Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa thế nào?- Cha Vương

Một ngày bình yên và ấm áp trong yêu thương nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 10/1/2025

GIÁO LÝ: Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa thế nào? Mọi người bình đẳng trước Thiên Chúa, vì mọi người đều do một Thiên Chúa tạo thành, mọi người là “hình ảnh Chúa”, có linh hồn, biết suy luận, có cùng một Đấng Cứu chuộc. (YouCat, số 330)

SUY NIỆM: Vì mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa, nên mỗi người xét như ngôi vị, đều hưởng một phẩm giá như nhau, và mỗi người phải được sử dụng những quyền lợi như nhau. Vì thế mọi hình thức kỳ thị trong xã hội, kỳ thị chủng tộc, giới tính, văn hóa hoặc tôn giáo đều là một bất công không chấp nhận được. (YouCat, số 330 t.t.)

❦  Con người không thể vừa thờ Chúa và đồng thời khinh dể người thân cận mình, cả hai cách không thể dung hòa được. (Mahatma Gandhi)

❦  Chúa nói: Ta muốn người này cần người kia, và mọi người là người thừa hành của Ta để phân phát các ơn, các quà tặng, chúng đã nhận được nơi Ta. (Thánh Catarina Siena)

LẮNG NGHE: Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. (1 Cr 12:13,27)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, trong trái tim Chúa tất cả mọi người đều có một chỗ nương tựa, xin giúp con biết đối xử tử tế với nhau để mọi người nhận biết rằng chúng con là một thân thể trong Đức Ki-tô.

THỰC HÀNH: Mọi người đều là “hình ảnh Chúa”, vậy hãy cố gắng không bình phẩm người khác, ngay cả khi họ sai, bởi vì điều này liên quan đến một vấn đề thể diện và sự tôn trọng.

From: Do Dzung

***************************

Yêu Thương Và Tha Thứ (Sáng tác: Mai Lợi ) – Diệu Hiền 

YouTube player

80% VẪN AN TOÀN

Xuyên Sơn

80% VẪN AN TOÀN

Bước xuống xe tù hắn đã cười…

Hắn vừa đi vừa cười.

Hắn không ngờ một thằng bị bạn bè vẫn chê là đồ mặt hãm tài lại có một thời khuynh đảo được cả thiên hạ,

cả trăm triệu người sống dở, chết dở, sấp mặt …vì hắn.

Hắn cười vì cả một cái viện quân y to đùng, hoành tráng với một lô một lốc tướng tá có lúc phải nấp dưới váy vợ hắn…

Hắn cười, hắn muốn cười thật to cho sảng khoái, cuộc đời hắn thế mà cũng đã có một vai diễn lớn trong tấn trò đời, mà cả đống nhà báo, cả mớ quan chức …từng ngóng theo mỗi cảnh diễn của hắn. Ồ hắn từng được trao cả huy chương lao động nữa đấy!

Hắn cười vì hắn thấy lạ…

hắn chỉ nắm có 20% cổ phần cái

công ty lừa đảo ấy, vậy mà hình như, hình như người ta quên mất…quên mất chủ nhân của 80% còn lại…

Hắn cười khi nhìn lên cái mặt tiền của toà án, nhìn mấy vị quan toà mũ mão

uy nghi, à hắn đọc được ở đâu:

xét xử công bằng, không có vùng cấm… vậy mà hắn nhìn quanh thấy hình như còn thiếu, thiếu bị cáo…

Hắn cười vì tội hắn, hắn có bị tùng xẻo cũng chưa hết tội: kiếm tiền trên cái chết của đồng loại, kiếm tiền trong đại dịch…thì chỉ có lũ kền kền ăn xác sống…nhưng không ngờ hắn chỉ bị kêu án mấy chục năm tù thì toà nhân đạo quá!

Hắn cười vì hắn biết chưa bao giờ lời nói của hắn quan trọng đến thế, nặng cân đến thế…một lời khai của hắn trước toà cũng khiến cho bao kẻ mất ăn,

mất ngủ…

Hắn cười ………

Nguồn fb Nguyen Manh Đuc


 

Chủ tịch xã ở Nghệ An vận chuyển 35 kg ma túy tổng hợp

Ba’o Nguoi-Viet

January 9, 2025

NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Nghi can Mùa Bá Vừ, 41 tuổi, chủ tịch xã Na Ngoi, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, bị bắt quả tang lái xe hơi chở 35 kg ma túy tổng hợp và bốn bánh heroin.

Theo báo VNExpress hôm 9 Tháng Giêng, nghi can Vừ bị bắt cùng đồng phạm Lê Hoàng Cường, 35 tuổi, quê Hà Nội.

Nghi can Mùa Bá Vừ (thứ ba từ phải) lúc bị bắt. (Hình: Hùng Lê/VNExpress)

Bản tin cho hay, vào sáng cùng ngày, một nhóm Công An Tỉnh Nghệ An phối hợp với Công An Thành Phố Vinh cầm súng mật phục tại xã Hưng Chính, để chặn một chiếc xe pickup truck nghi chở hàng cấm.

Thời điểm đó, trên xe có hai nghi can Vừ và Cường.

Khi thấy công an, hai người đàn ông định nhấn ga bỏ chạy nhưng bị trinh sát siết vòng vây, bắn chỉ thiên để chặn bắt.

Khám xét chiếc xe, nhà chức trách tịch thu 35 kg ma túy tổng hợp và bốn bánh heroin được cất giấu tại nhiều vị trí, ngụy trang trong vỏ gói trà khô.

Sau khi công an xác nhận vụ bắt giữ, huyện Kỳ Sơn làm các thủ tục để ra quyết định đình chỉ công tác ông Mùa Bá Vừ.

Liên quan vụ này, báo Tuổi Trẻ cho biết thêm, nghi can Vừ tận dụng “vỏ bọc” là chủ tịch xã ở huyện miền núi biên giới để câu kết với các nghi can buôn ma túy từ Lào về Việt Nam.

Nghi can Vừ bị cho là lợi dụng thông thạo địa bàn, với vỏ bọc là người có chức vụ tại địa phương, câu kết với các nghi phạm bên kia biên giới để mua bán ma túy, sau đó gửi “hàng trắng” đi các địa phương khác trong cả nước để tiêu thụ.

Chiếc xe pickup truck được chủ tịch xã dùng để chở ma túy. (Hình: Thanh Niên)

Theo báo Pháp Luật TP.HCM, nghi can Vừ bị cáo buộc là người cầm đầu đường dây ma túy, còn nghi can Cường là “mắt xích quan trọng” trong đường dây.

Trước khi được bầu làm chủ tịch xã Na Ngoi, nghi can Mùa Bá Vừ có nhiều năm giữ ghế phó chủ tịch xã này và được “tín nhiệm cao.”

Đáng nói, trước vụ bắt nghi can Mùa Bá Vừ, hồi giữa Tháng Mười Hai năm ngoái, ông Mùa Dua Thái, 55 tuổi, cựu bí thư, chủ tịch xã Na Ngoi, đã bị Công An Thành Phố Vinh, Nghệ An, bắt giữ với cáo buộc cùng ba đồng phạm mua bán hơn 28,000 viên ma túy tổng hợp xuyên quốc gia. (N.H.K) [qd]


 

Việt Nam: Luật sư Trần Đình Triển bị kết án 3 năm tù vì các bài phê phán ngành tòa án (RFI)

RFI

Theo AFP, hôm nay, 10/01/2025, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên án 3 năm tù với luật sư Trần Đình Triển, nguyên phó chủ nhiệm đoàn Luật sư Hà Nội, do ông đã đăng trên Facebook nhiều bài viết chỉ trích ngành tòa án Việt Nam. Giới bảo vệ nhân quyền lên án « bước lùi » về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

Đăng ngày: 10/01/2025 – 13:20  Sửa đổi ngày: 10/01/2025 – 13:45

Lawyer Tran Dinh Trien

Luật sư Trần Đình Triển. © hrw.org

Trọng Thành

Lý do tòa án đưa ra để khép tội luật sư Trần Đình Triển là ông đã đưa lên mạng một số bài viết « không có chứng cứ xác thực kiểm chứng », « làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành tòa án nói chung và cá nhân Chánh án Tòa Án Tối cao »

AFP dẫn lại Thông tấn xã Việt Nam, theo đó, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của ông Trần Đình Triển là « rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho an ninh, trật tự, an toàn xã hội ».

Bà Elaine Pearson, giám đốc Châu Á của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch ( HRW ), bày tỏ quan điểm : « Thật bàng hoàng khi thấy luật sư Trần Đình Triển bị kết án ba năm tù chỉ vì bày tỏ quan điểm của mình một cách ôn hòa trên mạng. Đây là điều thậm chí không nên bị coi là tội ». Còn đối với ông Ben Swanton, đồng giám đốc của nhóm Project88, tổ chức bảo vệ quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam, bản án với ông Trần Đình Triển là « một ví dụ khác về làn sóng đàn áp mới của nhà cầm quyền Hà Nội ». Theo đồng giám đốc Project88, « bằng cách siết chặt mối quan hệ với nhà cầm quyền Việt Nam trong bối cảnh đàn áp này, Mỹ và các đồng minh đã chứng minh rằng họ không hề quan tâm đến nhân quyền ».  

Tổ chức bảo vệ nhân quyền HRW lưu ý, trong năm 2024, chính quyền Việt Nam đã liên tục có các hành động trấn áp những người chỉ trích nhà nước, với ít nhất 24 người đã bị kết án. Theo HRW,  trong năm 2023 và 2024, ít nhất bốn luật sư đã xin tị nạn tại Hoa Kỳ vì sợ bị bắt ở Việt Nam.


 

Ngoại Trưởng Pháp Cảnh Báo Donald Trump Về Ý Định “Kiểm Soát” Greenland: Châu Âu Sẽ Không Đứng Yên

Ba’o Dat Viet

January 9, 2025

Trong bối cảnh Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump tiếp tục gây tranh cãi với những tuyên bố liên quan đến quyền kiểm soát Greenland, Ngoại trưởng Pháp Jean-Noel Barrot đã đưa ra cảnh báo mạnh mẽ, khẳng định Liên minh châu Âu (EU) sẽ không để bất kỳ quốc gia nào xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của mình.

“Chúng ta là một lục địa hùng mạnh. EU sẽ không để bất kỳ ai tấn công biên giới chủ quyền của mình, bất kể họ là ai,” ông Barrot tuyên bố trên Đài France Inter ngày 8 Tháng Giêng.

