  • BBT trang Bauxite Việt Nam lên tiếng: “Nhiệt liệt hưởng ứng lời tuyên bố nóng hổi của nhà văn Nguyên Ngọc và qua trang mạng chúng tôi cũng như nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác, rất mong tiếng nói tố cáo trung thực của nhà văn sớm lan tỏa rộng rãi khắp trong nước và trên toàn thế giới.”
  • Thành viên của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng gửi thư đến Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi sự can thiệp trong vụ việc Đồng Tâm: “Mong Ngài Tổng Thư ký LHQ có tiếng nói kịp thời để ngăn chặn giải pháp tàn bạo của một nhà nước vừa được đảm nhận vai trò Uỷ viên Không Thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-202.”

Sau bức thư lịch sử này, có thể, cụm từ “đối lập trung thành” sẽ biến mất luôn khỏi ngôn ngữ VN. Cũng từ nay –  hy vọng – sẽ không còn lời kêu cầu, bản kiến nghị, hay đơn thư (tâm huyết) nào gửi đến Bộ Chính Trị, Văn Phòng Thủ Tướng hay Quốc Hội như trước nữa. Ông Hà Sĩ Phu bình luận: “Việc thảm sát đảng viên lão thành rất yêu đảng như cụ Kình là lời tuyên ngôn khai tử hình thức đấu tranh trong nội bộ đảng, cũng chấm dứt hy vọng dùng đường lối cải lương để cải biến tình hình.”

Nguyễn Quang Lập  khái quát vấn đề một cách vô cùng dung dị: “Nguyễn Trọng Tín đánh xe tới nhà tui, nói, tui nói với ông một câu rồi tui dzề: Dzụ Đồng Tâm cho biết điều quan trọng này: Thực sự chính quyền này không phải của dân. Dzậy thôi!”

Sao “thôi ngang” như vậy được, cha nội? Chơi vậy đâu có “fair”! Nẫy giờ toàn trích dẫn ý kiến của một phe thôi – phe của những đảng viên ly khai và của đám dân đen sôi sục vì bất mãn. Còn phía Đảng và Nhà Nước nữa chớ. Để cho nó khách quan xin nghe thêm tiếng nói của hai ông (cố) TBT và TT:

  • Nguyễn Phú Trọng: “Không có một lực lượng nào khác ngoài ĐCSVN có đủ bản lĩnh, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn.”
  • Nguyễn Xuân Phúc: “Điều tôi muốn nhấn mạnh là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng… chưa bao giờ lớn và sâu sắc như lúc này.”

Sự thực ra sao? Thực trạng và thực lực của Đảng CSVN hiện nay thế nào?

Hãy nghe đôi lời từ vài nhân chứng khả tín và thế giá:

“Tôi ‘thoái Đảng’ vào thời điểm hiện tượng trên còn hãn hữu, nhưng đến nay nó đã trở nên phổ biến. Các đảng viên ĐCSVN, khi nhận quyết định nghỉ hưu, thường họ không chuyển giấy sinh hoạt cho các đảng bộ địa phương, mà lặng lẽ cất kỹ dưới đáy tủ như kỷ niệm của ‘một thời đáng quên!’.

Họ lặng lẽ, âm thầm thực hiện hành động đó, không ồn ào và công khai với bất cứ ai, trừ khi là bạn rất thân của nhau. Đến nay, đã bao nhiêu đảng viên cộng sản chọn cách này để ‘tạm biệt’ Đảng, không một ai có thể biết chính xác, bởi Đảng giấu rất kỹ. Nhưng theo nhiều người dự đoán, con số này ước khoảng 45%! Số còn lại, mang tiếng là ‘vẫn yêu Đảng’, nhưng thực tế đa số họ đã ‘chán Đảng’, họ miễn cưỡng phải tiếp tục ở lại sinh hoạt vì nhiều lý do khác nhau, trong đó phải kể đến lý do hàng đầu là sợ liên lụy đến con cháu, tiếp đến là sợ ảnh hưởng đến ‘sổ hưu’, tức kế sinh nhai hàng ngày của họ.”

  • Nhà văn Tạ Duy Anh, một người ngoài Đảng, viết trong tác phẩm (“Dưới Bàn Tay Vô Hình’) chưa xuất bản như sau: “…Lần ấy P. Thắng, nhân viên chính trị của tiểu đoàn, nhận lệnh đi công tác một tháng. Theo thông lệ, cậu ta bàn giao lại việc cho tôi, nhân viên quân lực. Tuy không phải đảng viên nhưng tôi thông thuộc hết mọi thủ tục để hoàn thiện bộ hồ sơ cho một đảng viên mới, chính là nhờ một tháng làm thay ấy

Vốn là người chu đáo, trước khi đi, Thắng bỏ ra một buổi chiều dặn kỹ tôi phải làm gì. Bấy giờ tôi mới biết: Trọn vẹn một bộ hồ sơ để kết nạp ai đó vào đảng, từ đơn xin gia nhập đảng, lời của hai đảng viên giới thiệu, đến tất cả những trích biên bản cuộc họp, (họp quần chúng, họp chi đoàn, liên chi đoàn, chi bộ, chi ủy…) đều do nhân viên chính trị làm.

Tức là bịa ra hoàn toàn. Càng bịa giỏi càng được coi là có năng lực… Suốt cái tháng cuối năm ấy, tôi “chế” được cả thảy hơn chục bộ hồ sơ “đẹp như mơ”, có bút tích, chữ ký của tôi với cái tên Tạ Duy Anh chưa bao giờ được công nhận về mặt hành chính. Nhiều năm sau thỉnh thoảng tôi vẫn thấy khoái trá với ý nghĩ: “Mình chỉ làm thay có một tháng, trong phạm vi một tiểu đoàn, mà đã góp cho đội ngũ trùng trùng điệp điệp hơn chục thành viên, vẻ vang là cái chắc.”

Cái “đội ngũ trùng trùng điệp” mấy triệu đảng viên CSVN, xem ra, chỉ là những con số không hồn. Nền không chắc mà tường cao thì sự sụp đổ nằm sẵn nơi đó rồiẤy thế mà hôm 3 tháng 2 vừa qua, họ vừa “Kỷ Niệm Trọng Thể 90 Năm Ngày Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.” Rõ ràng là nguyên một dân tộc bị đè đầu cưỡi cổ gần một thế kỷ qua mà không nhóc nhách gì được cả.

Sao thế nhỉ?

Và liệu nghịch lý này sẽ còn kéo dài thêm bao nhiêu năm nữa?


 

 Công ích (common good) được thực hiện thế nào?-Cha Vương

Trời Houston hôm nay gió lớn và lạnh quá! Chúc ban và gia đình tràn đầy Thần Khí và hơi ấm của Chúa. Mời bạn trở lại học hỏi và suy niệm những bài giáo lý căn bản nhé. Bảo trọng!

Cha Vương

Thứ 3: 7/1/2025

GIÁO LÝ: Công ích (common good) được thực hiện thế nào? Công ích được thực hiện khi những quyền lợi nền tảng của con người được tôn trọng, và khi con người được tự do phát triển về trí thức và tôn giáo của mình. Công ích đòi hỏi rằng con người có thể sống trong tự do, hòa bình, yên ổn. Trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay, công ích phải bao trùm ra cả thế giới để bảo vệ các quyền lợi và bổn phận của cả nhân loại. (YouCat, số 327)

SUY NIỆM: Công ích được tôn trọng khi người ta đặt trọng tâm vào việc lo điều tốt cho mỗi cá nhân và cho những đơn vị nhỏ nhất trong xã hội (chẳng hạn gia đình). Cá nhân hay gia đình đều cần được nâng đỡ và bảo vệ bởi những thể chế chính trị. (YouCat, số 327 t.t.)

❦ Phải lo công bằng và nhân đạo cho tất cả mọi người. (Công đồng Vatican II, Phẩm giá con người.)

❦ Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác.

LẮNG NGHE: Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. (2 Cr 9:11-12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, nhân loại đang có chiều hướng thiên về vật chất. Họ tin rằng không có gì tồn tại ngoại trừ vật chất và các chuyển động cũng như sự biến đổi của nó. Họ tìm đủ mọi mánh khóe trà đạp lên nhau để sống. Xin giúp con biết gạt bỏ những toan tính riêng tư ích kỷ đang làm tổn thương đến gia đình nhân loại của Chúa.

THỰC HÀNH: Làm một việc bác ái.

From: Do Dzung

*********************************

Yêu Cho Đến Cùng- Mai Thiên Vân 

YouTube player

CHÚA ĐẾN GẶP BẠN NGAY TRONG TÂM HỒN GIỮA NHỮNG YẾU ĐUỐI – Tứ Quyết SJ

 Tứ Quyết SJ

Chúa dạy chúng ta xây nhà trên đá.  Lời dạy vững chắc ấy dẫn đến nơi nền đất chắc chắn, dù không thấm nước, đôi khi rẽ quanh co ngang dọc, theo những con đường hẹp, để tránh những đầm lầy hoặc những khu rừng ẩn chứa nhiều nguy hiểm.  Ai được hướng dẫn như thế, có thể có cảm tưởng rằng, mình đang đi mà không có mục tiêu rõ ràng, và có thể bị mất niềm tin vào người đang chỉ đường cho mình.  Khi điều ấy xảy ra, là người đi đường, bạn phải mở rộng tâm hồn và giãi bày những gì đang làm bạn lo lắng.  Vì thế bạn sẽ được giúp đỡ để hiểu rằng, điều mà đối với bạn dường như là một cuộc lang thang vô ích, thì thực ra không gì khác là chính sự yếu đuối và bước đi không không chắc chắn của bạn.

