SỰ CHẾT – CUỘC NHẬP TỊCH SAU CÙNG. – Lm Bùi Trọng Khẩn

Lm Bùi Trọng Khẩn

    nguồn:thanhlinh.net

Sự định cư của con người trên trần gian giống như hành trình của người du mục. Họ được sống trong thời đại và muốn nên giống thời đại qua những phương diện nổi bật nhất.

Nhưng họ chỉ được phép nhập tịch vào một thời đại nào đó mà không có thể định cư trong mọi thời đại.  Chính yếu tố không gian và thời gian quyết định cho họ phải như thế.

Người ta thường dễ dàng sống cho một lý tưởng, một cuộc sống hiện thực nhưng ít ai dám sống vì lý tưởng chết! Mặc dù trong lý thuyết của niềm tin dạy họ sống vì cái chết sau cùng.

Sự chết là một hành trình đưa người ta vào một cuộc nhập tịch trong một “thời đại” mới mà nơi ấy họ sẽ định cư vĩnh viễn chứ không phải như  người du mục. “Thời đại” ấy chính là một thế giới khác mầu nhiệm đã được chuẩn bị cho con người trước khi tạo dựng vũ trụ. Cũng như  đời sống con người phải nhập tịch vào một thời đại rõ ràng thì sự chết cũng bắt người ta phải nhập tịch theo một kế hoạch đã được Thiên Chúa an bài trong trật tự của Ngài . Đây là điều giúp cho con người tin tưởng vào thế giới mới không là một huyền thoại, không là một ảo ảnh, không là một sự ru ngủ nhau! “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành”(Ga 17, 24) là một lời mạc khải đầy vui mừng và hy vọng của Đức Giêsu cho chúng ta về hành trình con người sẽ đi tới.

Chết chính là lúc được sinh ra và nhập tịch vào thế giới mới. Như nước trở về nguồn để hòa tan trong một khối mênh mông nơi nó được xuất ra thì con người ta cũng thế, tất cả phải đi đến và trở về với vĩnh cửu. Vĩnh cửu là cha của mọi loài thọ sinh.  “Thầy từ Chúa Cha mà đến  và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” (Ga 17, 28).

Cuộc nhập tịch của Đức Giêsu qua cái chết đã kéo theo một cuộc nhập tịch của tất cả mọi loài thọ tạo, đấy là một ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (Cl 1, 19). Hiện diện thế nào được nếu không có sự nhập tịch. Viên mãn thế nào được nếu không có ơn cứu rỗi. Trở về thế nào được nếu không có người mở đường cho mà đi. Như thế Đức Giêsu muốn bày tỏ cho thế giới thụ tạo thấy một con đường đẹp mà chính Người là đường là sự thật và là sự sống (Ga 14, 6) được minh chứng trong cuộc vượt qua của Người. Người giúp thụ tạo khám phá ra bản chất thực của mình, đồng thời cũng giúp ta hiểu rằng không một sức mạnh, không một sự xấu xa nào có thể phá vỡ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Cuộc nhập tịch sau cùng của con người là một hành trình đi với Thiên Chúa trên con đường mang tên là Giêsu . Con đường Giêsu đã cắm những mốc trên lộ trình trần gian qua cuộc sống 33 năm trời với những “đèn xanh”, “đèn đỏ” ở những giao lộ để hướng dẫn cho người ta một lối đi có chọn lựa. Người ta sẽ được trở nên chính mình trong con đường của Đức Giêsu và được sống sự sống của Ngài khi được nhập tịch trong thế giới mà Đức Giêsu đã đi vào. Thế giới của thần linh là đích điểm mà con người hằng khao khát và đạt tới sẽ diễn ra trong niềm tin của họ như một “tấm thẻ” để bảo đảm cho thủ tục của cuộc nhập tịch sau cùng được trọn vẹn.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

www.trongkhan.net

‘Một tay cầm khẩu AK, một tay viết luật chết cha đồng bào’-Trần Thế Kỷ 

Ba’o Nguoi-Viet

January 13, 2025

Trần Thế Kỷ 

Nghị định 168, có hiệu lực kể từ ngày 1 Tháng Giêng năm 2025, bị nhiều người dân cho là chỉ làm giàu cho Cảnh Sát Giao Thông (CSGT).

Theo nghị định này, một số lỗi vi phạm bị tăng nhiều lần so với qui định cũ, trong đó có lỗi vượt đèn đỏ và đi ngược chiều. Cụ thể là xe hơi vi phạm hai lỗi này bị phạt từ 18 tới 20 triệu đồng thay vì 4 tới 6 triệu đồng theo qui định cũ. Còn xe gắn máy bị phạt từ 4 tới 6 triệu đồng thay vì vài trăm ngàn như trước đây.

Ghi hình người vi phạm giao thông. (Hình: Báo Thanh Niên)

Nhiều người dân cho rằng với nghị định 168, CSGT phen này trúng mánh, ăn Tết to. Phạt nặng như vầy nên không cho dân quay phim giám sát là hiểu rồi. Chắc Đảng nghĩ tiền, vàng trong dân còn nhiều nên cứ thẳng tay vét. Người nghèo mà lỡ vi phạm thì mệt lắm đây. Đồng lương còm của dân thì không tăng, phạt thì tăng. Chắc phạt nặng để nhà nước ăn bò dát vàng, còn thằng dân ăn cám.

Người dân trách nhà nước không lo nâng cấp đường sá mà chỉ lo phạt cho sướng tay, dân khóc kệ dân. Dân nghèo lo đi làm bằng xe đạp hoặc xe buýt cho chắc cái túi tiền còm. Mà cũng chưa chắc, xe đạp vi phạm vẫn bị phạt như thường. Chỉ ngồi nhà uống nước thay cơm là không lo bị phạt. Mức lương trung bình của người dân Việt Nam chỉ khoảng 7 triệu đồng một tháng, nhưng một lỗi vượt đèn đỏ có thể bị phạt tới 6 triệu đồng. Điều này khiến nhiều người lâm cảnh khốn đốn, trong đó có những người không cố tình vi phạm.