Trump Nêu Khả Năng Áp Thuế Với Đan Mạch Nếu Bị Từ Chối Mua Greenland

Phát biểu của ông Barrot nhằm đáp trả những tuyên bố gây tranh cãi của Donald Trump trong cuộc họp báo ngày 7 Tháng Giêng tại dinh thự Mar-a-Lago (Florida). Khi được hỏi về khả năng kiểm soát Greenland và kênh đào Panama, ông Trump tuyên bố rằng không thể đảm bảo sẽ không dùng biện pháp quân sự hoặc kinh tế để đạt được mục đích.

“Tôi không thể đảm bảo điều đó. Nhưng tôi có thể nói thế này: Chúng ta cần chúng vì lý do an ninh kinh tế,” ông Trump nói.

Đáng chú ý, ông Trump còn nêu khả năng áp thuế lên Đan Mạch nếu quốc gia này từ chối đề nghị bán Greenland – một vùng lãnh thổ tự trị thuộc Đan Mạch và có tầm quan trọng chiến lược ở Bắc Cực.

Đan Mạch Phản Đối Kịch Liệt: “Greenland Không Phải Để Bán”

Ngay sau tuyên bố của ông Trump, Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen đã phản bác mạnh mẽ, khẳng định rằng Greenland không phải để bán và nhấn mạnh rằng đồng minh không nên đối đầu bằng các biện pháp tài chính.

“Tôi không nghĩ đe dọa tài chính là cách để tiến về phía trước, đặc biệt khi chúng ta là đồng minh và đối tác thân cận,” bà Frederiksen nhấn mạnh.

Trump: “Greenland Sẽ Được Lợi Rất Nhiều Nếu Trở Thành Một Phần Của Mỹ”

Dù vấp phải sự phản đối từ châu Âu, Donald Trump vẫn không giấu tham vọng biến Greenland thành một phần của nước Mỹ. Trên mạng xã hội Truth Social, ông Trump viết:

Greenland là một nơi tuyệt vời, và người dân ở đó sẽ hưởng lợi rất nhiều nếu và khi Greenland trở thành một phần của nước Mỹ. Chúng ta sẽ bảo vệ nơi này khỏi thế giới rất xấu xa ngoài kia.”

Trump cũng nhấn mạnh rằng Mỹ sẽ “trân trọng và bảo vệ” Greenland, đồng thời dùng khẩu hiệu “Hãy làm cho Greenland vĩ đại trở lại”, phỏng theo khẩu hiệu tranh cử nổi tiếng của ông – “Make America Great Again” (MAGA).

Con Trai Ông Trump Dự Kiến Đến Thăm Greenland

Theo Hãng tin Reuters, trước đó vào ngày 6 Tháng Giêng, ông Trump đã xác nhận rằng Donald Trump Jr. – con trai cả của ông – cùng nhiều đại diện khác sẽ đến thăm Greenland trong thời gian tới. Chuyến thăm này làm dấy lên lo ngại về ý định của gia đình Trump trong việc theo đuổi mục tiêu kiểm soát Greenland.

Greenland: Vị Trí Chiến Lược Quan Trọng Ở Bắc Cực

Greenland, hòn đảo lớn nhất thế giới, là vùng lãnh thổ tự trị thuộc Đan Mạch từ hơn 600 năm qua. Hòn đảo này có vị trí chiến lược quan trọng ở Bắc Cực, nơi đang trở thành điểm nóng địa chính trị do biến đổi khí hậu và sự gia tăng cạnh tranh tài nguyên.

Trong những năm gần đây, Mỹ, Trung Quốc và Nga đều tăng cường hiện diện tại Bắc Cực, khiến khu vực này trở thành một trong những chiến trường địa chính trị quan trọng nhất thế kỷ 21.

Pháp: “Chúng Ta Đang Trở Lại Thời Kỳ Luật Rừng”

Ngoại trưởng Pháp Jean-Noel Barrot bày tỏ lo ngại rằng các tuyên bố của ông Trump đánh dấu sự quay trở lại của “luật chơi nằm trong tay kẻ mạnh”.

“Tôi không tin rằng Mỹ sẽ xâm lược Greenland, nhưng chúng ta đang trở lại thời kỳ mà luật chơi nằm trong tay kẻ mạnh,” ông Barrot nói.

Ngoài ra, ông Barrot cũng kêu gọi Liên minh châu Âu (EU) cần đoàn kết và kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia thành viên trước những mối đe dọa từ bên ngoài.

EU Có Thể Đáp Trả Thế Nào?

Theo các chuyên gia, nếu Mỹ tiếp tục gây sức ép lên Đan Mạch, EU có thể đưa ra các biện pháp đáp trả, bao gồm:

  1. Áp dụng biện pháp trừng phạt kinh tếđối với các công ty Mỹ có hoạt động tại châu Âu.
  2. Tăng cường hiện diện quân sự tại Bắc Cực, nhằm bảo vệ quyền lợi của Đan Mạch và EU.
  3. Thắt chặt quan hệ với các quốc gia Bắc Cực khác, như Canada và Na Uy, để ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹtrong khu vực.

Vì Sao Trump Quan Tâm Đến Greenland?

Tham vọng của ông Trump với Greenland không phải là mới. Vào năm 2019, trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, ông từng đưa ra đề xuất mua lại Greenland từ Đan Mạch, nhưng bị từ chối thẳng thừng.

Theo các nhà phân tích, lý do ông Trump quan tâm đến Greenland bao gồm:

  • Vị trí chiến lược tại Bắc Cực, giúp Mỹ kiểm soát các tuyến đường biển quan trọng.
  • Tài nguyên thiên nhiên phong phú, bao gồm dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản hiếm.
  • Biến đổi khí hậu, khiến băng tan và dễ dàng khai thác tài nguyên hơn.

Sự ‘tuyệt chủng’ của tư bản tử tế-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

January 9, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Chưa bao giờ mà giới tư bản Mỹ chứng kiến sự nhố nhăng, lố bịch và sa đọa như lúc này. Thời của những tỷ phú với các hoạt động từ thiện tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực, từ y tế, giáo dục đến giảm nghèo – thậm chí giúp định hình chính sách công – đã qua.

Ông Mark Zuckerberg, tổng giám đốc Meta, công ty mẹ của Facebook và Instagram, trước đó cúi đầu tuân theo chính sách kiểm duyệt của nhà cầm quyền Việt Nam và nay thì quyết định bỏ việc kiểm chứng sự thật tại Mỹ để phù hợp với yêu cầu của ông Donald Trump, tổng thống đắc cử. (Hình: Drew Angerer/AFP via Getty Images)

Bây giờ là thời của sự thô bỉ trắng trợn khi ngày càng có nhiều nhà tư bản sẵn sàng hợp tác với chính quyền độc tài, như trường hợp ông Mark Zuckerberg, tổng giám đốc Meta, công ty mẹ của Facebook và Instagram, cúi đầu tuân theo chính sách kiểm duyệt của nhà nước Cộng Sản Việt Nam.

Nhắc lại vài huyền thoại tạo nên giá trị Mỹ

Bây giờ là “kỷ nguyên” của sự gieo rắc hỗn loạn khi có những kẻ như ông Elon Musk, tổng giám đốc Tesla, ủng hộ chủ nghĩa cực hữu và cổ xúy việc đàn áp và phá hoại nền móng dân chủ thế giới (những phát biểu của ông Musk nhằm vào chính giới Âu Châu đang khiến Âu Châu cực kỳ bất bình).

Đây cũng là thời của tư bản xu nịnh và luồn cúi chính quyền – chuyện trước nay chỉ xảy ra ở các nước như Nga, Trung Quốc hay Việt Nam… Tất cả giá trị đạo đức kinh điển mà giới tư bản Mỹ từng vun đắp suốt chiều dài lịch sử và tạo nên sự vĩ đại khác biệt so với phần còn lại của thế giới đang biến mất rõ rệt.

Mỹ có thể không là nơi khai sinh khái niệm đạo đức doanh nghiệp nhưng chắc chắn là nơi từng đi đầu trong việc khuếch trương tinh thần trách nhiệm cộng đồng của doanh nghiệp và giá trị đạo đức của đồng tiền. Nước Mỹ từng có một thời – cách đây không lâu -mà giới tư bản sử dụng đồng tiền một cách có đạo đức, có tâm hồn, thông qua hành động từ thiện, hơn là chăm bẳm vun vén cho cá nhân (và sử dụng ảnh hưởng để biến công ty thành công cụ chính trị).

Đơn cử ông Bill Gates, cựu tổng giám đốc Microsoft. Cùng với vợ cũ, Melinda Gates, ông Gates đã sáng lập Quỹ Bill & Melinda Gates Foundation, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất thế giới, nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như y tế, giáo dục và xóa đói giảm nghèo. Năm 2010, ông Bill Gates – cùng với tỷ phú Warren Buffett – khởi xướng The Giving Pledge, một cam kết kêu gọi các tỷ phú trên thế giới hiến tặng ít nhất 50% tài sản cho các mục đích từ thiện. Tính đến nay, hơn 230 tỷ phú đã tham gia.

Một trong những đóng góp lớn nhất của ông Bill Gates là lĩnh vực y tế. Quỹ Gates đã đầu tư hàng tỷ đô la vào nghiên cứu và phát triển vaccine, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Những tác động cụ thể gồm: Hỗ trợ tiêm chủng cho hàng triệu trẻ em, giúp giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em do các bệnh như bại liệt và sởi; tài trợ hơn $2 tỷ cho các nỗ lực phát triển và phân phối vaccine COVID-19 trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước nghèo; đầu tư nghiên cứu việc giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét. Quỹ Gates cũng đầu tư vào các chương trình nông nghiệp ở Phi Châu, giúp hàng triệu nông dân tăng năng suất và cải thiện thu nhập…

Còn nhiều gương mặt nữa ít được biết hơn. Ông Chuck Feeney (1931-2023) chẳng hạn. Ông Feeney – với gia sản $4 tỷ – luôn mua quần áo giảm giá, dùng bao nylon đựng giấy má đi làm thay vì cặp da (!), sắm kính ở tiệm thuốc tây hơn là tại các cửa hàng mắt kính hàng hiệu, đeo đồng hồ nhựa rẻ bèo $15 và tất nhiên chẳng bao giờ màng đến việc đi máy bay hạng ghế cao cấp. “Tệ” hơn, ông Feeney thậm chí không có nhà và xe riêng! Ông từng nói với bạn bè rằng tại sao người ta cần đến hơn một đôi giày. Khi đến New York, ông ăn tối bằng cách mua gà rán ở vỉa hè.