Vì vậy, để tránh ảo tưởng và không để bị mình bị cuốn theo, khi mà bạn ít mong đợi nhất, bởi những chuyển động nội tâm làm mê hoặc những ai không có kinh nghiệm trong những điều thiêng liêng, thì điều cần thiết là hãy sửa soạn tâm hồn cho thời điểm mà Thiên Chúa ghé thăm bạn.

Có những người nhận được ơn đặc biệt của Chúa một cách chắc chắn đến độ không thể nghi ngờ.  Có những người khác (phần đông là như thế) nhận biết danh Chúa ngang qua sự giáo dục mà họ thụ hưởng: họ phải học hành và trải nghiệm và nhận biết chân lý khi họ được dạy dỗ.  Có những người khác, như thánh Tông Đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma (Rm 1:18-21) có thể bị mê hoặc bởi sự hoàn hảo của các tạo vật.

Thế nhưng, có một nơi mà Chúa làm cho ta cảm thấy gần gũi với những tâm hồn cao cả, đó là chiều sâu của trái tim và những khát khao cư ngụ nơi đó.  Đó là khát khao về sức sống tràn đầy và một vùng đất mà ở nơi đó sống tự do và an toàn, đó là khát vọng đánh thức mọi tạo vật trên thế giới, đó là nơi chắc chắn mà Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài…

Bạn có thể hiểu điều này khi đọc câu chuyện về tổ phụ Abraham: tiếng nói của Chúa thúc giục ông từ bỏ mọi thứ để bắt đầu theo một hành trình vô định: ông đi mà không biết mình đi đâu, nhưng ông có lời hứa của Chúa (Ta sẽ chỉ cho ngươi).  Những lời vang vọng trong trái tim ấy lại chẳng phải là tiếng vọng của niềm khao khát về cuộc sống trọn vẹn, về vùng đất mà với ông, chính là nhà hay sao?

Tôi cũng muốn chỉ cho bạn một nơi khác mà Chúa đến gặp chúng ta.  Đó là sự yếu đuối.  Bạn cũng thế, cũng giống như bao người khác, bị đe dọa bởi sự mong manh dễ vỡ.  Bất cứ khi nào nó xuất hiện, bạn không chịu nổi và tìm cách che giấu nó.  Thực tế, bạn cảm thấy yếu đuối, bất lực, và bị đe dọa.  Như thế, nếu từ sâu thẳm tâm hồn mình, bạn có khả năng chấp nhận rằng, tôi yếu đuối, mong manh, không thể mình tự cứu mình, thì khi đó, bạn có thể cảm nhận được sự hiện diện tốt lành của Thiên Chúa, vì Ngài là người Cha đích thực, nâng đỡ bạn và an ủi bạn.

Hãy xem cách Thiên Chúa đối xử với tổ phụ Abraham, như đối xử với một người bạn.  Tổ phụ đã nhận được lời Thiên Chúa hứa, và Chúa đã thực hiện lời Ngài hứa.  Chắc chắn không phải vì mưu trí hay vì các cách thức nỗ lực, mà tổ phụ Abraham trở thành bạn của Chúa, mà vì tổ phụ đã học tin tưởng Thiên Chúa, để chiến thắng những lo lắng của bản thân.  Tổ phụ biết Chúa khi một cách rõ ràng, điều mà ông khao khát, đã đến với ông như một quà tặng.  Vì thế, hãy để cho Chúa, ngang qua cuộc sống, dẫn dắt bạn đến sự nhận biết hoàn hảo về sự không thể của bạn, về sự bất lực của bạn: khi bạn ở đáy vực thẳm, ngước mắt nhìn lên, bạn sẽ được hưởng niềm vui từ sự cao cả vô hạn của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Vì thế, đừng hình dung những điều vĩ đại, chẳng hạn những điều đôi khi được kể về một số vị thánh đã có những cuộc hoán cải to lớn hoặc đã phải đối mặt với những hoàn cảnh đặc biệt, để thay đổi cuộc sống của các vị một cách hoàn toàn và ngay lập tức.  Thay vào đó, hãy suy xét về cái nghèo là tình trạng chung của hầu hết mọi người.

Chúng ta càng yếu đuối, thì càng có xu hướng che giấu sự yếu đuối mong manh của mình.  Và với thói quen, chúng ta sẽ dần dần tự thuyết phục và tin rằng, chúng ta thực sự như chúng ta tưởng tượng hoặc như chúng ta muốn.  Vì thế, nếu chúng ta yếu đuối, chúng ta cố gắng che giấu bằng cách tỏ ra mạnh mẽ.  Chúng ta giống như con vật nhỏ bé, cố gắng xù lông để có vẻ lớn hơn và cố gắng tỏ ra nguy hiểm hơn để đe dọa đối thủ, nhưng sự thường là vô ích…

Tứ Quyết SJ – Chuyển ngữ từ tiếng Ý

Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore, Introduzione di Daniele Libanori, (San Paolo 2020).


 

 BẰNG TẤT CẢ TÌNH YÊU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thiên Chúa là tình yêu!”.

“Bi kịch của một cuộc đời không phải là nó kết thúc quá sớm, mà là chúng ta chờ đợi quá lâu để bắt đầu nó!” – Richard L. Evans.

Kính thưa Anh Chị em,

Khác với những gì Evans cảnh báo; từ đời đời, Thiên Chúa đã bắt đầu ‘cuộc đời’ của Ngài – Ngài bắt đầu ‘bằng tất cả tình yêu’, vì “Thiên Chúa là tình yêu!”.

Gioan diễn tả ngắn gọn ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống!” – bài đọc một. Bởi lẽ, sự hiện diện của Ngôi Hai ở giữa loài người là một hiện diện trao ban sự sống ‘bằng tất cả tình yêu’. Tin Mừng hôm nay minh hoạ sự hiện diện yêu thương này.

“Thiên Chúa là tình yêu” – một định nghĩa đơn giản sâu sắc nhất về Thiên Chúa trong toàn bộ Thánh Kinh. Mọi định nghĩa khác có thể nói về Ngài – dẫu mỹ miều nhất – vẫn chỉ là một bình luận về định nghĩa gãy gọn ấy. ‘Bằng tất cả tình yêu’, Thiên Chúa tặng ban Con Một; không phải một lần, nhưng mỗi ngày để bất cứ ai cũng có thể hưởng nếm trước sự sống thần linh vĩnh cửu ‘ở đây và lúc này’; mọi nơi, mọi lúc, qua Bí tích Thánh Thể.

Thật thú vị, Tin Mừng hôm nay như đang ‘tường thuật trực tuyến’ một ‘Thánh Lễ’ mang tính tiên tri, báo trước cho hàng vạn Thánh Lễ mỗi ngày khắp hoàn vũ. Marcô tường thuật ‘Thánh Lễ’ được dâng cạnh một bờ hồ khi ‘Chủ Tế’ vừa ra khỏi thuyền với hơn 5.000 người tham dự. Đây là ‘sự kiện’ duy nhất được cả 4 Tin Mừng nói đến. ‘Rất nghi lễ’, ‘Chủ Tế’ cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và môn đệ cho dân chúng ‘rước lễ’. Toàn bộ trình thuật có một âm bội mạnh mẽ về Bí tích Thánh Thể. Sau khi giảng dạy – được coi như phụng vụ Lời Chúa – ‘Chủ sự’ ‘cử hành’ phụng vụ Thánh Thể; sau đó, là phần ‘hiệp lễ’.

Chúa Giêsu không tự mình trực tiếp trao ‘của ăn’ cho dân, Ngài ủy nó cho các cộng sự; và đó là cách thức Ngài bước vào cuộc sống của con người. Chỉ Giáo Hội mới có đặc quyền trao ban Thánh Thể! Tình yêu của Chúa Giêsu thể hiện qua việc Giáo Hội nhận lãnh chính Thịt Máu Ngài, sau đó, đem cho những người khác. Nếu những gì Giáo Hội nhận lãnh chỉ để được giấu kín, cất kỹ, thì Bí tích Thánh Thể trở thành một dấu chỉ của hư không; nó đã giảm thiểu đến mức chỉ còn là một nghi lễ trừu tượng.

Anh Chị em,

“Thiên Chúa là tình yêu!”. Ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó tràn đầy niềm vui, tình yêu và sự sống. Ngày nay, Chúa Giêsu không chỉ làm phép lạ một lần cho 5.000 người no thoả, nhưng mỗi giây phút, phép lạ vẫn được thực hiện từ tay các linh mục của Ngài cạnh các bàn thờ. Như thế, qua Giáo Hội, chúng ta đang chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm để nuôi sống nhân loại ‘bằng tất cả tình yêu’. Được sự sống thần linh nuôi dưỡng, đến lượt chúng ta, bạn và tôi cũng là những con người “cho họ ăn”. “Hãy tiến bước với sự tự tin, vượt qua mọi thử thách, tiến lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chúa Giêsu đã hiến mình vì người khác, do đó, trở thành tấm gương về tình yêu và sự phục vụ cho mỗi chúng ta!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để cuộc đời con trở nên bi kịch khi con chờ đợi quá lâu để bắt đầu nó. Giúp con biết cho đi ‘bằng tất cả tình yêu’ như Chúa đã cho đi!”, Amen. 

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

********************************************

Thứ Ba sau Lễ Hiển Linh

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

34 Khi ấy, Đức Giê-su thấy một đoàn người đông đảo, thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Nơi đây hoang vắng và giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” 38 Người bảo các ông: “Anh em có mấy cái bánh? Đi coi xem!”. Khi biết rồi, các ông thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông. 