Mặt khác, dù ông Đại Tá Nguyễn Quang Nhật của Cục CSGT khẳng định Luật Trật Tự Và An Toàn Giao Thông không có qui định CSGT được trích lại 85% tiền xử phạt vi phạm giao thông, nhưng thực tế cho thấy điều ngược lại. Đó là Quốc Hội hàng năm đều thông qua nghị quyết về phân bổ ngân sách, qua đó Bộ Công An được sử dụng 85% số tiền từ xử phạt vi phạm giao thông để chi cho các hoạt động đảm bảo an toàn giao thông, trong đó có việc bồi dưỡng cho lực lượng CSGT. Điều này được cho là sẽ khuyến khích CSGT tìm cách xử phạt thật nhiều để tăng thu nhập.

Mà sao nhà nước nổi hứng phạt nặng vậy? Chắc để tăng nguồn thu cho ngân sách vốn bị bọn tham ô làm thất thoát. Nhưng đã thế thì nên giảm biên chế đám công an để khỏi trả lương. Không đâu nhiều công an như ở Việt Nam, ăn lương vô cùng nhiều, mà lương vốn từ tiền dân đóng thuế cho nhà nước. Có báo Đảng nói dân ủng hộ nghị định này. Thật vớ vẩn vì dựa vào đâu mà nói như thế. Dân đâu có điên mà ủng hộ cái nghị định chỉ chăm bẵm túi tiền của dân mà móc. Theo báo Đảng, nghị định 168 ra đời từ việc lấy ý kiến của dân. Nhưng chẳng người dân nào biết gì về cái gọi là “lấy ý kiến” này. Nhà báo nói láo ăn…

Chưa hết, Cục CSGT còn hăm he rằng nếu người vi phạm bỏ xe thì sẽ không được cấp hoặc đổi giấy phép lái xe. Ngoài ra, nếu không có giấy phép lái xe, người vi phạm sẽ bị phạt rất nặng. Dân cho rằng cục này hăm thế là rất bất nhân. Bởi bỏ xe chỉ là chuyện chẳng đặng đừng của dân khi mức phạt cao hơn giá trị xe. Người dân cho rằng mức phạt phải tương ứng với thu nhập bình quân của dân. Và rằng dân không có tiền nộp phạt thì đành bỏ xe cho nhà nước sung công thanh lý. Nhà nước không nên triệt luôn quyền tham gia giao thông của dân. Mặc kệ dân ra sao thì ra, sống sao thì sống thì có đáng là chính quyền “của dân, do dân, vì dân” không?

Đề nghị rằng đã có nghị định 168 thì cũng nên có nghị định 169 qui định bắn bỏ thằng cán bộ nào tham ô từ 1 tỷ đồng trở lên làm ngân sách thâm hụt, khiến nhà nước đẻ ra cái nghị định chó chết này để bù cho sự thâm hụt đó. Tự dưng lại nhớ mầy vần thơ của Bùi Giáng:

Một tay cầm khẩu AK

Một tay viết luật, chết cha đồng bào!


 

NGƯỜI KHIÊM TỐN – Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Trở thành người khiêm nhường, không nhất thiết phải che giấu hết các tài năng, không cần phải giả vờ ngu dốt, không buộc phải sống trong một căn nhà nhỏ hẹp cũ kỹ, ăn mặc rách nát.  Cũng không cần phải lúc nào cũng cúi đầu “vâng vâng, dạ dạ,” đi đứng khom lưng, vẻ mặt đăm chiêu như đang chìm sâu vào miền vô cực nào đấy.  Cũng không nhất thiết phải đi tu, đến nhà thờ, đi lễ chùa, quỳ gối chắp tay thành khẩn, làm biết bao việc hãm mình khổ chế, không ăn ngon mặc đẹp, không đi dự tiệc sang, không dám tiêu xài.  Cũng đừng bao giờ sợ được khen, sợ chìm vào hư danh mà cố tình không cống hiến, không bộc lộ hết sức mình vì lợi ích chung của tập thể.

Tất cả những điều này chỉ là bề ngoài.  Việc sống một đời sống kham khổ, chịu sỉ nhục, khinh miệt… có thể là một trợ giúp để có sự khiêm nhường nhưng tự bản thân nó không phải là sự khiêm nhường vì người ta nhiều lúc phải chịu như thế bởi không thể làm gì khác hơn, đành phải cắn răn chịu đựng.  Ngược lại, ăn mặc lịch lãm, được người khác ca tụng, lớn tiếng sửa dạy người khác có thể là những dấu chỉ của sự kiêu căng, nhưng cũng có khi là điều mà người đó cần phải làm vì một lợi ích gì đó hoặc họ xứng đáng được điều đó vì những hy sinh của mình.  Điều quan trọng hơn cả là nội tâm của một con người.

Sự khiêm tốn là một cái gì đó rất ngược ngạo, vì người nào tự cho rằng mình khiêm tốn, dù có nói ra hay không, người đó đã trở nên kiêu căng rồi.  Người nào càng ý thức tìm kiếm sự khiêm tốn, người đó càng không bao giờ tìm thấy.  Cứ như một trò đùa, sự khiêm tốn sẽ bỏ người ta mà đi khi nó phát hiện có ai đang tìm cách để có nó.  Trên hành trình của đời sống thiêng liêng, có một thời người ta phải nỗ lực và dùng hết sức để đi tìm, nhưng đến một lúc nào đó, người ta tự thấy không thể làm gì hơn, ngoài việc buông lỏng chính mình để chân lý tự tìm đến.  Càng gồng mình với những cố gắng và mục tiêu, người ta càng thấy hụt hẫng và bế tắc, như đi vào ngõ cụt.  Cố nắm bắt sự khiêm tốn cũng như cố bắt lấy bóng trăng.  Cứ tưởng là có được, nhưng nó cứ mãi vuột khỏi tầm tay.