“Thật luôn khó cho tôi khi cố hiểu tại sao người ta cần đến ngôi nhà 32,000 foot vuông (gần 3,000m2) hoặc khi có ai đó chở tôi trong chiếc Cadillac sáu cửa, bởi ghế của nó có khác gì ghế trong taxi đâu! Bạn có thể sống thọ hơn nếu đi bộ!” ông Feeney nói, trong cuộc phỏng vấn hiếm hoi với tờ BusinessWeek.

Từng kiếm sống bằng nghề bán rượu miễn thuế (thành lập công ty Duty Free Shoppers Group), ông Feeney tích cóp để lập tổ chức từ thiện Atlantic Philanthropies mà theo bài viết của ký giả Jim Dwyer trên New York Times, ông Feeney đã trao $458 triệu cho mục đích từ thiện trong năm 2006, hơn bất kỳ tổ chức từ thiện nào tại Mỹ trừ Tổ Chức Ford và Bill and Melinda Gates Foundations.

Tính từ năm 1982, ông Feeney đã âm thầm trao $4 tỷ trích từ tài sản mình, với vô số dự án trong đó có chương trình tài trợ bệnh xá AIDS ở Phi Châu, nghiên cứu ung thư tại Úc, chỉnh hình biến dạng mặt trẻ em tại Philippines…

Rockefeller là một cái tên nữa không thể không nhắc. Nếu điều chỉnh theo tỷ lệ trượt giá, tài sản mà tỷ phú huyền thoại John Davison Rockefeller tích cóp được là nhiều nhất mọi thời. Trước và sau ông vẫn không có người nào trên thế giới giàu bằng ông! Cho đến khi chết năm 1937, giá trị tài sản của trùm dầu hỏa Rockefeller là $1.4 tỷ trong khi GDP Mỹ thời điểm đó là $92 tỷ (tức bằng 1/65 GDP quốc gia; so với 1/152 GDP của Bill Gates vào thời điểm hoàng kim năm 2006).

Đóng góp từ thiện hào phóng vào những năm sau này khi đã trở thành người giàu nhất thế giới của ông Rockefeller đã bắt đầu từ văn hóa giáo dục gia đình. Từ thuở thiếu thời, ông Rockefeller đã quen và thuộc nằm lòng những bài “nhật tụng” của bố mẹ về đạo đức và tinh thần hiếu học. Không chỉ nói suông, họ còn thực hành bằng cách dạy bọn trẻ cách làm những món quà nho nhỏ cho nhà thờ để tặng người nghèo. Dưới sự hướng dẫn của cha, cậu bé Rockefeller còn lập cả những quyển sổ ghi chép lại cẩn thận từng đồng được cho cũng như từng xu được xài.

Một trong những quyển như vậy còn được giữ lại, “Ledger A” (tập sổ cái A), cho thấy cậu bé Rockefeller đã tẩn mẩn ghi lại mọi khoản chi tiêu, trong đó có nhiều phần được chú là “làm từ thiện.” Tìm được quyển tập nhỏ vào 25 năm sau trong đống giấy tờ cũ, ông Rockefeller nhớ lại cách sống cần kiệm thời ấu thơ, như những hồi ức đẹp đẽ về nền tảng giá trị giáo dục gia đình. “Ledger A” cho thấy cậu trai nhỏ Rockefeller đã tặng 1 xu cho lớp giáo lý vào mỗi chủ nhật; và trong một tháng, có những đoạn ghi việc tặng 10 xu cho các giáo đoàn nước ngoài; 50 xu cho giáo đoàn Mite Society; 12 xu cho giáo đoàn Five Points tại New York; 35 xu cho thầy dạy giáo lý; 10 xu cho người nghèo trong giáo xứ…

Ông Rockefeller đã để lại lịch sử với tư cách một doanh nhân làm từ thiện không biết mệt. Ông đã miệt mài làm từ thiện ở cái thời mà khái niệm “trách nhiệm cộng đồng” của công ty vẫn còn chưa ra đời. Số tiền làm từ thiện của ông Rockefeller còn nhiều hơn cả vua thép Andrew Carnegie – một gương mặt huyền thoại với dấu ấn đậm nét không thua mấy so với ông Rockefeller, vốn nổi tiếng sống vì cộng đồng với tổng số tiền dùng cho từ thiện lên đến $350 triệu.

Từ năm 1855-1934, ông Rockefeller tặng quà cho các tổ chức từ thiện lẫn tổ chức giáo dục với tổng giá trị lên đến $530,853,632 (gửi đến Tổ Chức Rockefeller; General Education Board; Laura Spelman Rockefeller Memorial và Viện Nghiên Cứu Y Học Rockefeller). Đó là chưa kể số quà trị giá hơn $34 triệu cho Đại Học Chicago; cho các giáo hội Tin Lành; cho các tổ chức Thanh Niên Công Giáo (YMCA và YWCA); cho các đại học Yale, Harvard, Columbia, Brown, Bryn Mawr, Wellesley và Vassar…

Sự sụp đổ của lương tri và sự trỗi dậy của ma quỷ

Nhắc lại chuyện từ thiện của các nhà tư bản huyền thoại một thời để một lần nữa thấy rằng việc kiếm tiền và làm giàu là một chuyện; và việc lưu lại lịch sử tên tuổi mình như một tỷ phú có đạo đức và có trách nhiệm với xã hội là chuyện khác. Làm từ thiện thật ra chỉ là một phần. Phần lớn hơn của câu chuyện là thái độ sống, cách sống, khả năng truyền cảm hứng và thông điệp đạo đức từ hành động và lời nói của họ mang lại. Trên thế giới xưa cũng như nay, bất luận xu hướng như thế nào, việc hành xử “vì nhân loại” luôn là điều đáng được tôn trọng. Bất kỳ ông trùm doanh nghiệp nào xây dựng tốt tên tuổi trong hoạt động xã hội cộng đồng cũng ảnh hưởng hình ảnh quốc gia họ.

Và nhà doanh nghiệp có sức ảnh hưởng nào cũng có thể khiến quốc gia “nhục nhã” nếu bất chấp yếu tố đạo đức kinh doanh, trong một thế giới mà sự thật dễ dàng bị bóp méo trên các mạng xã hội; và đặc biệt khi mạng xã hội được chính ông chủ của nó vừa kiếm tiền vừa lợi dụng nó để xây dựng quyền lực chính trị bằng những hành động thấp kém như ngoan ngoãn luồn cúi và lộ liễu “bưng bô.” Ông Bill Gates hay rất nhiều tỷ phú Mỹ khác trước ông hoặc cùng thời với ông không chỉ xây dựng được đế chế doanh nghiệp khổng lồ mang lại sự giàu có cho cá nhân và sự thịnh vượng cho kinh tế quốc gia mà còn kiến tạo được những giá trị nhân loại phổ quát đáng lưu lại trong sử sách mà không hề cần “dựa hơi chính quyền” hoặc khom lưng “hôn nhẫn” chỉ để được “vua” xoa đầu.

Bình luận về sự kiện ông Mark Zuckerberg quyết định bỏ việc kiểm chứng sự thật trên mạng xã hội Facebook, cây bút Chris Stokel-Walker của The Guardian viết rằng điều này dẫn đến một “kỷ nguyên mới của dối trá” và đó là báo hiệu sự “tuyệt chủng” của sự thật trên không gian mạng xã hội. Không chỉ là sự “tuyệt chủng” của sự thật, nó còn là sự “tuyệt chủng” của thế hệ tư bản tử tế và có liêm sỉ một thời giúp tạo nên những giá trị nhân bản vĩ đại cho nước Mỹ mà thế giới từng khâm phục. Đó là một dấu chỉ nữa cho thấy có rất nhiều giá trị Mỹ đang chết đi và thời của âm binh đang vén màn. [qd]


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ông Già Ba Tri Lê Đình Kình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

10/01/2025

Tôi mém viết hồi ký mấy lần, lần nào cũng đang lúc chuyến choáng hơi men. Ngủ một giấc – thức dậy – ngẫm nghĩ thấy đời mình chán như con gián và nhạt còn hơn nước ốc nữa (chả có cái con mẹ gì để mà “ký” cả) nên … thôi!

Thôi, không viết thì đọc vậy. Cho nó đỡ buồn. Năm trước, tôi coi lại nguyên bộ Trả Ta Sông Núi của Đại Tá Phạm Văn Liễu. Năm nay, nghe Đinh Quang Anh Thái dụ, tôi đặt mua cuốn Hồi Ký Tống Văn Công – do Người Việt Books xuất bản.

Tống Văn Công cùng quê với Xuân Vũ. Cả hai ông đều là dân miền Nam nên không biết làm dáng, cũng không quen mầu mè (riêu cua) gì ráo, viết cứ như nói, và nghĩ sao thì nói vậy hà. Xin coi chơi một đoạn ở chương dẫn nhập:

“Tôi cứ tưởng ông già Ba Tri là chỉ những vị nổi tiếng của quê tôi như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan văn Trị nhưng ông nội tôi bảo sự tích này có từ thời Minh Mạng: Ông Trần văn Hạc, Hương cả của làng An Hòa Tây cho đắp con đập ngăn vàm rạch làm tắc nghẽn đường ghe chở hàng hóa vào chợ Ba Tri.

Dân chúng cả vùng phát đơn kiện, nhưng thế lực Trần Văn Hạc quá mạnh, quan tổng, quan huyện, quan tỉnh đều xử ông ta thắng kiện. Bà con bàn bạc cử ba ông già có uy tín nhất vùng là Thái Hữu Kiếm, Nguyễn Văn và Lê Văn Lợi mang đơn ra Huế kiện lên triều đình.

Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn. Vua Minh Mạng cho các ông vào chầu tấu trình sự việc. Vua nghe xong, hạ chiếu cho các ông thắng kiện. Từ đó, danh xưng ‘ông già Ba Tri’ là chỉ những cụ già nhưng chí khí không già, dám dũng cảm bảo vệ lẽ phải.”

Thiệt, đọc mà ái ngại hết sức: “Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn.” May mà còn gặp vị vua nhân đức (“hạ chiếu cho các ông thắng kiện”) chớ không thì công cốc.

Thời nay lỡ xẩy ra những chuyện oan khuất tương tự thì chả ai còn phải cất công đi lại xa xôi như vậy nữa. Địa phương nào cũng có hội đồng nhân dân các cấp, trên nữa là quốc hội. Thêm vào đó là hàng ngàn tờ báo, chưa kể vô số các cơ quan truyền thông, mọi chuyện khuất tất đều sẽ bị phơi bầy trước công luận tức thì nên mấy ông già Ba Tri bị thất nghiệp là cái chắc (và cũng hết còn đất sống) đúng không?

Không!