 

Tổng Hợp Đặc Biệt của Kẻ Đi Tìm: Hồng Y McElroy được Đức Thánh Cha phong chức Tổng Giám Mục Washington DC

Tổng hợp báo chí Hoa Kỳ
 

Báo Bưu Điện Hoa Thịnh Đốn – Washington Post

Vatican bổ nhiệm Hồng y Robert McElroy theo chủ nghĩa tự do ở San Diego làm lãnh đạo mới của DC

Hôm thứ Hai, Vatican đã bổ nhiệm một trong những giám mục cấp tiến hàng đầu tại Hoa Kỳ để điều hành tổng giáo phận nổi tiếng ở khu vực Washington, cử đến thủ đô của quốc gia này, khi chính quyền Trump thứ hai bắt đầu, một giáo sĩ nổi tiếng với cách tiếp cận mục vụ đối với người di cư và “hòa nhập triệt để” cộng đồng LGBTQ+.

Vatican names liberal San Diego Cardinal Robert McElroy as new D.C. leader

Báo Tuần Tin – Newsweek

Đức Giáo Hoàng Bổ Nhiệm Đồng Minh phái Cấp Tiến Hồng Y McElroy Làm Tổng Giám Mục Washington

Tổng giáo phận Washington đóng vai trò quan trọng trong Giáo hội Công giáo, bao gồm hơn 670.000 người Công giáo trên khắp Washington, DC và một số khu vực của Maryland .

McElroy nổi tiếng là người ủng hộ các vấn đề công lý xã hội , bao gồm cả việc bác bỏ các nỗ lực nhằm loại trừ các chính trị gia Công giáo ủng hộ quyền phá thai được lên Rước lễ. Ông cũng chỉ trích các giám mục Hoa Kỳ vì đặt trọng tâm không cân xứng vào phá thai như mối quan tâm “nổi bật” của họ trong khi hạ thấp các vấn đề xã hội quan trọng khác như phân biệt chủng tộc , nghèo đói và biến đổi khí hậu .

Quan điểm của ông phản ánh tầm nhìn rộng hơn của Giáo hoàng Francis về một nhà thờ bao trùm và gắn kết xã hội hơn.

Hãng Thông Tấn Hoa Kỳ – AP

Giáo hoàng bổ nhiệm đồng minh có cùng chí hướng là Hồng y McElroy làm Tổng giám mục Washington

Hôm thứ Hai, Đức Giáo hoàng Francis đã bổ nhiệm Hồng y Robert McElroy của San Diego làm Tổng giám mục Washington, chọn một trong những đồng minh có cùng chí hướng tiến bộ nhất để đứng đầu Giáo hội Công giáo tại thủ đô Hoa Kỳ vào đầu nhiệm kỳ thứ hai của Donald Trump.

Hình ảnh

Báo Chí Công Giáo Hoa Kỳ nói về Hồng Y McElroy:

Thông Tấn Xã Công Giáo – CNA

Sinh ra tại San Francisco vào ngày 5 tháng 2 năm 1954, Giám mục McElroy lớn lên tại Quận San Mateo. Ông được thụ phong linh mục vào năm 1980 và phục vụ với tư cách là giám mục phụ tá cho Tổng giám mục San Francisco Salvatore Cordileone bắt đầu từ năm 2010.

Năm 2015, Đức Giáo hoàng Francis đã bổ nhiệm McElroy làm người lãnh đạo giáo phận San Diego. Ông được Đức Giáo hoàng Francis nâng lên hàng Hồng y trong một công nghị vào tháng 8 năm 2022, sau khi trải qua ca phẫu thuật bắc cầu động mạch vành thành công vào năm trước đó.

Trước khi vào học tại chủng viện, McElroy đã học lịch sử tại Đại học Harvard, sau đó lấy bằng thạc sĩ Lịch sử Hoa Kỳ tại Đại học Stanford.

Sau khi được thụ phong linh mục, ông cũng lấy được bằng cử nhân (tương tự như bằng thạc sĩ) về thần học và bằng tiến sĩ về thần học đạo đức và khoa học chính trị.

Ngay sau lễ nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump vào năm 2017, Hồng y McElroy đã phát biểu trước một nhóm các nhóm tôn giáo rằng nếu Trump là ứng cử viên của “sự gián đoạn”, thì cần phải có sự gián đoạn tương tự để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

“Bây giờ, tất cả chúng ta phải trở thành những kẻ phá hoại,” vị giám mục nói, ám chỉ việc sử dụng vũ lực quân sự để trục xuất những người di cư không có giấy tờ và việc coi người tị nạn và người Hồi giáo là kẻ thù.

Ông cũng là tiếng nói thường trực trong cuộc tranh luận về “Hiệp thông Thánh Thể” (cho những người ủng hộ phá thai), trong đó ông thường chỉ trích những gì ông cho là, ở Hoa Kỳ, việc ưu tiên phá thai hơn các mối quan tâm xã hội khác, chẳng hạn như án tử hình và việc chăm sóc người di cư và môi trường. Trong những năm gần đây, Hồng y McElroy cũng khẳng định rằng việc từ chối trao Mình Thánh Chúa cho các chính trị gia Công giáo ủng hộ phá thai là biến Bí tích Thánh Thể thành vũ khí cho mục đích chính trị.

Đức Hồng y McElroy cũng ủng hộ phong chức cho nữ phó tế trong Giáo hội và là người ủng hộ mạnh mẽ những người Công giáo thuộc cộng đồng LGBT.

Tap chí Phía Sự Sống – LifeSite

Giám mục Strickland chỉ trích việc Đức Giáo hoàng Francis bổ nhiệm Hồng y McElroy làm Tổng giám mục DC

Giám mục Strickland đã chỉ trích Hồng y Robert McElroy của San Diego theo đường lối dị giáo, vì đã ủng hộ LGBT và là ‘kẻ làm thuê nhũng lạm’ khi Ngài  phản ứng về việc McElroy được Giáo hoàng Francis bổ nhiệm làm tổng giám mục của Washington, DC, và kêu gọi người Công giáo ‘lên tiếng chống lại những con sói trong hàng giáo phẩm này’.

Giám Mục Strickland, hiện đã về hưu, Ngài nguyên là giám mục giáo phận Tyler Texas cho đến 11-11-2023, Ngài đã từng cử hành nghi lễ tiếng La tinh (Tridentine) từ năm 2020. Ngài là người chống lại việc dùng Covid Vaccine làm từ phôi thai, … “Tôi xin tái khẳng định lời cam kết của mình, Tôi sẽ không kéo dài cuộc sống của mình bằng cách SỬ DỤNG những đứa trẻ bị giết. Đây là điều xấu xa, HÃY THỨC TỈNH!”…

Đức Giám Mục Strickland cũng mạnh mẽ phản đối các hành vi nhằm làm thay đổi Giáo Lý Công Giáo của đức Giáo Hoàng Phanxico.

Chuyện người sĩ quan VNCH và nỗi đau sau tù đày – Tư Tuấn – -Truyện ngắn

Ba’o Nguoi-Viet

January 4, 2025

Tư Tuấn

Ông Thắng từng là một sĩ quan của Quân Lực VNCH, một người đàn ông mạnh mẽ và đầy tự hào. Nhưng sau Tháng 4 năm 1975, ông trở thành tù nhân trong các trại cải tạo suốt hơn 10 năm. Những năm tháng ấy không chỉ cướp đi tuổi trẻ của ông mà còn phá nát mọi giấc mơ bình dị về một mái ấm gia đình.

Khi được trả tự do vào năm 1986, ông Thắng gầy rộc, làn da sạm đen, đôi bàn tay chai sần vì những ngày lao động khổ sai trong rừng sâu. Trên đường trở về quê ở một ngôi làng nhỏ ven biển duyên hải miền trung, ông mang trong lòng nỗi khát khao đoàn tụ với gia đình, đặc biệt là vợ ông – bà Dung – và hai đứa con mà ông chưa được nhìn thấy từ khi đi cải tạo.

Tượng người chiến sĩ VNCH tại Đài Tưởng Niệm chiến si74 Việt Mỹ tại Thành Phố Westminster, CA. (Hình: Bảo Khôi)

Nhưng khi ông bước qua cánh cổng rỉ sét của ngôi nhà mình, một cảm giác lạ lẫm tràn ngập. Mọi thứ không còn như xưa. Đứa con trai lớn bây giờ đã là một chàng trai 15 tuổi, còn cô con gái út mới 13 tuổi. Cả hai đứa nhìn ông bằng ánh mắt bối rối, xa lạ.

Vợ ông, bà Dung, cũng không chạy ra ôm chầm lấy ông như ông từng mường tượng trong suốt những năm tù đày. Thay vào đó, bà đứng khựng lại, đôi mắt tránh né, như muốn giấu điều gì.

Những ngày đầu, ông Thắng cố gắng hòa nhập lại với cuộc sống gia đình. Nhưng ông nhận ra sự lạnh nhạt trong cách cư xử của vợ mình. Bà thường lảng tránh ánh mắt của ông, và dường như có điều gì đó bà không muốn ông biết.

Rồi một ngày, trong lúc trò chuyện với hàng xóm, ông nghe những lời thì thầm đầy ác ý:

“Tội nghiệp ông Thắng, đi tù bao nhiêu năm, giờ về lại chẳng biết vợ mình làm gì suốt thời gian qua…”

“Chuyện bà Dung với thằng công an xã ai mà không biết. Nhưng mà cũng khó trách, bả phải nuôi con mà.”