Sự khiêm tốn là đỉnh cao của đời sống thiêng liêng.  Nó là cái mà khi người ta đã có được nó mà chẳng hề hay biết.  Nó không màu không sắc, không mùi không vị.  Nó hệt như cái VÔ bao trùm lấy người ta khi họ đã đạt tới cảnh giới vượt qua mọi bám víu của hồng trần.  Người khiêm tốn thì chẳng biết khiêm tốn là gì, ở đâu.  Người ấy thậm chí còn không ý thức đến sự tồn tại của nó.  Họ chỉ sống như cái bản tính tự nhiên của mình.  Họ hành xử như thế vì đối với họ nó phải là như thế.  Họ bộc lộ ra bên ngoài trọn vẹn cái bản chất của mình, cái “chính mình”, cái làm nên họ trong sự tròn đầy nhất.  Bởi vậy, cảnh giới của sự khiêm nhường là khi người ta đã vượt lên trên sự ý thức, vươn đến cái vô thức.  Vô thức ở đây không có nghĩa là hời hợt, không để ý gì cả theo kiểu tiêu cực, nhưng là một kiểu để mình được chiếm trọn, biến mọi cái chân thiện mỹ trong mình bộc phát một cách tự nhiên như người ta tự nhiên hít thở mà không để ý gì đến nó.

Người khiêm tốn là những thánh nhân thật sự, vì họ luôn chan chứa một sự bình an lớn lao trong lòng.  Họ không đeo trên mình những chiếc mặt nạ.  Họ đón nhận mọi sự xảy đến với mình với một sự biết ơn, cả điều tốt lẫn điều xấu.  Họ luôn thấy hài lòng với tất cả mọi sự chung quanh, dù những điều đó có diễn ra theo ý họ hay không.  Họ chấp nhận mọi thất bại, điểm yếu, khiếm khuyết, lỗi lầm của mình một cách chân thành, và xem nó như hồng ân.  Họ không chạy theo những phù hoa bóng mây, không cầu toàn, cầu an, không để mình lệ thuộc vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai.  Đây không phải là một kiểu ngông nghênh, bất cần đời, xem thường luật lệ.  Nhưng là một thái độ mềm mỏng như con nước, hay như chiếc bình khoét rỗng chính mình, mở ra cho ân sủng đổ vào.  Kiểu bình an như thế là kết quả của một quá trình dài bỏ mình, rèn luyện mình, gọt dũa mình với biết bao đớn đau, vết thương và nước mắt.

Người khiêm tốn cũng là con người rất đẹp.  Họ đẹp một nét đẹp của Thiên Đường, chứ không phải bằng những hình thể của thân xác.  Họ luôn có sức thu hút người khác, khiến người khác cứ tuôn đến tiếp cận với họ.  Ở gần bên người khiêm tốn, ta tự thấy mình như được hưởng lây cái dịu mát của ngọn gió nhân đức, ta thấy dễ chịu như được sưởi ấm giữa trời đông, không một chút kháng cự hay đề phòng.  Có một hương thơm lạ kỳ và cuốn hút nào đấy phát ra từ nơi họ hệt như cánh hoa thơm không cần phải hô vang để gây sự chú ý.  Có thể nói, họ đã hoà quyện mình vào với tự nhiên, vào cái Đạo của vũ trụ.  Họ thật sự trở thành những con người “sống ở thế gian, nhưng đã vào cõi Thiên Đàng.”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: Langthangchieutim


 

XIỀNG XÍCH-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”.

“Những sợi xích của thói hư tật xấu thường quá nhỏ để cảm nhận cho đến khi chúng quá mạnh để bị phá vỡ! Chúng khác nào những chiếc giường êm ái – dễ dàng nằm lên, nhưng quá khó để bước xuống và rời đi!” – Mark Twain & Samuel Johnson.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay nói đến một người bị ‘xiềng xích’ bởi thần ô uế! Và Chúa Giêsu – với lời quyền năng của Ngài – đã tháo cởi cho anh, “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta nghĩ đến những “thói hư tật xấu thường quá nhỏ” hay “những chiếc giường êm ái” của mình – mà vì chúng – có thể bạn và tôi đang bị ‘xiềng xích!’.

Ngay trong hội đường, trước mọi người, nạn nhận bị thần ô uế hành hạ phải la hét. Đây là cách ma quỷ hành xử. Nó muốn chiếm hữu chúng ta để ‘xiềng xích’ linh hồn chúng ta. ‘Xiềng xích linh hồn chúng ta’ chính là điều ma quỷ muốn! Chúng ta phải cảnh giác với những trói buộc vốn kìm hãm sự tự do của mình; bởi lẽ, ma quỷ luôn luôn tìm cách tước mất tự do. Hãy thử nêu tên một số ‘xiềng xích’ có thể đang trói buộc mình!

Với Đức Phanxicô, “Đó là những cơn nghiện vốn luôn biến chúng ta thành nô lệ, khiến chúng ta luôn cảm thấy không hài lòng trong cuộc sống. Chúng nuốt chửng năng lượng, triệt tiêu điều lành và huỷ hoại các mối quan hệ. Đó là chủ thuyết tương đối với xu hướng hàng đầu là khuyến khích chủ nghĩa hoàn hảo phi thực tế, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, biến con người thành hàng hoá và phá hỏng các mối tương quan!”.

“Đó còn là những cám dỗ, mời mọc làm suy yếu lòng tự trọng, sự thanh thản, khả năng lựa chọn và yêu thích cuộc sống. Một ‘xiềng xích’ khác chính là nỗi sợ hãi vốn luôn khiến chúng ta nhìn về tương lai với sự bi quan, mất niềm hy vọng và bất khoan dung khi luôn đổ lỗi cho người khác mà không bao giờ chấp nhận trách nhiệm của mình. Sau cùng, một ‘xiềng xích’ rất xấu xí khác là sự sùng bái quyền lực, tạo xung đột và dùng đến vũ khí giết người hoặc sử dụng bất công kinh tế và thao túng tư tưởng!”.