Tưởng vậy chớ không phải vậy đâu. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Năm rồi, xã Đồng Tâm vừa xuất hiện một ông già Ba Tri khiến cả nước phải giật mình kinh ngạc. Ông được Tạp Chí Luật Khoa bình chọn là một trong “Mười Nhân Vật Chính Trị Việt Nam Năm 2017,” cùng với không ít lời ưu ái:

“Trước tháng 4/2017, công chúng không biết Lê Đình Kình là ai. Vụ chính quyền huyện Mỹ Đức, Hà Nội xô xát và bắt giữ ông cụ 82 tuổi này vào ngày 15/4 đã thổi bùng làn sóng phản đối của người dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, vốn đang có tranh chấp đất đai tại khu vực đồng Sênh.

Tất cả những diễn biến sau đó cho người ta thấy hình ảnh của một lãnh đạo cả về tinh thần lẫn quyết sách của những người nông dân Đồng Tâm. Ngoài trí tuệ minh mẫn và khả năng trình bày khúc chiết, ông Lê Đình Kình hội tụ nhiều yếu tố để trở thành người được tín nhiệm ở một làng nông thôn Bắc Bộ …”

Về vụ “xô xát” nói trên, nhà báo Nguyễn Đình Ấm cho biết thêm chi tiết:

“Việc ngày 15/4/2017  ba sĩ quan quân đội và đội cảnh sát, an ninh CAHN mời dân ra đồng Sênh ‘kiểm tra mốc giới’ khi đến mốc 15- 20 thì nổ súng uy hiếp, trung tá Trần Thanh Tùng phó CA huyện Mỹ Đức đá cụ Kình văng 2m rồi cùng ‘côn đồ mặc quần bò, áo thun’ xốc nách cụ đưa lên ô tô khóa tay, bịt miệng đồng thời bắt 4 người nữa chở lên Hà Nội thẩm vấn, tra khảo…”

Ông già Ba Tri của xã Đồng Tâm – huyện Mỹ Đức – bị “côn đồ đấm đá, tra khảo” nhưng cả trăm đại diện của Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố Hà Nội  đều câm như hến. Còn ĐBQH Đào Thanh Hải thì đứng về phía … công an, để vu cáo nạn nhân: “Gia đình ông Lê Đình Kình đã xông vào chống lại lực lượng thi hành nhiệm vụ, giằng co và xảy ra việc ông Lê Đình Kình bị gãy chân” – theo như tường trình của báo Người Lao Động, đọc được vào hôm 7 tháng 11 năm 2017.

Một năm sau, trên trang Tiếng Dân – đọc được vào ngày 6 tháng 8 năm 2018 –  Nguyễn Đăng Quang (một nhà báo tận tụy và đặc biệt quan tâm về sự việc Đồng Tâm) cho biết:

“Cuộc khủng hoảng Đồng Tâm vẫn đang bế tắc. Người dân đã hai lần gửi TÂM THƯ đến HNTƯ7 và Kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội vừa qua, nhưng không có ai trả lời họ. Mới đây, cụ Lê Đình Kình, người được coi là thủ lĩnh của người dân Đồng Tâm, với danh nghĩa người bị hại trong biến cố Đồng Tâm, đã gửi tới Ủy ban Tư pháp Quốc hội và bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Ủy ban này một “Thư công dân gửi ĐBQH”.

Thư gửi qua ‘Chuyển phát nhanh’, song đến nay đã hơn 2 tháng mà chẳng một ai hồi âm hay phúc đáp cả!

Cụ Kình nhờ tôi hỏi giúp việc này. Tôi có điện hỏi bà Lê Thị Nga, được bà cho biết là chưa nhận được, và đề nghị tôi nhắn cụ Kình gửi lại cho riêng bà, đừng gửi cho ai khác…

Trong cuộc khủng hoảng Đồng Tâm, người viết bài này cũng như tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng cần hồi đáp đơn thư và các nguyện vọng, kiến nghị của người dân.”

Khi đất nước còn ở trong tình cảnh một cổ hai tròng (thực dân & phong kiến) nếu bị đám quan lại địa phương ức hiếp, mấy ông già Ba Tri thời trước chỉ cần mất vài tháng đi bộ từ quê mình ra đến kinh đô – nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn – rồi chầu tấu trình sự việc là … kể như xong.

Còn bây giờ “tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng hồi đáp đơn thư” thôi nhưng điều “mong muốn” giản dị này – xem ra – vẫn hơi có vẻ xa vời, nếu chưa muốn nói là xa xỉ.

Chúng ta đang sống vào cái thời đại (thổ tả) gì vậy, hả Trời?

27/08/ 2018


 

LỄ BỎ MẢ – Tác giả Phạm Thành Châu -Truyen ngan Hay


Tác giả Phạm thành Châu hắn cũng đọc được nhiều chuyện hay, những chuyện tình của ông đều nâng niu những nhân vật chung tình cả nam lẫn nữ vì thế chuyện tình ông viết đẹp và cao thượng, hiền lành giản dị.

Câu chuyện của ông lần này giữa người đàn ông kinh và cô gái thượng mà ta thường gọi là đồng bào sắc tộc nơi tỉnh Thừa Thiên, hình như nơi nào có núi rừng, cao nguyên là nơi ấy có đồng bào thiểu số, mỗi nơi là một sắc tộc khác nhau, cả ngôn ngữ giữa hai nơi cũng có phần khác biệt, mỗi vùng lại có phong tục, tập quán riêng hắn cũng sống gần 4 năm trên núi rừng, nơi hắn làm việc có sắc tộc Stieng, là những người răng cà sát nướu, trái tai được đeo bằng những miếng sừng hay kim loại tròn, hắn thấy có khi họ nong bằng sừng đường kính có đến 4 cm, họ nong lớn dần đến khi nào làm đứt trái trai,lúc đó họ cúng bái ăn mừng như là mừng tuổi thọ như tính thời gian sống bằng cách này. Những người sắc tộc này thường mang họ Y hay họ Điểu.

“Lễ bỏ mả” tác giả đưa lên là tập tục nơi ấp Tà Ràu thuộc tỉnh Thừa Thiên, chắc cũng là gốc người Chàm, hắn cũng mới biết. Những người Stieng nơi hắn có tiếp xúc thấy khi họ chết, tài sản họ đem theo là những “chóe” giống như những chiếc độc bình, càng nhiều, càng to thì chứng tỏ họ càng có nhiều của.

Những chiếc chóe này như theo họ xuống dưới nên khi cúng bái xong họ thọc cho vỡ đáy để không ai lấy trộm.

Hắn gởi các bác xem một phong tục người thượng du Trung phần.

Ara

**********************************

LỄ BỎ MẢ

Phạm Thành Châu

Posted by GLN

Câu chuyện tôi kể dưới đây bắt đầu khi tôi học năm thứ hai ban Anh Văn ở Ðại Học Văn Khoa Huế. Tôi có khiếu về sinh ngữ nên việc học của tôi không mấy khó khăn. Nhưng học mà không thực hành thì khó kết quả. Như môn Anh Văn đa số viết và đọc rất giỏi nhưng nghe và nói, thật vất vả. Nhân dịp Tổng Hội Sinh Viên Huế làm công tác xã hội ở một ấp đồng bào thiểu số, tôi làm quen với một mục sư người Mỹ đang phụ trách truyền giáo ở đó. Tôi đề nghị được giúp ông trong việc phân phối phẩm vật cứu trợ cho đồng bào, thế là tôi có một chỗ thực tập tiếng Anh ngon lành.

Ở tỉnh Thừa Thiên đồng bào sắc tộc chỉ có hai ấp Tà Rầu 1 và Tà Rầu 2 thuộc quận Nam Hòa, phía tây của tỉnh, cách Huế độ mười cây số. Vùng nầy tập trung các lăng tẩm và thắng cảnh đẹp nhất Huế. Ðịa giới  quận bao gồm một phần dãy Trường Sơn với các địa danh A Sao, A Lưới, các căn cứ Bastogne, Birmingham. Cả một vùng rừng núi mênh mông đó đã thành hoang địa vì thuốc khai quang, chỉ phần đất thuộc chính quyền kiểm soát còn giữ được nguyên trạng. Hai ấp của người thiểu số nằm hai bên bờ sông Hương. Ấp Tà Rầu 1 nằm cạnh lăng Minh Mạng phía tả ngạn. Ấp Tà Rầu 2 nằm gần đồi Vọng Cảnh phía hữu ngạn. Theo tôi biết thì trước đây, số đồng bào nầy ở trong rừng sâu, để tránh bom đạn họ chạy đến vùng Quốc Gia và được tạm cư ở đây. Mỗi ấp gồm bốn dãy nhà lợp tôn vách ván. Mỗi gia đình được chia một ngăn. Vì quen sống đơn giản, họ chẳng quan tâm  đến tiện nghi. Có điều, bỏ họ vào sống chung với đồng bào kinh, họ hoàn toàn lạc lõng. Mà dù họ muốn sống như đồng bào kinh cũng không được. Họ không có đất để trồng trọt, chăn nuôi. Cho nên cứ mỗi buổi sáng, theo thói quen, đàn ông móc chà gạt trên vai, miệng ngậm ống vố, lang thang, nghiêng ngó đó đây, rồi lần mò trong bờ, bụi, bắt chuột, rắn, ếch, nhái về nướng làm mồi uống rượu. Riêng đám thanh niên trai tráng đều đi biệt kích Mỹ. Mỗi tháng đến kỳ lương, họ về với gia đình. Bất kỳ đang ở đâu, trong đồn hay trên đường hành quân, hễ nhận được lương là họ bỏ mặc, kéo nhau về nhà, mua rượu, gà, chè chén say sưa cho đến sạch túi mới vác súng về lại đơn vị.

Nhiệm vụ tôi là mỗi sáng thứ bảy đến hội thánh chuyển phẩm vật cứu trợ lên xe, đến nơi đem xuống. Ðồng bào, theo lệ thường đã tập trung sẵn trước sân, ngồi nghe giảng đạo xong, lên nhận quà, thường là những gói “bột dẹp”, “bột xếp”, sữa bột, gạo, đôi khi có cả áo quần, đồ hộp nữa. Ðể dễ thuyết phục đồng bào, ông mục sư học tiếng thượng, tôi cũng học theo ông. Người cán bộ của ty Phát Triển Sắc Tộc dạy rất tận tình nên chúng tôi tiến bộ nhanh. Từ khi ông giảng kinh thánh bằng tiếng thượng, đồng bào rất thích thú, nghe chăm chú hơn. Riêng tôi những lúc đó thường ra góc sân với lũ trẻ bập bẹ chuyện trò.