Nghe đến đây, ông Thắng chết lặng. Ông không tin, nhưng lời đồn ấy cứ đeo bám trong tâm trí.

Một đêm nọ, ông quyết định hỏi thẳng bà Dung. Ban đầu bà phủ nhận, nhưng khi bị ông gặng hỏi, cuối cùng bà bật khóc và thừa nhận tất cả.

Bà Dung kể rằng, sau khi ông bị bắt đi cải tạo, bà rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Không đất đai, không tài sản, bà phải bươn chải đủ nghề để nuôi con, từ đi bán rau, cấy lúa thuê cho đến rửa chén. Nhưng số tiền kiếm được chẳng thấm vào đâu, nhất là khi chính quyền địa phương thường xuyên đến nhà sách nhiễu.

Trong lúc cùng quẫn, ông Hải – một công an xã có tiếng quyền lực – ngỏ ý giúp đỡ. Ban đầu, ông ta đưa tiền, gạo và bảo bà không cần trả. Nhưng dần dần, những món quà ấy đi kèm với điều kiện.

“Nếu không có ông ta, chắc mẹ con em đã chết đói. Anh ở tù, em không biết làm gì khác,” bà Dung nói trong nước mắt.

Ông Thắng không thể tin vào tai mình. Nỗi đau từ những ngày tháng tù đày giờ đây không là gì so với cảm giác bị phản bội. Người phụ nữ mà ông yêu thương, người mà ông luôn nghĩ là chờ đợi mình, giờ đây lại có quan hệ với chính kẻ đã từng hạch sách gia đình ông.

Những ngày sau đó, ông Thắng gần như không nói chuyện với bà Dung. Đêm đêm, ông ngồi lặng lẽ ngoài hiên, nhìn lên bầu trời đầy sao, lòng ngổn ngang. Ông nghĩ về những năm tháng tù tội, về lý tưởng mà ông từng tin tưởng, và về gia đình mà giờ đây ông không biết liệu có còn thuộc về mình hay không.

Ông không thể trách con cái, vì chúng là nạn nhân vô tội. Ông cũng không hoàn toàn trách bà Dung, vì ông hiểu những gì bà phải đối mặt khi ông không ở đó. Nhưng ông không thể tha thứ cho thực tế rằng chính kẻ đàn áp ông lại là người đã bước vào gia đình ông.

Cuối cùng, ông Thắng quyết định rời đi. Ông không thể tiếp tục sống dưới một mái nhà với người vợ mà ông không còn tin tưởng, dù trong lòng vẫn yêu thương bà.

Trước khi đi, ông ôm hai đứa con vào lòng, dặn dò chúng chăm sóc mẹ và sống tử tế. “Ba không thể ở lại, nhưng ba sẽ luôn dõi theo các con,” ông nói, giọng nghẹn ngào.

Ông Thắng chọn một cuộc sống ẩn dật, làm thuê kiếm sống qua ngày. Ông vẫn viết thư về cho con, nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến bà Dung. Trong những lá thư ấy, ông chỉ kể về cuộc sống giản dị của mình, về những bài học mà ông rút ra sau tất cả những gì đã xảy ra.

Ông mất đi gia đình, nhưng vẫn giữ lại được lòng tự trọng và tình yêu thương dành cho con cái. Một cuộc đời không trọn vẹn, nhưng vẫn ánh lên sự mạnh mẽ và lòng bao dung của một người cha, một con người vượt qua nỗi đau để tiếp tục sống.

Sau những năm tháng sống trong đau khổ và nỗi niềm bất an, ông Thắng quyết định làm hồ sơ đi định cư ở nước ngoài theo diện HO, những người có liên quan đến quân đội hoặc chính quyền VNCH trước 1975.

Trong lòng ông, dù đã bị phản bội bởi vợ, ông vẫn không thể quên được hai đứa con. Mặc dù cuộc sống gia đình đã không còn trọn vẹn như xưa, ông vẫn khao khát đưa các con ra khỏi đất nước này, tránh xa sự nghèo khó và bạo lực mà họ đang phải đối mặt.

Với ý định đưa các con đi cùng mình, ông Thắng bắt đầu chuẩn bị hồ sơ. Những bước chuẩn bị này không dễ dàng chút nào, vì trong thời gian ông đi tù, chính quyền đã thay đổi nhiều chính sách. Việc làm hồ sơ cho các con ông đi chung không chỉ liên quan đến giấy tờ của ông, mà còn cần phải có sự đồng ý của vợ ông. Ông biết đây sẽ là một thử thách lớn.

Ban đầu, bà Dung tỏ ra do dự và khó chịu khi ông Thắng đề nghị đưa các con đi. Những năm tháng sống trong cảnh khó khăn đã khiến bà trở nên hoài nghi và thiếu niềm tin vào tương lai. Cộng thêm việc bà đã về ở hẳn với ông Hải – công an xã – và đã quen với cuộc sống bớt lo âu hơn khi không còn là vợ của một sĩ quan VNCH, bà sợ rằng việc dính líu tới ông Thắng sẽ làm xáo trộn cuộc sống hiện tại.

Mọi thứ bấp bênh và mơ hồ trong mắt bà. Nhưng ông Thắng kiên quyết không từ bỏ, ông biết rằng ông phải làm điều này không chỉ vì mình mà còn vì tương lai của các con.

Dù không thể thay đổi quá khứ, ông Thắng đã hiểu rằng chỉ có một cơ hội duy nhất để thay đổi số phận của các con. Và nếu bà Dung không đồng ý, ông sẽ phải để lại chúng lại trong hoàn cảnh mà ông không muốn, một tương lai không rõ ràng, không biết sẽ ra sao.

Một buổi chiều, khi ông Thắng ngồi xuống đối diện với vợ, không phải để trách móc, mà để thuyết phục bà, ông nói: “Em biết không, anh chỉ có thể đưa các con ra ngoài nếu em đồng ý. Nếu không, tụi nó sẽ mãi sống trong cái nghèo này. Anh không thể để chúng lớn lên như thế. Anh muốn chúng có cơ hội, có tương lai.”

Bà Dung ngồi im lặng một lúc lâu, đôi mắt thăm thẳm như đang suy nghĩ điều gì. Rồi bà nhẹ nhàng thở dài, những giọt nước mắt rơi xuống má. “Em biết, nhưng em cũng lo lắng, lo rằng tụi nó và anh sẽ phải bắt đầu lại từ con số không, như anh đã làm khi ra tù. Tụi nó đã quen với cuộc sống này rồi, dù gì nó cũng an toàn hơn.”

Tuy nhiên, qua những lời nói chân thành của ông, cuối cùng bà Dung cũng đồng ý. Bà biết rằng không thể giữ các con lại một cuộc sống nghèo đói, không có tương lai, dù bản thân bà có lo sợ đến mức nào.

Ngày hôm sau, bà Dung cũng ký vào giấy tờ để ông Thắng đưa các con đi cùng. Đây là một quyết định khó khăn, nhưng bà hiểu rằng Bà không thể chỉ sống cho bản thân mình. Những đứa trẻ đáng thương kia sẽ không có tương lai nếu vẫn ở lại nơi này.

Ngày ông Thắng và các con lên Sài gòn chuẩn bị đi HO, bà Dung tiễn ông với một ánh mắt đầy cảm xúc. Dù không còn tình yêu như xưa, nhưng tình thương cho các con là điều mà cả hai vẫn cùng chung một mục tiêu.

(Hình: tác giả cung cấp)

Trước khi lên đường, ông Thắng nhìn lại ngôi nhà cũ của mình một lần nữa – bà Dung đứng nhìn từ cửa, đôi mắt đẫm lệ. Họ không nói gì, chỉ nhìn nhau, như thể đó là lời chia tay cuối cùng.

Còn ông Thắng, ông không còn nghĩ về những khổ đau đã qua, cũng không còn vướng bận với quá khứ đau buồn nữa. Ông đã có cơ hội bắt đầu lại cuộc đời, và ông sẽ làm tất cả để đem lại một tương lai tốt đẹp hơn cho các con.

Khi ông Thắng lên phi cơ, lòng nặng trĩu. Hành trình tiếp theo là một bước đi đầy hy vọng, nhưng cũng tràn ngập những câu hỏi về tương lai. Liệu cuộc sống mới có thực sự tốt đẹp như ông đã mơ ước không? Hay tất cả sẽ lại là một cuộc bắt đầu lại đầy gian nan? Nhưng ông biết rằng, không có gì quan trọng hơn việc bảo vệ và yêu thương con cái.

Sau khi ông Thắng và các con sang Mỹ, cuộc sống của họ dần ổn định. Các con của ông, dù lớn lên trong nghèo khó và thiếu thốn tình thương của người cha trong suốt những năm đầu đời, đã nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới. Chúng học hành chăm chỉ, tìm được công việc làm thêm, và dần dần cảm thấy mình là một phần của xã hội mới.

Cứ mỗi lần nhìn thấy con cái vui vẻ học hành và có những bước tiến vững chắc, ông Thắng lại cảm thấy yên tâm phần nào. Ông biết rằng quyết định của mình khi đưa các con ra đi, dù đã tốn nhiều tâm sức và lo lắng, cuối cùng đã mang lại kết quả tốt đẹp. Các con đã có những cơ hội mới mà trước đây họ không thể có được.

Nhưng dù đã bắt đầu một cuộc sống mới, trong lòng ông vẫn còn một vết thương chưa lành. Bà Dung, người vợ đã cùng ông trải qua bao thăng trầm, vẫn là một bóng mờ trong trái tim ông. Dù bà đã phản bội ông trong quá khứ, ông không thể xóa nhòa những kỷ niệm về gia đình xưa, khi cả bốn người họ còn sống trong một mái nhà, đầy ắp tiếng cười nói.