Chỉ Chúa Giêsu – bằng cái chết của Ngài – mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi xích xiềng đó. Thư Do Thái hôm nay viết, “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa”. Tạ ơn Chúa, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta – những công trình của Thiên Chúa – Ngài tái phục chúng ta để chúng ta sống xứng đáng như con cái Thiên Chúa, “Chúa đã đặt Con Chúa làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta tự hỏi, tôi có thực sự muốn được lời quyền năng của Chúa Giêsu giải thoát khỏi những ‘xiềng xích’ đang trói buộc trái tim tôi không? Tôi có khả năng nói “không” với những cám dỗ của sự dữ trước khi chúng gieo vào tâm hồn? Cuối cùng, tôi có thành tâm cầu khẩn Chúa Giêsu, để Ngài hành động trong tôi, chữa lành tôi bên trong?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những “thói hư tật xấu vốn thường quá nhỏ”, đẩy xa con “những chiếc giường êm ái” để con được tự do chỗi dậy, tiến về phía trước!”, Amen.

 (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: Kim Bang Nguyen

********************************************

Thứ Ba Tuần I Thường Niên, Năm Lẻ

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

21 Tại thành Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy: 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư.

23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” 26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi người đều sững sờ đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” 28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê. 


 

Cổ Tích Đời Thường: Cô Gái Xinh Đẹp bỏ thanh xuân cho người đàn ông nằm một chỗ

Phong Bụi 

Cổ Tích Đời Thường: Cô Gái Xinh Đẹp bỏ thanh xuân cho người đàn ông nằm một chỗ

Có những câu chuyện tưởng như chỉ xuất hiện trong cổ tích, nhưng lại xảy ra quanh ta, giản dị và thiêng liêng.

Câu chuyện về chị Thoa, một cô gái trẻ đẹp, đã quyết định gác lại thanh xuân của mình để chăm sóc một chàng trai xa lạ – anh Tuấn – là một câu chuyện như thế.

Chị Thoa, quê ở Đồng Nai, vô tình xem được đoạn video về anh Tuấn, một chàng trai bại liệt nằm bất động ở Tây Ninh. Trong video, anh cất giọng hát yếu ớt nhưng đầy cảm xúc, khiến lòng chị trào dâng một niềm thương xót khó tả. Không chần chừ, chị vượt hơn 100 cây số tìm đến nhà anh.

Khi tận mắt chứng kiến hoàn cảnh của anh – sống lặng lẽ bên người cha già bị tai biến, không người chăm sóc – chị càng không thể quay lưng. Dẫu biết con đường phía trước đầy khó khăn, chị vẫn quyết định gác lại tuổi trẻ của mình, gác lại những dự định cá nhân, để ở bên cạnh anh, làm đôi tay, đôi chân và cả niềm hy vọng cho anh.

Thời điểm ấy, giữa họ chỉ là tình bạn thanh khiết. Nhưng những gì chị làm không phải ai cũng đủ dũng cảm để thực hiện: hy sinh cả thanh xuân, cả tương lai rực rỡ của mình để chăm lo cho một người xa lạ.

Chị đã chứng minh rằng, không phải tất cả tình yêu đều bắt nguồn từ sự lãng mạn, mà có những tình yêu xuất phát từ lòng trắc ẩn, từ ánh sáng trong tâm hồn. Đó là tình yêu không cần đáp lại, chỉ cần biết rằng mình đã làm điều đúng.

Chuyện đời của chị Thoa và anh Tuấn là lời nhắc nhở về sức mạnh của lòng nhân ái, về việc đôi khi, phép màu không đến từ thần thánh, mà đến từ chính trái tim của con người.

Thanh xuân gửi lại

Tuổi xuân chị bỏ sau lưng,

Đổi lấy nụ cười, niềm tin một người.

Dẫu rằng đời lắm chơi vơi,

Tay chị nâng đỡ, giữa trời giông mưa.

Người đời ngợi chị nhân từ,

Mà đâu ai hiểu, nỗi nhọc lòng riêng.

Một đời chăm sóc, dịu hiền,

Chỉ mong người ấy trọn niềm bình an.

Thanh xuân gửi lại thời gian,

Chị mang ánh sáng dịu dàng cho anh.

Một đời, dù ngắn hay dài,

Chỉ cần trọn nghĩa, chẳng hoài tiếc chi.

Phong Bụi


 

Trở lại quê nhà (Bài 5): Thay đổi hay là chết-Nguyễn Thọ

Ba’o Tieng Dan

13/01/2025

Nguyễn Thọ

Tiếp theo bài 1 — bài 2 — bài 3 và bài 4

Phản hồi bài trước của tôi, có bạn lạc quan cho rằng: “Việt Nam cứ vững bước tiến lên, ai than thở cứ than thở”. Hoặc ngược lại: “Cải cách gì cũng chằng hóa rồng được”.

Lịch sử không đơn giản chỉ có trắng-đen.

Tình hình thế giới hiện nay đang đặt Việt nam trước những lựa chọn khác hẳn. Cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraina nhằm vẽ lại đường biên giới là một cú sốc. Không chỉ lo ngại một hành động tương tự từ Trung Quốc, mà thái độ đối với Nga, nhà cung cấp vũ khí hàng đầu của Việt Nam cũng thay đổi. Một nhà báo trẻ ở Hà Nội nói: “Việc báo chí thiên vị cho Nga, chỉ đưa tin từ nguồn thân Nga không phải vì họ không biết là ai xâm lăng, mà vì những định kiến xấu với phương Tây ăn sâu lâu nay trong đầu. Nhưng vũ khí phương Tây sẽ dần thay thế hàng Nga và nguyên thủ ta đã bắt tay Zelensky rồi đó”.

Số phận bi thảm của Ukraina là bài học đắt giá cho những nước cùng chung số phận sống bên một đế quốc hung hãn. So với Việt Nam, Ukraina có tiềm lực mạnh hơn nhiều, nhất là công nghiệp quốc phòng, lực lượng trí thức và đội ngũ kỹ sư tin học. Ukraina có một hậu phương nông nghiệp bao la và quan trọng nhất là được cả một liên minh phương tây hậu thuẫn (Nhóm Ramstein hội tụ 50 nước ủng hộ Kiev).

Bất chấp tất cả những thuận lợi đó, Ukraina vẫn bị tàn phá tan hoang, 1/5 lãnh thổ bị mất, hàng trăm ngàn người chết, hàng triệu người tha hương.