Tượng nhà mồ được dựng phục vụ cho Lễ bỏ mả (Ảnh: Hồ Xuân Toản)

Một lần, cũng vào giờ giảng kinh, tôi lang thang đến các dãy nhà của đồng bào. Mọi người đều tập trung cả trước sân nên vắng ngắt. Lúc đến gần cuối dãy, tôi chợt thấy một cô bé thò đầu ra cửa sổ nhìn tôi và cười. Tuổi em độ mười hai, mười ba, có đôi mắt đen nhánh, miệng rất tươi, tóc em đen rẽ qua hai bên tai để lộ vầng trán cao và đôi lông mày đậm và dài. Trông em cùng cỡ với một em học lớp đệ thất trung học. Giá như em đi học, có lẽ em là hình ảnh nhí nhảnh, trong sáng nhất trường. Khi tôi đến gần, định hỏi chuyện thì em biến mất sau khung cửa sổ. Tôi ngạc nhiên, sao giờ nầy em lại ở đây, cửa chính lại đóng kín? Tôi tảng lờ đi quá cuối dãy rồi từ từ quay lên nhưng phía đối diện nhà em. Tôi liếc qua, thấy em đã nhô đầu lên chỉ vừa tầm đôi mắt nhìn tôi. Tôi cười với em. Mắt em sáng rực, đuôi mi kéo dài ra, rạng rỡ. Tôi biết em cũng đang cười. Tôi ra dấu rằng tôi sẽ đến gần em, em lắc đầu. Tôi lại ra dấu em ra với tôi, em cũng lắc đầu. Tôi thấy có gì bất thường. Em bị tật nguyền hay em không thích chỗ đông người? Tôi quay về nhưng đôi mắt vẫn còn làm tôi xao xuyến. Người thiểu số, nhất là phái nữ có đôi mắt rất đẹp, đen láy và đoan chính. Cả khi họ để ngực trần và nếu ta nhìn vào đôi mắt họ, tự nhiên lòng ta như được rửa sạch những ý nghĩ vẫn đục, những ham muốn thấp hèn.

Những buổi gặp gỡ và nói chuyện câm như thế kéo dài được vài tháng. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi có vào ấp của em để liên hệ với trưởng ấp những việc linh tinh mà vị mục sư nhờ tôi. Những lúc đó em có nhìn tôi nhưng vờ như không quen biết.
Môt buổi sáng đi ngang qua đồi Vọng Cảnh, lúc cho xe xuống giốc cầu, tôi chợt thấy một toán phụ nữ sắc tộc đang bì bõm dưới giòng nước để bắt ốc, hái rau gì đó. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết ngay có em vì dáng em rất gầy và mái tóc kiểu học trò đó không lẫn được với ai cả. Tôi vội dựng xe gắn máy và lần xuống bờ suối. Hình như nhận ra tôi nên em chậm lại để đi sau cùng. Em mặc một quần đùi màu đen, ống dài quá gối và một chiếc áo hoa rộng thùng thình, đó là đồ cứu trợ do các hội thiện cấp phát. Khi tôi đến gần, em đứng thẳng người nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt đen sâu thẩm sáng lên một nụ cười ngây thơ, hoan hỉ. Hình ảnh đó, suốt đời vẫn còn trong tôi. Tôi cũng vui mừng được gặp em, người bạn nhỏ bé. Tôi tiến xuống bờ suối định chào hỏi thì em lắc đầu và chạy băng lên phía trước. Tiếng chân em bì bõm khiến những người đàn bà quay lại. Họ giăng tay ra cản tôi. Tôi bảo.

– Tôi muốn nói chuyện với em bé kia được không?

Họ lắc đầu vừa nói vừa ra dấu.

– Không được, nó sẽ bị đánh vào đầu, vào người. Mầy đi đi!
Tôi dừng lại và hiểu lờ mờ rằng nếu tôi tiếp xúc với em, em sẽ gặp chuyện không may. Tôi quay lên, đứng nấp vào một bụi cây. Em đi chậm lại và dõi mắt lên cầu như tìm kiếm. Tôi bước ra khỏi bụi cây cho em thấy rõ. Em nhìn tôi và cười. Nụ cười và ánh mắt em như tràn ngập nổi buồn của lưu luyến và tuyệt vọng. Tôi vẫy tay, em cũng vừa thụt lùi vừa vẫy tay rồi vụt chạy đi.
Hôm đó, như thường lệ, đồng bào ở cả trước sân với vị mục sư, tôi lẻn ra đi qua căn nhà của em. Cửa chính vẫn đóng, cửa sổ vẫn mở, nhưng không thấy em đâu. Tôi đi qua, lại mấy lần vẫn thế, cuối cùng tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn vào trong. Tôi bàng hoàng, không tin ở mắt mình. Em đã bị lột trần, chỉ còn chiếc quần đùi. Hai tay, hai chân bị trói chặt vào chân giường. em ngồi gục đầu trong hai cánh tay bị treo lên. Người em ốm tong, thấy rõ cả dãy xương sườn bên hông với những vết hằn đỏ bầm, rớm máu. Em xây lưng ra ngoài, hai chân bị trói cố co lên che lấy ngực nhưng vẫn để lộ ra chiếc vú nhỏ xíu như nửa trái chanh. Tôi gọi nho nhỏ “Em, em!” Em nghe thấy nhưng lắc đầu và vẫn giấu đầu với mái tóc lòa xòa vào giữa hai cánh tay. Rồi đôi vai em bỗng rung động mạnh, tiếng nức nở bị kìm chặt giữa hai hàm răng nghe rên rỉ, tức tưởi. Tôi quay lại, lên xe gắn máy, chạy thẳng ra trụ sở xã. Ông xã trưởng đang bàn chuyện gì đó với một anh cảnh sát và vài người nữa. Tôi xin lỗi họ và trình bày.

– Tôi thấy trong ấp Tà Rầu có một em bé bị trói tay chân vào giường, qúi ông phải giải cứu nó ra chứ.

Tôi chưa dứt lời, ông xã trưởng đã bảo.
– Chúng tôi đang nói chuyện đó, đó.

– Nhưng chính quyền phải can thiệp…

– Cậu ngồi xuống đây, rồi ông cảnh sát giải thích cho cậu nghe. Chuyện nầy đâu phải xảy ra lần đầu. Hôm qua tôi có nghe ông trưởng ấp báo cáo rồi, tôi đã cho người lên mời Ty Sắc Tộc xuống giải quyết, họ hẹn sáng nay đến nên chúng tôi phải ngồi chờ đây, chứ thứ bảy ai mà làm việc. Nhờ ông cảnh sát  giải thích cho cậu đây rõ.

Anh cảnh sát rót cho tôi tách trà rồi nhẫn nha nói.

– Anh làm bên hội thánh phải không? Ông mục sư cũng biết chuyện nầy rồi. Ai cũng biết, chỉ có anh chưa rõ thôi. Nó rắc rối ở chỗ đó tục lệ của đồng bào thiểu số mà luật pháp mình không áp dụng được. Ép nó, nó quậy lên, chẳng hại gì mình nhưng đồng bào bị vạ lây.

Tôi sốt ruột.

– Nhưng dù tục lệ gì cũng phải cởi trói cho người ta chứ!

– Năm kia, ông quận có xuống cởi trói cho con nhỏ, mấy bữa sau bị đau sao đó. Nghe đồn bị thư bùa ngãi, bụng bị sưng lên, phải ra ngoài Hương Hóa, Quảng Trị rước thầy ngãi về trị mới khỏi.
– Nhưng nó là ai mà ngang ngược như thế?

– Là ai? Chồng con nhỏ đó chứ ai!

– Trời đất!

– Năm kia, con người ta mới mười một tuổi mà nó đòi ngủ, con nhỏ nửa đêm vùng bỏ chạy, la khóc. Nó lôi vô lột áo quần, trói ở chân giường mấy ngày, bỏ đói, bỏ khát. Ông quận xuống xử, nó không chịu, ông phải đích thân cởi trói, đem con nhỏ gửi nhà khác, nhưng không ai dám nhận, sợ nó thư bùa ngải. Cuối cùng phải năn nỉ, giải thích cho nó biết là con nhỏ còn con nít, phải chờ đủ mười ba tuổi mới được. Năm nay con nhỏ vừa đủ mười ba, nó lại giở trò cũ. Nó trói lại đánh đập cách nào con nhỏ cũng không chịu. Chẳng biết lát nữa Ty Sắc Tộc xuống giải quyết thế nào đây?!

– Nhưng muốn có vợ thì thiếu khối gì đàn bà, con gái lớn tuổi, sao lại nhè đứa con nít. Nói đồng bào trong ấp cưới cho nó con vợ.
– Nó cũng có vợ đấy chứ. Vợ nó là chị con nhỏ kia.

Tôi ngớ ra, chẳng hiểu gì cả. Anh cảnh sát cười.

– Bây giờ rãnh rỗi, tôi tóm tắt cho anh nghe. Gia đình con nhỏ đó có ba chị em. Hai con chị đã lớn chỉ có con út nầy còn nhỏ thôi. Chị lớn nó có chồng  đang ở bên Tà Rầu một, con chị kế có chồng là thằng cô hồn dịch vật đang nói đây. Lâu rồi, lúc còn ở trong buôn sóc ở trong A Sao, A Lưới kia, ông già của ba cô gái nầy chết, nhà nghèo quá, không có trâu, gà, chiêng, cồng để cúng Yang, làm ma chay đãi làng. Thằng rễ cô hồn nầy mới mua cô út bằng mấy trâu gà gì đó về làm vợ. Vậy là nó có hai vợ, một đứa lớn và một đứa năm bảy tuổi. Nghe nói trong buôn nó là đứa quyền hành, giàu có kiểu như cường hào, ác bá vậy, Bây giờ ở đây, nó không làm gì nhưng ai cũng sợ nó, cả đến đồng bào kinh cũng không dám rây vào. Chính quyền cũng chịu thua, chẳng có cách nào trừng trị nó cả.

– Dù sao cũng phải cứu em nhỏ ra. Ðể vậy nó bỏ đói, đánh đập riết, em chắc chết.

– Ðể chờ Ty Sắc Tộc xuống xem sao.Năm kia, đem ra xử, nó nói con chị lớn muốn bắt em lại phải trả đủ trâu bò, chiêng cồng gì đó. Mà tiền đâu chị nó chuộc em ra.

Một ý nghĩ thoáng trong đầu, tôi hỏi tên em nhỏ và tên người chị lớn rồi cám ơn, lên xe qua Tà Rầu một. Chị ta phảng phất giống em nên tôi nhận ra ngay. Tôi bảo.

– Này, em của chị là Hrao bị cột chân tay, bị đánh đau, bị đói bụng bên Tà Rầu hai chị biết không?