Một ngày, sau khi các con đã lớn và có công việc ổn định, chúng bày tỏ nguyện vọng muốn bảo lãnh mẹ sang Mỹ. Các con của ông, dù đã hiểu rõ về quá khứ của cha mẹ, vẫn cảm thấy mình cần phải làm điều này để gia đình được đoàn tụ.

“Ba, chúng con muốn mẹ qua đây. Mẹ cũng có quyền được sống với chúng con,” đứa con trai lớn nói, trong khi cô con gái út đồng tình. “Ba vẫn còn thương mẹ, phải không? Chúng con muốn mẹ cũng được sống ở đây với gia đình mình.”

Khi nghe những lời này, ông Thắng im lặng rất lâu. Trong lòng ông, một trận sóng ngầm lớn dâng lên. Ông không thể phủ nhận rằng ông vẫn còn tình cảm với bà Dung, người phụ nữ đã gắn bó với ông suốt bao năm tháng. Tuy nhiên, sự phản bội mà ông đã phải chịu đựng trong quá khứ, sự quay lưng của bà khi ông học tập cải tạo và sự liên kết của bà với kẻ mà ông ghét nhất – ông Hải – công an xã, vẫn là một vết thương quá sâu.

Dù con cái thuyết phục hết sức, ông Thắng vẫn không thể đồng ý với ý tưởng bảo lãnh bà Dung sang Mỹ. Ông không muốn mối quan hệ này tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống của các con. Ông đã bắt đầu lại, xây dựng lại từ đầu, và ông không thể để quá khứ tiếp tục ám ảnh họ.

“Con đừng có mà làm vậy,” ông Thắng nói, giọng trầm và đầy nặng nề. “Mẹ các con đã làm những điều mà Ba không thể tha thứ. Còn thương thì có, nhưng ba không thể quên được chuyện đã qua. Các con phải hiểu rằng, dù chúng ta có sống ở đâu, gia đình cũng không thể trở lại như xưa.”

Ông nhìn vào mắt các con, cảm giác đau đớn nhưng kiên quyết. “Mẹ có thể sống ở Việt Nam, hay ở đâu đó. Các con không thể đem quá khứ trở lại, dù cho Ba vẫn yêu thương bà ấy. Những chuyện đã qua, Ba không thể chấp nhận nữa.”

Dù các con không hoàn toàn hiểu được lý do tại sao ông Thắng lại từ chối bảo lãnh bà Dung, họ vẫn tôn trọng quyết định của người cha. Những cuộc trò chuyện giữa ông và các con trở nên ít hơn, đôi khi là những cuộc đối thoại khó khăn, khi các con cảm thấy xung đột giữa tình yêu và lý trí.

Con cái của ông đã trưởng thành và đã hiểu rằng những quyết định của cha không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng luôn tôn trọng cha mình. Chúng nhận thức được rằng, dù ông Thắng vẫn còn yêu thương bà Dung, nhưng quá khứ đau buồn của gia đình đã để lại vết thương không dễ lành.

Cuộc sống tiếp tục trôi đi. Các con của ông thành đạt trong công việc, họ có gia đình riêng, và ông Thắng cũng tìm được niềm vui trong những ngày tháng an bình. Nhưng mỗi khi đêm về, khi nhìn lên bầu trời đầy sao, ông vẫn nhớ về bà Dung, và cảm giác đau đớn vì quyết định mà ông đã phải đưa ra.

Ông biết rằng mình đã bảo vệ các con khỏi những điều không tốt, nhưng trái tim ông vẫn không thể quên được người vợ cũ, dù mọi thứ đã thay đổi. Ông sống tiếp, chấp nhận rằng trong cuộc sống này, không phải mọi mối quan hệ đều có thể phục hồi, nhưng ông vẫn yêu thương các con và luôn dõi theo bước đi của chúng, như một người cha đầy lòng hy sinh.

Dù ông Thắng đã kiên quyết từ chối bảo lãnh bà Dung, các con của ông, với lòng yêu thương và sự khát khao được đoàn tụ gia đình, đã lén lút làm thủ tục bảo lãnh mẹ sang Mỹ mà không thông báo cho ông. Trong lòng họ, bà Dung vẫn là mẹ, dù bà là người phản bội, họ cũng không thể nhìn mẹ mình sống một mình trong hoàn cảnh nghèo khó, đặc biệt khi bà cũng đã có những năm tháng vất vả vì gia đình.

Một ngày, bà Dung cuối cùng cũng bước chân vào nước Mỹ, được các con đón tiếp với những giọt nước mắt. Dù ông Thắng không hay biết, ông cảm nhận được sự thay đổi trong bầu không khí gia đình. Các con của ông giờ đây có thể sống một cuộc sống đầy đủ hơn, không còn phải lo lắng về tương lai, và họ có thể đoàn tụ với mẹ – người mà họ không thể bỏ rơi.

Ông Thắng, sau khi phát hiện ra việc các con bảo lãnh bà Dung sang Mỹ, cảm giác như một vết thương cũ lại bị xé ra. Ông không thể hiểu được tại sao các con lại làm điều này sau tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ. Dù cho ông có yêu thương bà Dung, nhưng quá khứ đã khiến ông không thể chấp nhận sự quay lại của bà. Ông đã từng đặt hy vọng vào những đứa con, nhưng giờ đây chúng lại làm điều mà ông không thể tha thứ.

Khi ông biết được, sự đau đớn trong lòng ông càng sâu sắc hơn. Ông cảm giác mình đã không thể làm trọn vẹn trách nhiệm với gia đình. Sau tất cả, ông đã chọn sống riêng biệt, tránh xa bà Dung và các con, để tìm lại chút bình yên trong tâm hồn.

Ông Thắng quyết định dọn ra sống một mình. Ông thuê một căn phòng nhỏ, sống một cuộc sống yên tĩnh, không còn phải bận tâm về những sự việc xảy ra trong quá khứ. Ông không còn phải đối diện với sự xung đột trong lòng mình về bà Dung và những kỷ niệm không thể quên.

Từng ngày trôi qua, ông Thắng cảm thấy mình đã hoàn thành trách nhiệm với con cái. Dù đau lòng, ông hiểu rằng mỗi người đều có con đường riêng của mình, và không thể thay đổi được quá khứ. Ông đã làm hết những gì có thể để bảo vệ các con, nhưng giờ đây, ông không thể tiếp tục sống trong bóng tối của quá khứ.

Cuối tuần, đôi khi các con đến thăm ông, mang theo những món quà nhỏ, hoặc cùng nhau ăn bữa cơm đơn giản. Cảnh tượng đó mang đến cho ông một chút an ủi, nhưng cũng không thể làm vơi đi nỗi buồn sâu trong trái tim ông. Ông nhìn con cái trưởng thành, không còn là những đứa trẻ mà ông phải chăm lo, và có những gia đình riêng. Ông cảm nhận được rằng gia đình cũ đã không thể quay lại như trước, dù vẫn có tình yêu và sự quan tâm từ cả hai phía.

Từ ngày mất nước, gia đình ông rơi vào bi kịch. Chiến tranh chia cắt đất nước, gia đình ông cũng bị chia rẽ theo một cách riêng của nó. Những xung đột trong quá khứ không thể xóa nhòa, và dù ông đã cố gắng hết sức, những nỗi đau vẫn dai dẳng. Sự phản bội, những quyết định không thể quay lại, những hối tiếc không bao giờ nguôi ngoai – tất cả tạo thành một bi kịch lớn trong cuộc đời ông.

Gia đình không còn là nơi mà ông có thể tìm lại sự bình yên. Mỗi lần các con đến thăm ông, ông lại nhớ về quá khứ, về những ngày xưa, về một gia đình đầy ắp tiếng cười và hy vọng. Nhưng giờ đây, mọi thứ đã thay đổi quá nhiều. Tình yêu giữa ông và bà Dung không thể quay lại, và những đứa con của ông vẫn phải sống với những ký ức không thể nào quên.

Cuộc sống cứ thế tiếp tục, không thể nào hồi phục hoàn toàn như xưa, dù ông Thắng đã hoàn thành trách nhiệm của mình với các con. Những gì còn lại chỉ là sự chấp nhận.

Một ngày nọ, trong khi ông Thắng đang đọc sách trong căn phòng nhỏ của mình, một cú điện thoại bất ngờ đã thay đổi tất cả. Con trai ông gọi với giọng hoảng hốt:

“Ba ơi, mẹ bị tai nạn giao thông rồi. Bây giờ đang rất nguy kịch. Mẹ muốn gặp ba, muốn xin lỗi ba.”

Lời nói đó như một cú đánh mạnh vào trái tim ông. Ông không biết phải làm gì. Những năm tháng đã qua, những ký ức đầy đau thương và xung đột dường như vẫn còn như mới, chưa bao giờ nguôi ngoai. Bà Dung – người vợ cũ, người đã phản bội ông và để lại vết thương sâu trong lòng – giờ đây đang đứng trước ngưỡng cửa của sự sống và cái chết.

Ông Thắng vội vàng chạy tới bệnh viện, tâm trạng mâu thuẫn và đầy bối rối. Trong lòng ông, một cuộc chiến nội tâm gay gắt đang diễn ra. Liệu ông có nên tha thứ cho bà Dung hay không? Liệu ông có thể bỏ qua tất cả những gì bà đã làm với mình và gia đình trong quá khứ? Những câu hỏi đó không có lời giải đáp, nhưng ông vẫn tiếp tục lái xe, như thể có một sức mạnh vô hình nào đó kéo ông về phía bà.