Tổn thất này là do đất nước mạnh thứ hai trong liên bang Xô Viết đã ngủ quên hơn 20 năm, không cải cách kinh tế, xã hội, chỉ sống bám vào quan hệ kinh tế với ông bạn láng giềng. Sau khi tách ra khỏi Liên Xô, Ukraina vẫn copy Nga trong mọi việc, từ nền kinh tế đến cách tổ chức quân đội, công an, hậm chí đã trao vũ khí hạt nhân cho Nga. Còn gián điệp Nga thì nằm ở mọi ngõ ngách.

Có người coi những lỗi lầm đó do các chế độ thân Nga trước năm 2014 gây ra. Nhưng dù là ai thì họ cũng là người Ukraina. Lịch sử sẽ chỉ nói là Ukraina bị mất Crimea và một phần Donbas năm 2014, chứ không nói là Ukraina nào. Trung Quốc cũng đã cướp Hoàng Sa 1974 và Gạc Ma 1988 của Việt Nam, không kể Việt Nam nào.

Nếu không mau chóng có một nền công nghiệp mạnh, một thiết chế xã hội hiệu quả, nếu không có đủ đồng minh tin cậy, nếu không mau chóng thoát khỏi vòng cương tỏa của Nga và Trung thì cơ hội sống sót của Việt Nam khi Bắc Kinh gây hấn là bao nhiêu?

Nước Mỹ sau Trump 1 và trước Trump 2 đang đẩy thế giới vào trật tự “Cùi chỏ’, “Mạnh nuốt yếu”. Ý đồ nuốt chửng Canada, Panama và Groenland khuyến khích cho Putin khôi phục lại Liên Xô cũ, giúp Tập quyết tâm chiếm Đài Loan và các đảo Biển Đông. Thương mại xuất siêu sang Mỹ, bao năm qua đã góp phần đáng kể cho Việt Nam tăng trưởng, liệu có giữ được trước một tổng thống chỉ thích chơi “Áp thuế”? Đối với MAGA, đồng minh kiểu gì cũng chỉ là gánh nặng.

Cách duy nhất để không bị mạnh nuốt yếu là mình phải mạnh, phải thành một thế lực mà ai nhìn vào cũng phải nể.

Vậy thì không thể cứ rung đùi ca ngợi tốc độ tăng trưởng 5%-6%/năm được mãi nữa. Đã đến lúc phải thoát nhanh khỏi cái cái bẫy “Thu nhập trung bình” mà mãi mới đạt được. Mục tiêu tăng trưởng hai con số đã chính thức được đặt ra. Việc Singapore trước kia nghèo hơn Sài Gòn, nay chạy xa tít mù tắp đã trở thành lời than thở chính thức. Thể chế chính trị tắc nghẽn xưa nay thường được gọi chệch là “cơ chế vận hành”, nay đã được thẳng thắn gọi đích danh để cải cách. Cỗ xe cồng kềnh, không hiệu quả, chỉ dựa vào cán bộ chuyên môn “đủ giỏi” để tiến từ từ nay trở thành bước cản. Kế hoạch tinh giảm bộ máy nhà nước, cắt bỏ nhiều cơ quan, tổ chức ký sinh, với hàng chục ngàn biên chế đã bắt đầu được thực hiện. Triển lãm “Quốc phòng Việt Nam” tổ chức ở sân bay Gia Lâm tháng trước là một nỗ lực rõ ràng để quốc tế hóa và nội hóa vũ khí cho quân đội, thoát khỏi sự phụ thuộc vào Nga.

Những biểu hiện của nhận thức “Cải tổ hay là chết” này là chính đáng và tạo hy vọng cho rất nhiều bạn bè mà tôi gặp. Nhưng điều đó không dễ. Sau gần 40 năm “đổi mới” trong hòa bình, cải cách lần này thực chất là phá bỏ các rào cản do chính mình tạo ra. Vượt qua mình mới khó.

Ai cũng biết giao thông đô thị ở Việt Nam là sự hỗn loạn có một không hai. Bao nhiêu tiền đổ vào các hệ thống đường cao tốc, hầm chui, cầu vượt đều không có kết quả. Vậy mà kỳ diệu thay, chỉ một đêm sau khi ban bố mức phạt sáu triệu đồng cho xe máy vượt đèn đỏ, trật tự đã được thiết lập. Nhưng bi kịch mới xuất hiện, nạn ùn tắc! Ùn tắc đến mức kinh hoàng (nguyên văn), nhiều hoạt động đình trệ. Người đi xe bỗng nuối tiếc tình trạng vô luật trước đây.

Thì ra xưa nay ta đi lại được, tuy chậm, là nhờ cái mà du khách nước ngoài gọi là “Sự hỗn loạn hợp lý”. Hợp lý vì trong nền giao thông đó, hỗn loạn như vậy mới được việc. Nay cố gắng lập lại trật tự giao thông mong giảm thời gian chết trên đường, bớt khí thải v.v. mới té ra là hệ thống giao thông hiện hành phù hợp hơn với sự hỗn loạn, vô luật pháp.

Tương tự, người ta chưa tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra trong ngành giáo dục, nếu việc dạy ngoài giờ và lạm thu các loại “Tiền bóng đèn” bị cấm tiệt. Nhà nước chỉ nuôi giáo viên một phần, kiếm đâu ra phần còn lại từ dân?

Tương tự, đầu tư nhà nước sẽ đình trệ, nếu qui định đấu thầu hiện tại bị xóa bỏ. Dù thất thoát, nhưng luôn có một bên B nào đó đã được A ngầm cam kết cho thắng và dự án vẫn được giải ngân, công trình vẫn hoàn thành.

Các ví dụ trên cho thấy: Lĩnh vực nào cũng vậy, sự “hỗn loạn hợp lý” đã giúp cỗ máy không hiệu quả này hoạt động.

Giờ đây phải tiến nhanh, phải hiệu quả để khỏi bị tụt hậu, nhưng không đơn giản bỏ cỗ máy đó, mua cỗ máy khác. Đã đến lúc cần những người “rất giỏi” điều hành, để tháo gỡ những gì các bạn “ít giỏi hơn” để lại.