– Tao biết mà không làm gì được. Nó là vợ thằng K’hiu rồi.

– Nhưng phải cứu Hrao ra, chị không thương Hrao sao?

– Tao thương Hrao đầy một bụng, nhưng không có tiền trả cho nó.
– Nếu tôi đưa tiền cho chị, chị có chuộc được Hrao ra không?

Chị bỗng lôi tuột tôi vào góc nhà, thì thầm.

– Thằng K’hiu nó có cái tai nghe xa lắm. Nó ác như con cọp, con rắn. Nó giết mầy chết. Mầy có tiền muốn mua Hrao phải đưa tiền cho tao. Khi Hrao về nhà tao, mầy đến dẫn về nhà mầy làm vợ, không cho thằng K’hiu biết mầy ở đâu.

– Tôi không có tiền ngay, phải ít hôm nữa. Bây giờ tôi đưa chị qua bên xã, bên đó có nhiều người lắm. Ông xã trưởng, ông cảnh sát, ông sắc tộc làm chứng, khi K’hiu đòi tiền chuộc, chị hỏi nó bao nhiêu rồi cho tôi biết. Chị nhớ hẹn nó ba ngày nữa đưa tiền. Nhớ mời nhiều người đến cho họ thấy chị đưa tiền rồi dẫn Hrao về.

Chị ta mừng rỡ.

– Mầy chở tao qua xã thôi, còn mầy đi đi, đừng cho thằng K’hiu thấy. Tôi đưa chị qua xã rồi về Huế dọ giá chiếc xe gắn máy của tôi. Hôm sau tôi lên hỏi chị và thấy số tiền cũng vào khoảng chiếc xe. Tôi về bán xe đưa tiền cho chị, còn một ít tôi mua chiếc xe đạp.

Một buổi sáng, chờ trong ấp vắng người, tôi đến nhà chị. Chị lại lôi tôi vào sau nhà. Em Hrao đang ngồi nấu gì đấy, ngẩn lên thấy tôi, em đứng dậy, nhìn sửng tôi. Người chị bảo.

– Vợ mầy đó, Hrao ưng mầy lắm. Mầy và Hrao nằm đây.

Chị chỉ chiếc giường rồi đóng các cửa lại và đi ra ngoài. Tôi dìu em Hrao đến bên giường ngồi xuống. Em vòng tay ôm lấy tôi, úp mặt vào ngực tôi yên lặng. Tôi không nghe em khóc nhưng nước mắt thấm ướt cả áo tôi. Em Hrao nhỏ quá, ốm quá. Tôi ôm vai em mà xương vai cộm rõ trong bàn tay tôi. Em vẫn mặc chiếc áo hoa rộng thùng thình như hôm trước, một chiếc váy vải đen thô, dài phủ cả bàn chân, có lẽ là váy của người chị.
– Em được về đây, anh mừng lắm. Anh ngồi với em một lát rồi anh về.
Em ngước nhìn tôi, ngạc nhiên.

– Em không về nhà anh à?

– Không, em vẫn ở đây với chị em, thỉnh thoảng anh ghé thăm em.
– Nó sẽ giết anh, giết em. Nó nói, em nói chuyện với ai, nó sẽ giết hai đứa.

– Anh sẽ ít gặp em, em đừng sợ.

Em vẫn lắc đầu.

– Không. Em là vợ anh mà!

– Anh còn đi học, không có tiền nuôi em, không có nhà để ở. Em còn nhỏ quá, làm vợ chưa được. Em chờ anh hai năm nữa, học xong, anh sẽ đi làm, có tiền cưới em về sống với anh.
Ấp Tà Rầu một nằm cạnh lăng Minh Mạng. Lăng xây trên một ngọn đồi, chung quanh có tường thành bao bọc, lại có những giòng nước, hồ sen. Phụ nữ sắc tộc thường đi dọc các con suối, bắt ốc, hái rau. Họ đi buổi sáng đến trưa thì về. Tôi hẹn với em Hrao mỗi tuần vài ba buổi chiều gặp em ở sau lăng. Em cũng đi hái rau với các bạn. Thấy tôi họ vẫy tay bảo.

– Mầy giữ nó, tụi tao về trước.

Chúng tôi ngồi trên bờ suối, khuất sau những đám cỏ tranh hoang vu. Tôi giở trong xách tay ra một số quà rong. Ít trái cây, bánh và nước lạnh trong chai nhựa. Em Hrao rất thích những trái cây chua như cốc, me, ổi…Với chút muối ớt, đem bao nhiêu em giành ăn hết cả. Chúng tôi vừa ăn quà vừa chuyện trò. Tôi thích hỏi em đủ thứ chuyện để nghe em trả lời một cách ngây thơ, buồn cười. Em xem tôi như người anh đồng thời em dâng tôi thứ bản năng thiết tha, nồng nàn của một người vợ theo như truyền thống của sắc tộc em, đã là vợ khi còn rất trẻ.
Từ ngày em về với người chị, em là con chim sổ lồng. Em như cây hoa được chăm sóc, vun xới và bắt đầu có những nụ hàm tiếu. Em lớn nhanh và nẩy nở đến độ chỉ hơn một năm mà em đã đứng đến vai tôi rồi. Tâm hồn em cũng trưởng thành theo. Những lần gặp nhau, em vui mừng theo cách của một thiếu nữ đến với người yêu. Em thường bạo dạn ngồi sát bên tôi, tựa đầu vào vai tôi yên lặng thật lâu…

Tôi về Hội Thánh lấy một số áo quần vừa tầm cho em. Hôm nào đến hẹn, em mặc áo đẹp ở trong, ngoài khoác một áo cũ. Khi chỉ còn hai chúng tôi ở bờ suối, em cởi áo ngoài, hãnh diện đến trước mặt tôi, nhìn tôi để chờ được khen. Tôi ngắm em sửng sờ.
– Hrao! Em đẹp như tiên.

– Em Hrao chỉ mặc áo đẹp cho anh nhìn thôi, không ai biết em đẹp hết.
Hai mắt em long lanh tuổi dậy thì, má em hồng, ngực em đã nhô cao, phập phồng sức sống, đùi em nở tròn, hằn rõ dưới lần vải. Tôi nhìn thấy và hãnh diện khi nghĩ đến khu rừng trinh nguyên, quí giá đó, trong một ngày trọng đại, tôi và em sẽ cùng nhau khai phá, thưởng thức sự huyền nhiệm của tình yêu vợ chồng. Tôi thường dặn em phải ăn và ngủ thật nhiều để mau lớn. Em vâng lời và khoe với tôi.

– Ở nhà, em Hrao no rồi mà còn ăn nữa, hết buồn ngủ rồi mà còn nhắm mắt ngủ nữa.

Tôi khen em giỏi, em bảo.

– Nhưng khi Hrao về ở với anh, Hrao ít ngủ để anh ngủ nhiều, ít ăn để anh ăn nhiều.

– Ðể làm gì?

– Hrao ra nương rẫy bứt lúa về nấu cho anh ăn no.

Em lúc nào cũng mơ đến một khung trời hoang dã, như con chim rừng cùng bạn đời tung cánh trong cõi tự do, bao la.
Mùa Xuân năm 1975, miền Nam bị tấn công. Dân Huế hoảng hốt chạy cả vào Ðà Nẳng. Năm Mậu Thân kinh hoàng với những vụ thảm sát tập thể khiến cho những người dù không liên hệ đến chính quyền cũng bồng bế nhau chạy giặc. Tôi cũng chạy vào Ðà Nẳng, nhưng mấy hôm sau thành phố cũng bị chiếm nốt. Rồi có thông cáo đồng bào phải trở về quê cũ. Ðáng lẽ tôi về quê ở Quảng Ngãi, nhưng tôi lại ra Huế, định dẫn em Hrao về với gia đình. Cha mẹ tôi chỉ sinh được tôi là con trai nên rất yêu thương. Tôi tin rằng em Hrao sẽ được chấp nhận như một nàng dâu, tuy còn trẻ nhưng xinh đẹp, hiền lành. Tôi về lại nhà trọ trong thành nội vào buổi chiều, qua sáng hôm sau ra đường Trần Hưng Ðạo định đón xe lên Tà Rầu thì bị việt cộng chận bắt. Một tên bạn học trở cờ đã báo cáo tôi là tay sai C.I.A, trực tiếp chỉ huy là vị mục sư Tin Lành. Tôi bị nhốt vào lao Thừa Phủ. Họ đưa giấy bút bắt tôi thành thật khai báo. Viết xong họ không chịu, bắt tôi viết lại, hàng chục lần, nhưng tôi có biết gì về C.I.A đâu! Lúc đầu họ dỗ dành, sau hăm dọa, rồi họ bắt đầu tra tấn tôi, chết đi sống lại mấy lần. Suốt bốn tháng trường, đến khi nghĩ rằng mình không thể sống được, tôi đâm ù lì, bảo họ.

– Cứ giết tôi đi, tôi chẳng có gì để khai cả.

Thế rồi họ thả tôi ra. Tôi về nhà trọ nằm liệt, chỉ còn da với xương. Người chủ nhà rất tốt, săn sóc tôi tận tình. Một thời gian sau đã khá, có thể đi vững, tôi ra đón xe lam lên Tà Rầu tìm em Hrao. Xuống xe ở chợ Tuần, tôi đi đò qua sông Hương, qua ngã lăng Minh Mạng đến ấp Tà Rầu. Tôi đi rất đúng đường, nhưng trước mặt tôi là quả đồi trọc, không còn chút dấu vết gì của đồng bào thiểu số cả! Họ đã đi sạch. Tôi lên đỉnh đồi nhìn quanh, chỉ thấy một cõi mênh mông vắng lặng. Tôi đi theo lối mòn và tìm thấy nền nhà của em. Tôi ngồi xuống, cảm thấy được gần gủi em. Ðến chiều, tôi xuống đồi vào lăng Minh Mạng, đến bờ suối cũ và lại chờ em. Tôi lấy trong xách tay ra một ít trái cây cho em, để đấy và dõi  mắt tìm quanh…
Thấy trời gần tối, tôi đành quay về.

Những ngày sau đó, tuy người còn yếu, tôi vẫn lên vùng Nam Hòa, lang thang vào các nơi cũ, hi vọng được gặp em. Một buổi chiều, đang đứng trên đồi, chợt tôi thấy bên kia, nơi những ngôi mộ người thiểu số, thấp thoáng bóng người sắc tộc. Tôi mừng rỡ, chạy băng qua, họ sẽ giúp tôi biết được em Hrao ở đâu. Khi tôi đến nơi thì hình như họ vừa cúng lễ gì đó xong. Một đám lửa gần tàn, một ít đồ gia dụng, áo quần, ống vố, chà gạt…để cạnh một ngôi mộ. Ðó là những người trong ấp trước đây, chúng tôi mừng rỡ khi nhận ra nhau.