Khi ông tới bệnh viện, bà Dung đã nằm trong phòng cấp cứu, cơ thể đầy vết thương. Gương mặt bà tái nhợt, đôi mắt mờ mịt, nhưng khi thấy ông bước vào, bà như nhận ra một thứ gì đó trong ánh mắt ông. Những giọt nước mắt bắt đầu rơi xuống, và bà cố gắng mở miệng, dù giọng nói yếu ớt:

“Anh… anh Thắng… Em… xin lỗi anh… Em… đã sai…”

Lời xin lỗi cuối cùng của bà Dung vang lên trong không gian im lặng của phòng bệnh, như một lời kết cho một câu chuyện dài đầy bi kịch. Bà đã không còn sức lực để nói thêm gì nữa, nhưng đôi mắt bà chứa đựng sự ăn năn, sự hối hận sâu sắc mà suốt bao nhiêu năm qua, bà không có cơ hội để thổ lộ.

Ông Thắng đứng đó, nhìn bà Dung trong giây lát, nhưng trái tim ông không thể quên được những gì đã xảy ra. Ông đã sống một cuộc đời khổ đau vì sự phản bội của bà. Tất cả những năm tháng ấy, sự hy sinh, sự cống hiến của ông đều trở thành vô nghĩa trong mắt bà. Bà đã chọn con đường của mình, và ông đã phải chịu đựng những quyết định mà không thể thay đổi.

Nhưng khi nhìn thấy bà giờ đây, trong tình trạng yếu đuối, sắp qua đời, ông chợt cảm thấy một sự đau lòng khác. Dù bà đã phản bội ông, ông không thể phủ nhận rằng tình yêu một thời vẫn còn trong trái tim ông. Nhưng ông đã quá mệt mỏi, quá kiệt sức vì những vết thương cũ. Ông chỉ có thể đứng nhìn bà, không thể tha thứ cho tất cả, nhưng cũng không thể phủ nhận sự xót thương.

Bà Dung cố gắng nói một lần nữa: “Anh Thắng, em… em biết em sai rồi… nhưng anh… đừng để em đi mà chưa nhận được sự tha thứ của anh.” Nhưng chỉ có tiếng thở gấp và nhịp tim yếu ớt, bà đã không còn sức để nói thêm.

Cuối cùng, bà Dung lặng lẽ nhắm mắt, rời khỏi thế gian này, để lại ông Thắng một mình trong căn phòng bệnh lạnh lẽo.

Sau cái chết của bà Dung, ông Thắng không cảm thấy sự thanh thản hay sự giải thoát mà ông mong đợi. Ngược lại, ông cảm thấy nỗi trống rỗng khủng khiếp hơn bao giờ hết. Những năm tháng qua, ông đã sống với nỗi hận, nỗi đau và sự mất mát. Giờ đây, khi bà Dung đã ra đi, ông không biết mình có thể cảm thấy gì. Tha thứ hay không tha thứ đã không còn quan trọng nữa. Tất cả chỉ là quá khứ, và ông buộc phải chấp nhận nó.

Các con của ông, dù đã trưởng thành và có cuộc sống riêng, vẫn không thể hoàn toàn hiểu được những gì cha mình đã trải qua. Họ nhìn thấy cha mình vẫn sống đơn độc, dù đã có một gia đình khác và những mối quan hệ mới. Nhưng trong thâm tâm ông, cái chết của bà Dung chỉ là một dấu chấm hết cho một bi kịch gia đình đã kéo dài suốt bao nhiêu năm.

Ông Thắng sống tiếp những năm tháng còn lại, nhớ về những ngày đã qua, và đôi khi, ông lại tự hỏi liệu cuộc đời này có thể khác đi không nếu như những sai lầm trong quá khứ không xảy ra. Nhưng cuộc đời, như một dòng sông, luôn trôi đi và không thể quay lại. Và ông chấp nhận rằng, dù có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa, bi kịch gia đình ông từ ngày mất nước vẫn là một phần không thể xóa nhòa trong lịch sử riêng của mình.


 

Nữ tu sĩ Brazil mê túc cầu nay là người thọ nhất thế giới, gần 117 tuổi

Ba’o Nguoi-Viet

January 6, 2025

PORTO ALEGRE, Brazil (NV) – Một nữ tu sĩ mến mộ môn túc cầu đến từ Brazil vừa được vinh danh là người sống thọ nhất thế giới khi gần 117 tuổi, sau khi một người phụ nữ Nhật Bản vừa tạ thế trong thời gian gần đây, theo ABC.

Soeur Inah Canabarro, từng ốm o gầy mòn tới nỗi nhiều người nghĩ bà không thể sống nổi tới qua thời thơ ấu, LongeviQuest, một tổ chức theo dõi những người sống thọ trên toàn cầu cho biết.

LongeviQuest đưa ra một tuyên bố hôm Thứ Bảy, 4 Tháng Giêng, xác nhận vị soeur ngồi xe lăn này là người sống thọ nhất thế giới, được xác nhận trong các tài liệu ghi chép cuộc sống của bà từ thời niên thiếu.

Soeur Inah Canabarro trong hình chụp vào Tháng Hai, 2024, ở Brazil. (Hình: LongeviQuest)

LongeviQuest thực hiện một đoạn phim hồi Tháng Hai năm 2024 trong đó soeur Canabarro sảng khoái tươi cười, chỉ ra những bức họa nhỏ nhắn về các loài hoa dại do chính tay bà vẽ và đọc kinh Kính Mừng.

Khi được hỏi bí quyết sống thọ là gì? Soeur trả lời chính là đức tin Công Giáo.

“Tôi trẻ trung, dễ mến và thân thiện, âu cũng là những phẩm chất tốt đẹp, duyên dáng trong mỗi con người,” nữ tu sĩ Dòng Têrêxa nói trước quan khách viếng thăm nhà điều dưỡng tại thành phố Porto Alegre ở miền Nam Brazil.

Soeur Canabarro sinh ngày 8 Tháng Sáu 1908 trong một gia đình con đàn cháu đống ở miền Nam Brazil, theo LongeviQuest. Ông cố bà là một vị tướng kiệt hiệt tại Brazil, từng đứng lên cầm súng tham gia chiến trường trong giai đoạn đầy biến động sau khi Brazil giành độc lập và thoát khỏi ách cai trị của Bồ Đào Nha vào thế kỷ 19.

Soeur dấn thân vào con đường tôn giáo khi còn là một thiếu nữ và sinh sống tại Montevideo, Uruguay được hai năm trước khi chuyển tới Rio de Janeiro và cuối cùng quay về gần bên gia đình hơn ở miền Nam Brazil.

Vào dịp sinh nhật lần thứ 110, soeur Canabarro được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tôn vinh. Bà là nữ tu sĩ sống thọ thứ nhì từng được ghi nhận, sau soeur Lucile Randon, người sống thọ nhất thế giới cho tới khi được Chúa gọi về vào năm 2023 ở tuổi 118.

Câu lạc bộ túc cầu địa phương Inter thành lập sau khi Canabarro chào đời, năm nào cũng tổ chức sinh nhật cho cổ động viên lớn tuổi nhất gồm có bánh và bong bóng có màu đỏ và trắng, hai biểu trưng cho đội banh.

“Dù là da trắng hay đen, giàu hay nghèo, bất kể các vị là ai, Inter là đội banh của đại chúng,” bà nói trong một đoạn phim đăng trên mạng xã hội khi mừng sinh nhật lần thứ 116 với chủ tịch câu lạc bộ.

Canabarro giành danh hiệu người sống thọ nhất thế giới sau khi Tomiko Itooka, một vị lão niên người Nhật Bản, tạ thế vào Tháng Mười Hai, theo LongeviQuest. Hiện nay seour Canabarro đang đứng thứ 20 trong danh sách những người sống thọ nhất từng được ghi nhận, đứng đầu là cụ bà Jeanne Calment người Pháp, qua đời năm 1997 ở tuổi 122, theo LongeviQuest. (TTHN)


 

Jimmy Carter cứu thuyền nhân Việt Nam (VOA)

VOA

30/12/2024

Hình chụp trẻ em tị nạn Việt Nam tại một trại tị nạn ở Hong Kong. Hình minh hoạ.

Hình chụp trẻ em tị nạn Việt Nam tại một trại tị nạn ở Hong Kong. Hình minh hoạ.

Ông Jimmy Carter, hồi 98 tuổi, đã rời bệnh viện về nhà sống những ngày cuối cùng. Ông qua đời hôm nay, 29 tháng 12, 2024. Ông là vị tổng thống Mỹ thọ nhất và sống một đời an vui, như Khổng Tử nói, “Người trí sống vui, người nhân sống thọ” (Trí giả lạc, nhân giả thọ, Luận Ngữ, VI, Ung Dã). Ông là người đáng được các thuyền nhân Việt Nam nhớ ơn.

Carter có đức tin rất mạnh, ông thường đến dạy giáo lý ở nhà thờ. Khi ra tranh cử năm 1976, ông nói với các cử tri: “Tôi sẽ không bao giờ lừa dối quý vị.” Có người đùa rằng ông nói như thế là mất hết phiếu của những người nói dối! Nhưng ông đắc cử, sau khi, qua thời Tổng thống Richard Nixon, dân Mỹ đã phải nghe quá nhiều chính trị gia nói dối. Phó tổng thống của ông, Walter Mondale nói rằng đối với Carter việc dùng thủ đoạn chính trị để kiếm phiếu là một điều nhơ bẩn, “Nếu muốn Carter làm một dự án nào mà nói rằng cái này rất lợi về chính trị, thì chắc ông sẽ bác bỏ.”