Điều này không dễ, vì đầu tiên nó sẽ mâu thuẫn với chính sách cán bộ xưa, vì phải tát cạn cái hố trũng đạo đức mà tôi nêu trong phần trước.

Điều quyết định là xã hội phải sản sinh và đào tạo con người mới. Phạm Thanh Vân, sáng lập viên của “Dự án Đại Sự Ký Biển Đông” nói với tôi trong một tiệm cà phê nhỏ. “Có nhiều con đường để canh tân đất nước. Nhưng không con đường nào thoát khỏi việc phải tạo ra một tầng lớp trí thức có trình độ sâu sắc, có phương pháp làm việc chuyên nghiệp”.

Tâm đắc vô cùng với Vân. Nhưng tôi băn khoăn một điều. Thanh niên Việt Nam hiện nay có nhiều không gian hơn để hoạt động, có nhiều nguồn thông tin hơn để tìm hiếu hơn chúng tôi. Vậy mà xã hội vẫn thiếu nhân tài. Năm 2010 tôi được vào thăm nhà máy Intel ở Khu công nghệ cao TP.HCM cùng một số trí thức Việt kiều khác. Nhà máy này chủ yếu đóng vỏ chíp, kiểm tra và đóng gói chip Intel. Cho đến nay, đầu tư 1,5 tỷ USD này của Itel vẫn không tạo ra kích thích nào khác cho công nghiệp bán dẫn nước nhà. Việt Nam thiếu những trí tuệ đủ sức xây dựng ngành này. Trong các ngành khoa học xã hội sự thiếu hụt này còn trầm trọng hơn

Trí tuệ cao cấp chỉ có được trong một nền giáo dục có đẳng cấp, được bảo vệ bằng tự do học thuật. Có bạn tiết lộ rằng: vụ tấn công đại học Fulbright là do tình báo Hoa-Nam giật dây [1]. Tôi không dám khẳng định điều đó, nhưng tin rằng dù do ai xui thì trong nước vẫn có rất nhiều kẻ sợ cách mạng mầu, sợ dù vàng nên mới có những bài báo cố tình nhầm lẫn “Tự do học thuật” với “Diễn biến hòa bình”.

Trở ngại lớn nhất cho những cố gắng cải cách chính là lực lượng âm binh đông như quân Nguyên.

Nhìn tấm hình ông Jensen Huang chủ tịch Nvidia nhậu với Thủ tướng, tôi thầm mong hai ông tranh thủ lúc bù khú đã giải thích rõ sự nhầm lẫn tai hại nọ.

(Còn tiếp)

[1] https://fulbright.edu.vn/…/thu-ngo-tu-truong-dai-hoc…/


 

Tại sao trong loài người lại có những sự bất bình đẳng?- Cha Vương

Mến chúc bạn và gia quyến ngày thứ 2 đầu tuần nhiều niềm vui và hạnh phúc trong phục vụ và yêu thương nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/1/2025

GIÁO LÝ: Tại sao trong loài người lại có những sự bất bình đẳng? Mọi người đều có phẩm giá như nhau, nhưng lại không có những điều kiện sinh sống như nhau. Những bất bình đẳng là do xã hội loài người gây ra và đều nghịch Phúc Âm. Thiên Chúa ban cho con người những ơn phúc và tài năng khác nhau, Chúa mời gọi họ chia sẻ cho nhau. Trong tình bác ái, người này phải chia cho người kia những gì họ còn thiếu thốn. (YouCat, số 331)

SUY NIỆM: Có một thứ bất bình đẳng giữa con người, không phải do Thiên Chúa mà do những điều kiện kinh tế và xã hội, nhất là do sự phân phối trên thế giới không đều nhau về các nguyên liệu, các của cải và vốn. Thiên Chúa chờ đợi ta để ta làm biến mất khỏi thế giới tất cả những gì trái nghịch công khai với Tin Mừng, và coi thường phẩm giá con người. Nhưng cũng có sự bất bình đẳng giữa con người tương ứng với kế hoạch của Thiên Chúa như bất bình đẳng về tài năng, về điều kiện lúc ban đầu, về khả năng. Thiên Chúa muốn như vậy để ta biết rằng làm người có nghĩa là để “cho và vì” người khác, để yêu mến họ, để chia sẻ, để phục vụ sự sống. (YouCat, số 331 t.t.)

❦  Bạn là Kitô hữu, bạn đang có sẵn một tư liệu gồm khá nhiều thuốc nổ để làm cho cả cái văn minh này nổ tung ra, để làm cho thế giới không còn trên dưới, để mang lại hòa bình cho thế giới bị xé nát vì chiến tranh. Nhưng các bạn lại đối xử với tư liệu đó chỉ như một tác phẩm văn chương mà thôi, và thế là hết. (Mahatma Gandhi—1869–1948, hướng dẫn tinh thần cho phong trào độc lập của Ấn Độ, sáng lập phong trào bất bạo động)

  Hãy thương người nghèo, và đừng quay lưng lại với họ, nếu bạn quay lưng với người nghèo là bạn quay lưng với Chúa Kitô. Người làm cho mình thành người đói, người ở trần, người không nhà, để các bạn và tôi có dịp yêu Người. (Mẹ Têrêsa Calcutta) 

LẮNG NGHE: Kẻ giàu người nghèo gặp nhau ở điểm này: cả hai đều được ĐỨC CHÚA tạo dựng. (Cn 22:2)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin đừng để con quay lưng lại với nỗi đau của anh em con nhưng tăng thêm lòng thương cảm để con biết tận dụng khả năng Chúa ban làm giảm đi nỗi đau do những bất bình đẳng của xã hội loài người gây ra.

THỰC HÀNH: Ai là người đang cần đến sự nâng đỡ của bạn? Cuộc sống chỉ có giá trị khi bạn cho đi. Mời bạn làm một điều gì đó để tăng thêm giá trị trong cuộc sống nhé.