– Ðồng bào cúng gì đó?

– Tao cúng bỏ mả, tao không ở đây nữa, không đem cơm, đem thịt cho nó nữa. Tao cúng bỏ nó, nó theo Yang để có cái ăn, cái uống.
– Bây giờ đồng bào về lại trong núi rồi hả?

– Tao về lại buôn rồi.

– Có xa không?

– Tao đi từ lúc con gà gáy, bây giờ về lại trong buôn.

– Gia đình người chị và em Hrao có về đó không?

– Chị Hrao về đó nhưng Hrao không về.

– Sao vậy? Bây giờ em Hrao ở đâu?

– Nó ở đằng kia. Nó chết rồi. Mộ nó kia kìa.

Tôi cảm tưởng như thình lình bị rút hết sức sống trong người. Tôi run lên, choáng váng.

– Không phải đâu. Em Hrao nầy nhỏ và đẹp lắm. Em ở với người chị.
– Hrao đó, tao biết, mầy ưng nó lắm, mầy mua nó làm vợ, ai cũng biết.
-Nhưng vì sao Hrao chết?

– Thằng K’hiu giết nó.

– Tại sao lại giết em, nó đã lấy đủ tiền trâu, tiền cồng rồi mà.
– Tao không biết, ngày mai chị của Hrao ra đây làm lễ bỏ mã, mầy hỏi nó.

Tôi đến bên mộ em, quì xuống, vuốt ve nấm mộ.

– Anh vẫn không tin rằng em đã chết. Em hứa với anh sẽ ra rẫy, ra nương làm việc, sẽ nấu cho anh ăn, sẽ sinh cho anh nhiều con. Em quên rồi sao? Dậy với anh đi em. Em ra suối bắt ốc, hái rau. Anh ngồi chờ em mấy bữa nay ngoài đó.
Tôi cứ lảm nhảm một mình cho đến tối mịt mới về. Chiều hôm sau lên mộ em, tôi đem theo một ít hoa và những trái cây em thích. Tôi đặt các thứ lên một tờ báo, thắp nhang và quì lạy em. Tôi cứ quì như thế, lòng mơ tưởng đến hình bóng em, nhớ lại những ngày em và tôi bên nhau…Khi trời về chiều, có tiếng chân lên đồi, tôi quay lại, thấy chị của Hrao và chồng đang đi tới. Họ thấy tôi, giật mình sợ hãi, lùi lại.

– Mầy là ma phải không? Mầy chết rồi mà.

– Không, tôi còn sống đây.

– Mầy giống con ma, mầy ốm quá.l

– Chị nói tôi nghe, em Hrao còn sống phải không? Người chết trong mộ nầy không phải Hrao mà.

– Hrao chết  rồi, nó nằm đó. Tao đến đây làm lễ bỏ mả nó.

– Chị kể tôi nghe, vì sao Hrao chết?

Hôm súng nổ, đồng bào kinh sợ lắm, chạy trốn hết. Rồi bộ đội lên làm ấp trưởng, xã trưởng. Ít lâu sau có mấy thằng bộ đội lên hỏi về mầy, về ông mục sư. Ai nó cũng hỏi. Sau nó biết Hrao là vợ mầy, nó hỏi Hrao nhiều lắm. Tao nghe nó nói với Hrao “Mầy phải nói hết cho tao. Nó mua mầy làm vợ để mầy làm gì cho nó, cho thằng mục sư? Mầy đừng sợ nó, thằng chồng người kinh của mầy chết rồi, nó không đòi trâu, đòi chiêng cồng được nữa. Mầy cứ nói thật cho tao nghe” Hrao hỏi “Tại sao mầy biết chồng tao chết?” Thằng bộ đội nói “Chính mắt tao thấy” Hrao kêu lên “Mầy giết chết chồng tao rồi!” Và ngã xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, chỉ khóc chứ không ăn gì hết. Hrao kêu tên mầy mấy ngày mấy đêm rồi chết. Tao biết thằng K’hiu đã sai con ma bóp cổ Hrao, nó không ăn được, không thở được.

Tôi lặng người vì đau khổ và xót thương em. Tình em đối với tôi đơn sơ biết bao! Em tưởng tôi đã chết nên nhịn đói để chết theo tôi.
Vợ chồng chị lôi trong gùi ra những lễ vật. Người chồng chôn một cây cọc và cột một con gà nhỏ còn sống bên mộ em, xếp một đống củi và bắt đầu đốt lửa lên. Chị thì đặt trên những tàu lá chuối cơm và thức ăn, bên cạnh là tài sản sơ sài của riêng em. Mấy cái chén, đĩa, vài cái áo quần, một số kẹp tóc và hai cái nịt ngực mà tôi nhớ trước đây đã mua cho em “Anh không muốn ai nhìn thấy ngực em cả” Nhưng hôm sau em bảo “Hrao không mặc được, thở không được” Tôi nói với chị xin giữ  lại chiếc áo hoa và chiếc quần đùi mà em đã mặc lần đầu tôi gặp ở dưới suối.
– Không được đâu, mầy lấy áo quần của Hrao, nó sẽ theo mầy về nhà đó.
– Thật không, nếu vậy em Hrao sẽ ở bên tôi suốt đời.

Chị ngồi xuống, người chồng ngồi bên cạnh, dùng cái dùi quấn vải gõ lên cái cồng bắt nhịp và chị bắt đầu khấn vái. Giọng chị đều đều, buồn thảm trong tiếng gió lộng, tiếng lửa cháy tí tách và tiếng cồng ngân nga vang vọng. Tôi quì xuống, chấp tay, nhắm mắt lại. Tôi thấy em Hrao đứng nhìn tôi, đôi mắt đen lánh, ngập tràn yêu thương, rồi em sà vào lòng tôi, đầu tựa vào ngực tôi. Từ mái tóc em, từ người em mùi thơm trinh nữ quen thuộc, ngọt ngào. Tôi hôn em, thì thầm “Hrao, em yên lặng nghe chị em làm lễ cầu hồn cho em”.

“Ơi em Hrao!

“Hôm nay, áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, các kút cũng đã được tạc rồi. Chị đem cơm đến đây cho em ăn, đem rượu đến đây cho em uống, bởi vì từ nay chị sẽ bỏ em, chị sẽ quay lưng lại em.

“Ðất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, em ở trong áo quan, em ở trong mả, nhà của em ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, em ở một miền đất khác, em uống những giòng nước khác.

“Xin em đừng kêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu chị, đừng thương yêu cháu của em nữa.

“Từ nay chị sẽ không còn mang cơm, không còn mang nước, chị sẽ bỏ mả và không còn săn sóc mả nữa.

“Nếu em muốn ăn cơm, xin em hỏi thần những vì sao, nếu em muốn ăn thịt gà, xin em hỏi thần mặt trăng, nếu em muốn ăn cá, xin em hỏi thần cai quản trên trời. Một vị thần khác sẽ săn sóc, trông nom em.

“Em đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, em là chim Hrao ở trong rừng rậm, em là chim Tlang Hêă sống ở phương Nam.

“Chị đã sữa sang mả rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu máu bò rồi.

“Thôi, từ nay thế là hết. Thôi, từ nay thế là hết! Như lá M’nang đã lìa cành, lá M’tôi đã tàn úa.

“Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than, không còn khóc nữa. Sẽ không đem của, đem tôm, đem cơm, đem rau đến mả nữa. Sẽ không còn để tang, không còn kiêng cử nữa. Chóe rượu cúng Ngokbu đã đặt xuống mả rồi, cây chuối, cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà đã được thả bay đi rồi. Chị đã quên em rồi, đã bỏ em rồi!

“Ơi em Hrao, chị đã bỏ em rồi!”

Chị đã dứt lời mà tôi vẫn còn quì và nhắm mắt. Tôi và em Hrao đang chìm đắm trong hạnh phúc của bao kỉ niệm cũ, bao ước mơ về một ngày thành vợ thành chồng, quấn quít bên nhau.
Chị đến bên tôi hỏi nho nhỏ.

– Mầy thương Hrao lắm sao? Mầy nhớ Hrao lắm hả?

Bấy lâu nay tôi đã nuốt những giọt nước mắt vào lòng. Tôi cô đơn quá! Giờ đây, nghe chị hỏi, tất cả nổi buồn trong lòng, tôi không kèm được nữa. Tôi ôm chị khóc say sưa.

Phạm Thành Châu

From: Phi Phuong Nguyen


 

CHÚA MUỐN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.

“Ở Nga, Kitô hữu bị thử thách bởi gian khổ; ở Mỹ, họ bị thử thách bởi tự do. Bởi ‘tự do’ khó hơn nhiều! Không ai áp lực trên niềm tin của bạn. Vì vậy, bạn thoải mái, không quá tập trung vào Chúa Kitô, vào sự dạy dỗ của Ngài, vào cách Ngài muốn bạn sống! Vấn đề ở chỗ, không phải những gì bạn muốn, nhưng Chúa muốn!” – Pavel Poloz.

Kính thưa Anh Chị em,

Một lần nữa, chúng ta khám phá lòng thành sâu sắc của người phong cùi qua chi tiết “Chúa muốn” trong Tin Mừng hôm nay; một chi tiết mà cả ba thánh sử nhất lãm nhất mực không bỏ qua, “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.

“Nếu Ngài muốn!”. Điều này đánh dấu một thiên hướng thánh thiện trong tâm hồn con người này. Thiên hướng đó là anh muốn chính Chúa Giêsu, còn hơn muốn được Ngài chữa khỏi. Với anh, Chúa Giêsu và ý muốn của Ngài thì lớn hơn tất cả! ‘Chúa muốn’, không phải anh muốn! Qua đó, anh bộc lộ sự nhẫn nại của một con người sẵn sàng đón nhận thập giá trong kế hoạch Thiên Chúa dành cho anh. Bởi lẽ, tự co rút lại, không chấp nhận khiếm khuyết của mình – tự thân – đã là một trở ngại để được chữa khỏi chúng! Anh xác tín, ‘Chúa muốn’ thì Chúa làm; bằng không, thì đó vẫn là điều tốt nhất mà Ngài muốn cho vinh quang Ngài nơi thân xác cùi hủi của anh.