Làm việc chăm chỉ không phải là đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo quốc gia, nhưng ông Carter làm việc 12 giờ, đọc 200 trang tài liệu mỗi ngày. Và ông đã làm được nhiều việc đáng kể. Ông giúp Israel và Ai Cập giải hòa ký thỏa ước hòa bình Camp David, từ đó hai nước không còn đánh nhau nữa. Ông ký thỏa ước SALT II với Nga kiểm soát vũ khí nguyên tử, một bản thỏa ước mới bị ông Vladimir Putin xóa bỏ. Ông là vị tổng thống đầu tiên, trong bang giao quốc tế, nhấn mạnh đến điều kiện tôn trọng nhân quyền. Ông cũng cải tổ chính sách di dân.

Người Việt Nam tị nạn cộng sản biết ơn Jimmy Carter. Sau 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người Việt chạy trốn chế độ cộng sản. Trong 2 năm cuối của Tổng thống Gerald Ford, Hoa Kỳ đã thâu nhận khoảng 150.000 người tị nạn. Đại tá Vũ Văn Lộc ở San Jose, ký tên Giao Chỉ, từng kể lại, ngày 5 tháng 7 năm 1978, Tổng thống Carter kêu gọi các tàu Mỹ, dân sự cũng như quân sự, đang có mặt tại Thái Bình Dương thì phải vớt thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản. Ông đã quyết định cứu người vượt biển mặc dù đa số dư luận dân Mỹ lúc đó không muốn.

Năm 1979, “Báo Time đã ghi nhận có đến 300 ngàn người chết trên đường vượt biển. Đã có 65 quốc gia tiếp nhận nhưng … thuyền nhân còn tràn ngập các trại tỵ nạn.” Các nước Đông Nam Á không muốn chịu gánh nặng này, “443 người đến Hồng Kông, Macao, bị cảnh sát kéo ra biển, gặp trận bão Hope chết không còn người nào.” Giao Chỉ viết, “Dân Việt kéo về Hoa thịnh Đốn thắp nến cầu nguyện trước tòa Bạch Cung. Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm.”

Trước cảnh đó, Tổng thống Jimmy Carter ký “Đạo Luật Người Tị Nạn,” (Refugee Act of 1980) do Nghị sĩ Edward Kennedy đề ra để nước Mỹ nhận người tị nạn dễ hơn trước. Đạo luật thông qua ngày 17 tháng 3, 1980, sửa đổi “Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch,” và các thủ tục trong “Đạo luật Hỗ trợ người Tị nạn và Di dân” năm 1962. Ông tăng ngân khoản giúp người tỵ nạn Việt Nam từ 7 ngàn lên 14 ngàn một tháng. “Họ sẽ được đối đãi tử tế theo từng trường hợp và thủ tục tị nạn dễ dàng để quyết định nơi nào họ muốn đến!” Và, “Sở Di Trú và Nhập Tịch, sẽ hỗ trợ tối đa các chuyến đi của họ, đến các trại tị nạn, giúp họ khi chọn tái định cư tại Mỹ!”

Tin tức về tàu Mỹ vớt thuyền nhân bay về Việt Nam, thêm nhiều người vượt biển trong những năm 1979, 80, dù ai cũng biết những tai nạn, bão tố, hải tặc, dù hàng trăm ngàn người đã chết trên biển. Số lượng “thuyền nhân,” gia tăng mạnh, họ cập bến các nước Thái Lan, Malaysia, Hồng Không, Indonesia, Úc và bị đuổi, nhiều nơi đã kéo các chiếc thuyền mong manh của người tỵ nạn ra ngoài đại dương.

Do lệnh của Tổng thống Carter, thuyền trưởng tất cả các tàu Mỹ, có thể cam kết với chính quyền tại những hải cảng đó rằng, Sở Di Trú và Nhập Tịch Mỹ sẽ nhanh chóng sắp xếp cho những người tị nạn nhanh chóng đến nơi định cư. Những con tàu Tình Thương từ nhiều quốc gia, Pháp, Đức, Đan Mạch… ra khơi, tổng cộng đã vớt được trên 3 ngàn thuyền nhân. Nếu không có ông Carter ra lệnh cứu vớt và thâu nhận họ vào Mỹ định cư, thì chắc chắn không có phong trào này!

Khi gặp thủ tướng Israel, Manachem Begin, ở Camp David, ông Carter cũng nhắc đến tình trạng thuyền nhân Việt Nam, so sánh với cảnh những người Do Thái tị nạn trước đây. Giao Chỉ kể, “Tháng 10 năm 1979, một tàu Israel trên đường đi Nhật đã cứu 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn ông Carter.”

Do lệnh của ông Carter cho bộ quốc phòng, Đệ thất hạm đội dành 5 tuần dương hạm để cứu thuyền nhân. Tháng 6, 1988 chiến hạm Mỹ USS Dubuque gặp một con tàu tị nạn đi từ Bến Tre, sau 19 ngày lênh đênh trên biển, nhưng chỉ tiếp tế nước và thực phẩm, không cứu và không báo cho tàu khác cứu vớt. Ông hạm trưởng tàu USS Dubuque đã bị đưa ra tòa án quân sự. Con thuyền Bến Tre trôi dạt 37 ngày, từ 110 người chỉ còn sống 52 người; sau được tàu đánh cá Philippines cứu đưa về đảo Bolinao.

Theo con số của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR), khoảng gần nửa triệu người đã chết trên thuyền vượt biển. Tổng thống Carter đã gởi Phó Tổng thống Walter Mondale sang Geneva, Thụy Sĩ để họp cùng Cao Ủy Tị Nạn và các nước khác bàn việc giúp đỡ thiết thực người tị nạn Việt Nam. Cao Ủy Tị Nạn đã thay mặt Hoa Kỳ, thương lượng với Hà Nội, để bắt đầu chương trình tái định cư ODP, cùng các chương trình HO, con lai về sau này.

Tháng 8 năm 1979, để thuyết phục dân Mỹ, Tổng thống Carter nói trong một cuộc gặp gỡ hơn 2,000 người: “Cho tôi nhắc với quý vị rằng, Hoa Kỳ là một quốc gia của di dân. Cha ông chúng ta là di dân! Chúng ta là một quốc gia của những người tị nạn. Những người tị nạn Việt Nam từng là đồng minh của chúng ta, trong cuộc chiến tranh Việt Nam chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Họ đang chạy trốn khỏi một xứ đã tước đi tất cả các quyền căn bản của họ. Họ tin vào giá trị, khả năng của mỗi người, cùng sự tự do cá nhân.”

Sinh năm 1924 tại tiểu bang Georgia, Tổng thống Jimmy Carter tốt nghiệp kỹ sư tại Học Viện Hải quân, phục vụ tại các hạm đội Đại Tây Dương, Thái Bình Dương. Năm 1963, ông đắc cử vào Thượng viện Georgia, năm 1971, ông đắc cử thống đốc và từ năm 1977 ông làm tổng thống.

Ông Jimmy Carter gặp rất nhiều điều không may mắn trong hai năm sau cùng. Chiến tranh Iran-Iraq làm giá dầu lửa tăng lên 120%, gây nạn lạm phát khắp thế giới, tại Mỹ lên tới 14.6%. Dân Iran biểu tình chiếm tòa đại sứ Mỹ, bắt con tin. Liên Xô tấn công chiếm đóng Afghanistan. Năm 1980 ông thất cử. Nhưng nhờ các chính sách của ông Paul Volcker, do ông Carter bổ nhiệm làm chủ tịch Ngân hàng Trung ương (Federal Reserve), lạm phát đã chấm dứt khi Tổng thống Ronald Reagan nhậm chức và kinh tế bắt đầu hồi phục từ năm 1982.

Sau khi rời Tòa Bạch Ốc, ông Carter trở về thị trấn Plains, nơi ông làm chủ một trang trại trồng đậu phộng. Ông sống giản dị trong một ngôi nhà hai phòng ngủ trị giá $167.000 đô la, sau mỗi bữa ăn vẫn tự rửa chén, mỗi Chủ Nhật lại đi dạy giáo lý ở nhà thờ.

Ngày 15 tháng Bảy năm 1979, ông Carter đọc một bài diễn văn vẫn còn đáng đọc lại. Ông than rằng, “Trong một quốc gia xưa nay vẫn tự hào là chăm chỉ làm việc, gia đình vững chắc, xóm làng đoàn kết, và lòng tin vào Thượng Đế, bây giờ nhiều người trong chúng ta chỉ lo thỏa mãn cho mình và tôn thờ việc tiêu thụ. Con người không còn được thẩm định qua các việc mình đã làm mà qua những gì mình sở hữu.” Ngày nay, có thể thấy đó cũng là một lời tiên tri.

Xem them:

Tổng thống Jimmy Carter: Đại ân nhân của thuyền nhân vượt biển (BBC)


 

Thánh Andre Bessette (1845-1937)-Cha Vương

Hôm nay 6/1 Giáo hội mừng kính thánh Andre Bessette (1845-1937), quan thầy của những người bị bỏ rơi và những người chăm sóc cho bệnh nhân. Một ngày ấm áp trong Chúa nhé.

Cha Vương

TIỂU SỬ: 

❦ Alfred Bessette sinh ngày 09 tháng 8 năm 1845 tại Québec, là con thứ tám trong một gia đình 12 anh em. Mồ côi cha mẹ sớm, Alfred phải trải qua nhiều đói khổ và bệnh tật, làm bánh mì, làm thợ giày, thợ rèn, lại mắc bệnh yếu bao tử không làm được việc nặng mà Alfred phải mang suốt đời. Ðiều làm cho ngài vượt thắng là sự cậy trông vào Chúa quan phòng và Thánh Cả Giuse.