From: Do Dzung

***********************

An Bình Bên Chúa – Lyrics | Thánh Ca Công Giáo 

YouTube player

Nước Mất & Mất Nước – Tưởng Năng Tiến

Tưởng Năng Tiến

Tập bút ký Quê Hương Ngày Trở Lại – xuất bản năm 2019 – của nhà phê bình văn học & xã hội Thụy Khuê, có đôi đoạn, hơi nhậy cảm :

“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu…

Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”

Tác giả viết không có chi sai. Tuy thế, “sau khi miền Nam thua trận năm 1975”, lắm kẻ ở vùng đất này (e) khó có thể chia sẻ cái quan niệm bao dung và khoáng đạt của thượng dẫn.

Tập bút ký đầy ắp những tài liệu lịch sử khả xác và khả tín (được viết bởi một ngòi bút tài hoa) đã được đăng tải làm 10 kỳ trên trang Văn Việt. Sau đó, tác phẩm này còn được phổ biến trên trang TV&BH thêm hai kỳ nữa (và chỉ 2 thôi) với lời giải thích của ban biên tập:

Đến kỳ 3, chúng tôi quyết định không tiếp tục giới thiệu loạt bài này trên TV&BH nữa. Lý do tại sao, xin kính mời quý độc giả cùng theo dõi bài viết dưới đây của nhà văn Khuất Đẩu, người có gốc gác ở Khánh Hòa Nha Trang, hiện đang sinh sống ở Việt Nam.

Bài viết này (“Thụy Khuê Trở Lại Quê Hương Để Làm Gì”) mở đầu bằng những câu chữ hơi gay gắt:

Kính thưa bà Thụy Khuê,

Tôi xin mạn phép được viết những dòng này, sau khi đọc xong bài bút ký của bà nhan đề là: Quê hương ngày trở lại (kỳ 3)

Tôi xin nói ngay rằng, đó không phải là một bài viết ca ngợi quê hương, như tôi lầm tưởng, mà chỉ để chửi và dạy khôn người dân Việt Nam (trong đó có tôi).

Phần kết luận cũng thế, cũng không được thân thiện, hay nhẹ nhàng (hoặc dịu dàng) gì cho lắm:

Nói đến tài liệu thì bà là nhất.

Nhưng nói tới tình cảm, nhất là tình yêu quê hương thì, xin nói thực, bà hãy còn “hô khẩu hiệu” lắm.

Tôi không quen Khuất Đẩu, và chỉ biết ông qua tác phẩm (Lão Tiền BốiNhững Tháng Năm Cuồng NộNgười Giữ Nhà Thờ Họ …) cùng những bài viết đã được phổ biến rộng rãi trên nhiều trang mạng. Tác giả nguyên là nhà giáo, trước khi trở thành nhà binh, thuộc bên bại cuộc. Tôi cũng thế (cũng là một tên lính thất trận) nên chủ quan tin rằng mình có thể hiểu được, phần nào, cái tâm trạng (phẫn uất) của người đồng cảnh!

Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến VN, không ít đồng đội của chúng tôi bỗng mất liên lạc vô tuyến với thượng cấp. Vô cùng hoang mang, họ tìm đường trở về đơn vị. Gần đến nơi, tất cả đều bàng hoàng và kinh sợ khi thấy lá cờ lá cờ đỏ sao vàng đang phất phới giữa sân bộ chỉ huy.

Không ít người đã tự xử ngay tại chỗ. Số đông còn lại thì đi tù. Có kẻ đi đến chục năm, và khi về thì mất ráo cả nhà cửa lẫn vợ con. Ở vào hoàn cảnh đó, thật khó để có thể giữ được cho mình “lòng an nhiên tự tại” – dù đất nước có mất đi tấc đất nào đâu mà còn hoàn toàn thống nhất!

Trong nhiều hoàn cảnh khác cũng thế, cũng khó mà khỏi bật tiếng kêu than là “quê hương của mình” không còn nữa. Xin ghi lại một câu chuyện nhỏ (qua một mẩu tin ngắn) đọc được trên Báo Công An Nhân Dân, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020:

Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền máy.

Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người, phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra, làm rõ.

Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41 khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát (Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm cam kết không tái phạm.

Đêm vẫn còn dài nên xin phép được ghi thêm một câu chuyện nữa, qua lời kể của đôi bạn đồng hương:

Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam. 

Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.

Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường. 

Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài.

Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi chưa từng nghe thấy bao giờ : 

  • Ụ má mày, mày xí gạt Mày hứa đưa tao về quại mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má mày…mày đi đâu… đừng chết.) … Dậy đưa tao về quại! (Phạm Thanh Nghiên. “Chuyện Kể Của Chồng”. Tiếng Dân – 05/08/2020 ) .

Bà Yến từ trần vào năm 1993, khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé năm xưa nay đã trở thành một người ở tuổi trung niên. Tôi băn khoăn tự hỏi: nếu vẫn còn sống sót, chả hiểu ông Hên có còn muốn về quê ngoại hay không?  Và “lỡ” muốn thì cách sao mà về được nhỉ?

Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo dài đến vài thế kỷ nhưng kiếp người thì chỉ tính bằng năm. Trong những năm tháng đó, không phải ai cũng có chỗ tạm cư (trong cơn quốc biến) và có điều kiện để hồi hương bằng thông hành, chiếu khán, cùng ít nhiều ngoại tệ. Với những kẻ lâm vào bước đường cùng, không có một mảnh giấy lận lưng, không được một đồng xu dính túi (và cũng chả tìm được chỗ nương thân) thì chuyện nước/non – xem ra – không chỉ xa vời mà còn xa xỉ lắm!

TNT


 

Nhà Văn Phạm Tín An Ninh & tình chiến hữu-Vương Trùng Dương 

Ba’o Nguoi-Viet

January 12, 2025

Vương Trùng Dương 

“Con người sống không có tình yêu thương cũng giống như vườn hoa không có ánh mặt trời, không có gì đẹp đẽ và hữu ích có thể nảy nở trong đó được”

(Nhà văn Victor Hugo)

Nếu bạn có thể kể chuyện, tạo nhân vật, nghĩ ra các sự cố xảy ra và có sự chân thành và đam mê thì việc bạn viết như thế nào cũng không thành vấn đề.”