Một số người sẽ mất kiên nhẫn trong cuộc chiến này! Họ muốn lành lặn tức khắc hơn là muốn chính Đấng chữa lành. Phương cách chữa trị như thế có thể tốt cho phần xác nhưng lại làm nghèo phần hồn nếu không nói là ‘sinh bệnh’; và điều này không bao giờ hấp dẫn đối với Thiên Chúa! Sự cởi mở đối với thời gian của Ngài, không bất an với những câu hỏi tại sao, tại sao… để phó mặc trong tay Chúa cho phép bệnh tật chữa trị linh hồn trước khi nó được cất khỏi sự èo uột của thân xác.

Đến lượt Chúa Giêsu, Ngài nói, “Tôi muốn!”. Hình dạng xấu xí của bệnh cùi là biểu tượng cho linh hồn một tội nhân! Sự chịu đựng tác động khốn khổ và biến dạng do tội giục giã con người lần theo con đường hoán cải. Với ai vẫn cảm thấy nhức nhối về một tội lỗi trong quá khứ, sẽ có một điều gì đó cản trở khi họ không tin tưởng đủ vào một cuộc sống mới. Và thật khó để tin rằng, Chúa muốn gần họ hơn chính họ muốn đến gần Ngài; đúng hơn, Ngài khao khát họ! Và đây, sự can thiệp của Thiên Chúa thì luôn dứt khoát, vĩnh viễn, tuyệt đối! Chúa Giêsu di chuyển bàn tay của Ngài chạm vào người cùi, “Tôi muốn, anh hãy được sạch!”; từ xác đến hồn!

Anh Chị em,

“Nếu Ngài muốn!”. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta chịu sự ‘ham muốn’ phạm tội. Phạm tội nhẹ, chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng “chuyện nhỏ” hoặc “không phải là tội trọng”. Tuy nhiên, tội nhẹ cũng làm biến dạng hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta. Nó “cản trở sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành các nhân đức và điều thiện luân lý… và dần dần, chúng ta phạm tội trọng”. Hãy đến với Chúa Giêsu trong Bí tích Hoà Giải, nơi Ngài chạm đến, chữa lành và giao hoà chúng ta với Chúa, với Giáo Hội! “Chúng ta thường che đậy tội bằng sự giả hình của một “lối sống tốt”. Chính lúc đó, chúng ta cần ở một mình, quỳ gối trước Chúa và cầu nguyện, “Lạy Chúa, nếu ‘Chúa muốn’, Chúa có thể làm cho con được sạch!”. Hãy làm điều đó, hãy làm trước khi đi ngủ, mỗi tối!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ bất cứ một điều gì ngoài tội lỗi – điều làm con xa Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

***********************************

Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người toàn thân mắc bệnh phong vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 13 Người giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh. 14 Rồi Người ra lệnh cho anh không được nói với ai, và Người bảo: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”

15 Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; dân chúng lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. 16 Nhưng Người lui vào những nơi hoang vắng mà cầu nguyện. 


 

Dư Thị Thành- Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

09/01/2025

Tưởng Năng Tiến

9-1-2024

Hồi ký (Đồng Bằng) của Nguyên Ngọc có dành đôi ba trang viết về Rạch Gốc – một địa danh hẻo lánh, ở tuốt luốt tận dưới mũi Cà Mau lận:

Rạch Gốc chẳng chợ búa gì hết, mọi thứ phải chạy đò lên Năm Căn mua… Một buổi sáng, bước ra trước sân Ủy ban, tôi ngạc nhiên thấy treo cờ tang.

Hỏi sao vậy … trả lời: Ông Andropov chết.

Tôi hỏi lại: Ông Andropov là ai thế?

Trả lời: Không biết, nghe đài Hà Nội biểu treo cờ tang thì mình treo…

Cờ tang cho ông Andropov nào đó treo rất đúng quy cách, chỉ kéo tới nửa cột, thòng kèm một dải vải đen nhỏ phất phơ trong gió biển…”

Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa.

Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.

Nói chi đến chuyện tang ma của một đồng chí cỡ Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước của nước ta. Tang lễ, truy điệu, điếu văn, nhang khói, hoa hòe, hoa sói, cờ phướn, cờ tang, cờ liệt, cờ rũ … thì (ôi thôi) tá lả bùng binh – theo như thông tin rầm rộ của báo chí nước nhà:

Ở thời điểm này, phu nhân của cố TBT – tất nhiên – cũng trở thành một yếu nhân, thuộc diện trung tâm. Mọi hình ảnh của bà đều được ký giả, phóng viên, nhà báo … ghi lại qua ống kính, không sót một góc cạnh nào:

Thế mới biết là giới truyền thông của nước CHXHCNVN “tác nghiệp” cũng rất nhiệt tình và hăng hái, trong điều kiện an toàn. Riêng báo Tuổi Trẻ còn có bài (“Thư Tay Của Phu Nhân Tổng Bí Thư Lào Gửi Phu Nhân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng”) cảm động hết biết luôn, khiến cho mọi tầng lớp độc giả đều phải sụt sùi, rơi lệ:

“Chị Mận kính mến!        

Hôm nay (ngày 19-7), khi vừa về đến nhà, anh Thongloun Sisoulith bước đến gần em với sắc mặt buồn rầu và cất giọng nói khác thường: ‘Naly ơi, anh vừa nhận được tin anh Nguyễn Phú Trọng mất, anh đã rời xa chúng ta rồi’.

Chị Mận ơi, trong giây phút đó em thật sự đứng tim, không thể nói nên lời và em không thể cầm được nước mắt, anh Thongloun Sisoulith đã ôm em vỗ nhẹ vào lưng và an ủi rằng: ‘Anh cũng rất đau buồn và thương tiếc khi nhận được báo cáo khẩn từ Hà Nội, em hãy bình tĩnh và mạnh mẽ. Anh Trọng đã ra đi một cách thanh thản, anh ấy đã nhắm mắt đi xa trong niềm tiếc thương và đau buồn vô tận của nhân dân cả nước Việt Nam’.

Ai mà dè dân Lào lại đa cảm dữ vậy chớ? Tình cảm của bà Naly dành cho bà Mận (không dưng) khiến tôi thốt nhớ đến tình cảnh buồn bã và cô quạnh của một người đàn bà khác, bà quả phụ Lê Đình Kình – nhũ danh Dư Thị Thành.

Chồng bà Thành cũng là một đảng viên Cộng Sản (và cũng đã qua đời cách đây chưa lâu lắm) nhưng cái chết của ông ta bất ngờ, rùng rợn, thảm thiết lắm kìa. Tang ma thì não nề, và u uất. Tình cảnh vợ con/cháu chắt của người quá cố, xem ra, cũng vô cùng bi đát – theo tường thuật của RFA:

Đã bốn năm trôi qua kể từ ngày hàng ngàn cảnh sát cơ động tấn công vào thôn Hoành lúc rạng sáng, bắn chết cụ Lê Đình Kình – thủ lĩnh tinh thần của người Đồng Tâm, nhưng những ký ức đau buồn vẫn còn hiển hiện đối với những người liên quan như mới hôm qua…

Những người đàn ông trụ cột trong nhà, người thì bị bắn chết như ông Lê Đình Kình, người thì bị tuyên án tử hình như hai con trai của ông là Lê Đình Công và Lê Đình Chức, cháu nội ông Kình là Lê Đình Doanh bị án chung thân, và ba người khác bị án tù từ 12 năm đến 16 năm về tội “giết người” trong khi sáu người khác bị kết án từ 5-6 năm về tội “chống người thi hành công vụ.”

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của RFA trước ngày giỗ chồng lần thứ tư, bà quả phụ Dư Thị Thành cho biết đến nay, chính quyền xã không làm giấy khai tử cho ông Kình vì bà không đồng ý ký giấy thừa nhận ông bị bắn chết ở Đồng Sênh, là cánh đồng mà dân Đồng Tâm cho là của mình còn chính quyền thành phố Hà Nội và huyện Mỹ Đức nói là đất quốc phòng.

Facebooker Lã Việt Dũng, người có mặt tại hiện trường, cho biết thêm chi tiết qua BBC:

“Sáng nay đám tang cụ Kình, an ninh chìm nổi dày đặc…không cho một ai quay phim, chụp ảnh và cắt liên lạc toàn vùng. Tuy nhiên vẫn có một phóng viên … tiếp cận và lấy được lời kể của vợ cụ Kình:

‘Người ta bắt khai là ở nhà cầm lựu đạn, tôi bảo là tôi không biết quả lựu đạn thế nào, tôi không biết bom xăng là thế nào, thì tôi không khai được. Thế là nó tát, cứ thế nó tát, nó đá, tát suốt, hết bên nọ sang bên kia, xong rồi nó đá vào hai bên ống chân,’ bà Thành nói”.

Sao mà đối xử phân biệt “kỹ” dữ vậy, hả Trời?

Cả hai ông đều là đảng viên cộng sản lão thành (và đều tin vào chủ nghĩa này cho đến hơi thở cuối) mà. Nguyễn Phú Trọng thì nhất định dẫn dắt cả nước đi theo con đường XHCN, dù không tin rằng nó có thể “hoàn thiện đến cuối thế kỷ này”. Còn Lê Đình Kình thì “tin ông Trọng, ủng hộ ông Trọng, ủng hộ đảng tuyệt đối”, bất kể đúng sai. Vậy mà ông Tổng Bí Thư nỡ hạ sát ông Bí Thư Xã bằng nhiều phát đạn. Chưa đã, nạn nhân còn bị phanh thây, không cho khai tử, rồi tịch thu luôn cả tiền phúng điếu, và bắt con cái người ta phải chịu án tử hình – y như một vụ án tru di!

Nay thì cả hai ông đều đã xuống tới Suối Vàng (nơi mà sức mạnh của chuyên chính vô sản chắc không còn hiệu lực) nên hy vọng họ có thể nói chuyện phải quấy với nhau một cách bình đẳng và tử tế hơn – chút xíu!

Sự bình đẳng và tử tế không hề có trên dương thế:

Cùng là phận đàn bà
Một người chìm dưới đáy
Người tột đỉnh vinh hoa
Nhưng băng tang cũng vậy

Cũng màu tang trắng ấy
Phanh thây Lê Đình Kình
Cũng màu tang trắng ấy
Cả triều đình tụng kinh

Thơ thay mặt thần linh
Cất tiếng lòng Đỗ Phủ
Trần gian lắm bất bình
Người với người dã thú

Cùng là thân phụ nữ
Xót bà vợ dân lành
Tiếng khóc than ai oán
Thấu chín tầng trời xanh!

Bùi Chí Vinh  – 29/7/2024

Nước ta – may quá –  bên cạnh 820 tờ báo và 41.000 người cầm viết ăn lương, vẫn còn có được một nhà thơ, và một bài thơ … tử tế!