❦  Gia nhập tu hội Các Thầy Thánh Giá (Congregation of the Holy Cross) và lấy tên là Thầy André

❦  Vì lý do sức khoẻ và học lực kém nên nhà dòng yêu cầu thầy đi về, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc khiêm tốn là gác cổng trường học Notre Dame ở Montreal, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Andre khôi hài rằng, “Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm.”

❦  Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Royal, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời, “Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Royal!”

❦  Khi biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lạnh bắt đầu lan tràn.

❦  Rất tận tuỵ chăm sóc cho bệnh nhân. Thầy thường lập đi lập lại rằng “Ðâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse.”

❦  Thầy Andre đã từ trần ngày 06 tháng 01 năm 1937 khi thầy 92 tuổi. Mặc dầu trời giá lạnh tuyết băng, hơn một triệu người đã tham dự  tang lễ của thầy.

❦  Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã công nhận các nhân đức anh hùng của Đấng Đáng Kính Andre Bessette ngày 12 tháng 6 năm 1978 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Chân Phước cho thầy Andre Bessette ngày 23 tháng 5 năm 1982.

❦ André Bessette đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI phong thánh vào ngày 17 tháng 10 năm 2010. Mộ phần của thầy nằm sau bàn thờ chính trong nguyện đường Thánh Giuse tại Montreal, Canada.

NHÂN ĐỨC:

❦  Hết lòng cậy trông vào Chúa quan phòng và vào sự chuyển cầu của Thánh Giuse, nhất là trong lúc tuyệt vọng.

❦  Khát khao phục vụ Chúa bằng chính cuộc sống của mình

❦  Người gác cổng của Thiên Chúa. Thầy André biết cách nói về tình yêu của Thiên Chúa cách mãnh liệt đến độ thầy đã truyền niềm hy vọng cho mọi người gặp gỡ anh.

❦  Có khả năng thông cảm và tính hài hước nồng hậu với những người đến với ngài

❦  Ngài thường nói: “Bạn không được buồn”. “Thật là tốt để cười lớn một chút”. Đặc biệt với những người nghèo và bất hạnh, ngài đến với họ với một niềm vui nội tâm có tính lây lan.

CÂU NÓI:

❦ “Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ.”

NOI GƯƠNG THÁNH NHÂN:

Tạo ra niềm vui trong công việc bằng cách nghĩ khác đi, và yêu thương nhiều hơn.

From: Do Dzung

******************************

Chúa Yêu Con Nhiều || Sáng tác : Nguyễn Như Thoại || Trình bày : Kim Tuyến 

YouTube player

Điều con xin hôm nay là ơn tha thứ.

Đầu năm mới 2025. Trong giờ linh thiêng nhất trong năm, với suy nghĩ làm sao cho đời sống của mỗi người chúng ta được BÌNH AN, VUI TƯƠI, HẠNH PHÚC, để trong cõi đời trần thế hiện tại này được nhẹ nhàng, thư thái, khoan dung, yêu thương và được yêu thương. Để sau này, lúc ra đi, linh hồn ta cũng nhẹ nhàng, êm ái, tràn đầy tình cảm yêu thương, thần thái vui tươi, hạnh phúc trong nước Trời.

Trong suy tư đó, xin gởi đến tất cả những người thân yêu lời kinh dưới đây. Mời đọc và suy ngẫm.

Phùng Văn Phụng

Kinh Tha Thứ

Lạy Chúa Giêsu, điều con xin hôm nay là ơn tha thứ.

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chính con: những tội lỗi của con, những lỗi lầm của con, những sa ngã của con, những điều xấu trong con, những mê tín dị đoan của con, cầu cơ lên đồng, xem tử vi, coi chiêm tinh gia, coi thầy bói, đeo những bùa may mắn hộ mạng. Con từ bỏ tất cả những dị đoan đó. Con tin nhận Chúa là Chúa cứu thế duy nhất của con. Xin hãy ban Thánh Thần Chúa trên con. Con tha thứ cho con vì: đã làm đau khổ cha mẹ con, chè chén say sưa, sử dụng ma tuý, đeo đuổi hành động thiếu trong sạch, ngoại tình, những hành động tình dục về đồng tình luyến ái. Như Chúa đã tha thứ cho con, hôm nay con cũng tha thứ cho con. Ðồng thời những tội khác như: phá thai, ăn cắp, nói dối, lừa đảo… Con tha thứ cho chính con.

Con tha thứ cho người mẹ con qua những lần mẹ con: làm đau đớn con, phẫn nộ với con, giận dữ với con, trừng phạt con, thanh lọc con ra khỏi anh chị em, nói con đần độn, xấu xí, ngu dốt, hư hỏng nhất, hao tốn tiền của gia đình. Cho con là đứa con không được thừa nhận, là thiếu xót, là đứa con không được như ý muốn…

Con tha thứ cho cha con là người cha: thiếu nâng đỡ con, thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu sự trông nom, thiếu thời giờ, thiếu sự cảm thông dành cho con. Con tha thứ cho cha con là: người nghiện ngập, ẩu đả với mẹ con, ẩu đả với những người con khác, những sự trừng phạt nghiêm khắc, những bỏ bê, bỏ nhà ra đi, ly dị mẹ con, đi lang thang…

Con cũng xin tha thứ cho anh chị em con: những người xua đuổi con, nói dối con, ghét con, tranh dành tình yêu của cha mẹ con, ám hại con, nghiêm khắc với con, làm cho đời sống con khổ sở…

Lạy Chúa con xin tha thứ cho người phối ngẫu của con về: sự thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu thông cảm, thiếu sự chăm sóc, thiếu liên lạc trò chuyện với con. Con xin tha thứ cho những thiếu xót, vất ngã, yếu đuối, những lời nói hay hành động làm tổn thương và khó chịu cho con…

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho con cái của con: Thiếu kính trọng, Thiếu vâng lời, Thiếu yêu thương, Thiếu trông nom, Thiếu âu yếm, Thiếu hiểu biết, Những thói hư tật xấu, Bỏ đi nhà thờ, Những hành động làm phiền hà con…

Lạy Chúa con xin tha thứ cho gia đình bên vợ/chồng con, nhất là cha mẹ, anh chị em, bà con bên vợ/chồng con đã làm tổn thương đến gia đình con…

Lạy Chúa con xin tha thứ cho những họ hàng thân thiết của con, ông bà nội ngoại, cô cậu chú dì, những người đã can thiệp vào nội bộ gia đình con, cố gắng gây ảnh hưởng trên cha mẹ con, gây ra những hiểu lầm, xúi cha mẹ này đến cha mẹ khác…

Lạy Chúa, xin giúp con tha thứ cho người bạn cùng sở của con về những sự bất đồng ý kiến, là con phải sầu khổ, bắt con phải làm việc của họ, trêu trọc con, muốn dành công việc của con.

Lạy Chúa, những người hàng xóm của con cũng cần được tha thứ về: Những sự ồn ào, Những tiệc tùng về khuya, chó sủa làm con thức giấc, làm cho khu xóm mất giá trị…

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho những linh mục, cha sở họ đạo con, cộng đoàn con, Ðức Giám mục, Giáo Hoàng, Giáo hội công giáo về: Thiếu nâng đỡ, Nhàm chán, phục vụ tồi tệ, Thiếu niềm nở, Không xác nhận, Chẳng có điều gì khuyến khích con, Không sử dụng con vào những chức vụ chủ yếu, Không mời con phục vụ trong những tổ chức đông người, những đau đớn giáng xuống trên con, con thực sự tha thứ…

Con tha thứ cho những người trí thức (professionals) về những tổn thương xảy đến con như bác sĩ, ý tá, luật sư, quan tòa, chính trị gia, dân biểu…

Lạy Chúa con tha thứ cho những người phục vụ công quyền (service people): cảnh sát, nhân viên cứu hỏa, tài xế xe bus, nhân viên nhà thương và những nhân viên khác.

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chủ hãng con về không trả xứng lương cho con, không biết ơn việc con làm, có thái độ thiếu lịch sự, thiếu công bình, nóng giận, thiếu hòa nhã, không thăng chức cho con…

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho thầy cô giáo, huấn luyện viên trong quá khứ và hiện tại, nhất là những người đã trừng phạt con, những người đã hăm dọa con, những người đã sĩ nhục con, đối xử thiếu công bình, những người chế diễu con, những người nói con là đồ ngu ngốc, dốt nát, những người phạt con ở lại sau giờ học.

Lạy Chúa, con xin tha thứ cho bạn bè con về: Những người chà đạp con xuống, Những người không liên lạc với con trong lúc con cần sự giúp đỡ, mượn tiền mà không trả lại, tán gẫu về con…

Lạy Chúa Giêsu, con khẩn thiết cầu xin ơn tha thứ, cho một người trong cuộc sống của con đã làm con đau khổ nhất; cho những người là kẻ thù không đội trời chung của con; cho người rất khó tha thứ; cho người con thề không thể tha thứ cho họ. Lạy Chúa, con xin tha thứ những người này, cho những đau đớn con đã gây ra cho họ, đặc biệt là cha mẹ của con, người phối ngẫu của con. Con cám ơn Chúa về tất cả tình thương của Chúa đã đến trong cuộc đời con qua họ.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em con. Xin Cha tha thứ cho con và chúc lành cho đời sống mới của con. Amen.

LM DeGrandis

Nguồn: https://www.conggiao.org/kinh-tha-thu/