(Nhà văn Somerset Maugham)

Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang.

Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử. Đó cũng là chất liệu và đề tài qua các tác phẩm nổi tiếng của ông như Shadows in Paradise (Các Bóng Tối Của Thiên Đường), Arch of Triumph (Khải Hoàn Môn), All Quiet on the Western Front, (Phạm Trọng Khôi khi phục vụ ở Trường Đại Học CTCT Đà Lạt dịch tựa sách: Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh)… Vì vậy văn hào Remarque được nhiều độc giả ở miền Nam Việt Nam biết đến.

Với tác phẩm Chiến Hữu, kể về cuộc sống nước Đức thời kỳ hậu chiến. Phác họa nhiều khía cạnh cuộc sống cơ cực của tầng lớp nghèo hèn nhất trong xã hội, những con người bị coi là hạng cặn bã phải chịu hậu quả ghê gớm của chiến tranh, trong khi đó kẻ cầm quyền tha hồ trục lợi. Hình ảnh ba cựu chiến binh giữa bên thắng và bên thua, bạn bè đã mất, lại lâm vào nghịch cảnh như nhau trong cảnh lầm than đó đã sống bên nhau, chia sẻ từng miếng ăn. Họ sửa chữa xe cũ, sống lay lắt qua ngày. Những lúc buồn chán bù khú rượu chè an ủi cho nhau, giống như đang trong hầm trú ẩn của chiến tranh, và bên ngoài đối với họ vẫn là chiến trường ác liệt. Họ phải chịu tất cả nỗi đau, mặc cảm mà xã hội không ai hiểu và thông cảm cho họ, trừ những người cũng ở đáy của tầng lớp nghèo hèn như họ. Họ cô độc và phải sống với cái cô độc đó.

Truyện của nhà văn Phạm Tín An Ninh cũng đã đề cập nhiều đến hình ảnh chiến hữu trải dài qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử mà chính tác giả là nạn nhân và cũng là nhân chứng.

Phạm Tín An Ninh, hiền thê, các con chụp lần cuối cùng với thân phụ vào đầu năm 1974. Đây là tấm ảnh lưu niệm cuối cùng trân quý nhất vì sau đó anh không bao giờ còn được gặp lại thân phụ của mình. (Hình: tác giả cung cấp)

Nhà văn Phạm Tín An Ninh, sinh năm 1943 tại Khánh Hòa, theo học tại Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang. Nhập ngũ Khóa 18 SQ Trừ Bị Thủ Đức. Tháng 3/1965 ra trường, phục vụ tại Sư Đoàn 23 Bộ Binh, từ cấp trung đội đến trung đoàn. Tháng 3/1975 đảm trách một phần hành ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44/SĐ 23 BB. Sau biến cố tang thương năm 1975, bị 8 năm tù cho đến tháng 9/1983. Năm 1984 vượt biển, tị nạn ở Na Uy. Cuộc vượt biên của anh:

“Chiếc thuyền nhỏ chở theo 52 người, gần một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Cả bầu trời phủ kín mây đen. Những ngọn sóng bạc đầu từ trên cao phủ xuống, như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ mong manh. Mệnh số 52 con người chỉ còn biết phó thác cho trời nước mênh mông. Bóng tối tử thần bủa vây khắp phía. Con thuyền bây giờ như cánh bướm nhỏ rơi giữa dòng thác lũ, chìm xuống ngoi lên tả tơi, thoi thóp. Chưa khi nào con người lại quá nhỏ bé và bất lực trước thiên nhiên như lúc này đây…” May mắn gặp chiếc tàu thuộc Vương Quốc Na-Uy (Kingdom of Norway) đang trên hải trình công tác chở dầu từ Nhật sang Singapore cứu vớt trước một cơn bão bắt đầu ập đến. 

Hai ngày đêm trên tàu với chúng tôi là cả một thiên đường. Mặc dù bên ngoài, cơn bão cấp sáu nhiều lúc làm con tàu lắc lư, nhưng trên tàu chúng tôi cảm thấy thật yên ả hạnh phúc… Nếu không có chiếc tàu Na-Uy này cứu vớt, chắc chắn 52 người chúng tôi đã bỏ mình trên biển khơi, cũng giống như hàng trăm ngàn người bất hạnh khác, không một ai hay biết…

Chúng tôi được gởi vào trại tị nạn Hawkins Road, một doanh trại cũ của quân đội Anh tại Singapore, một thời gian được chuyển sang trại chuyển tiếp Bataan, Phi Luật Tân,… Sau tám tháng, chúng tôi lần lượt được đưa sang định cư chính thức tại Na-Uy, một đất nước thanh bình, xinh đẹp và giàu lòng nhân đạo… Gia đình tôi lúc ấy có 10 người, gồm vợ chồng tôi, 6 đứa con và 2 đứa cháu, đến phi trường Fornebu Oslo vào buổi chiều cuối hè.”

Vì muốn trốn thoát khỏi “Quần đảo ngục tù” (Quần đảo GULAG, tựa đề tác phẩm của nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn) anh chấp nhận hiểm nguy không những cho bản thân mà cả gia đình!

“Được theo học một khóa Thông Dich Viên và sau đó là Ngân Hàng Bưu Điện. Hơn 30 năm làm việc, may mắn được sắp xếp làm ở những chi nhánh rất gần nhà…”

Sau khi ổn định cuộc sống nơi xứ lạnh, anh bắt đầu sáng tác. Cuộc đời anh quá bất hạnh:

“Mẹ mất hồi tôi mới lên ba, cha tôi chết cuối năm 1976 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn.”

Nhưng trong cuộc vượt biên, may mắn được sống còn để chia sẻ với nhau nỗi đau nầy! Trong gần hai thập niên qua, Phạm Tín An Ninh – là một trong những nhà văn gốc lính – sáng tác đều đặn và nhiều nhất đã ấn hành các tác phẩm Ở Cuối Hai Con Đường, Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Sau Cuộc Biển Dâu, Những Nén Hương Thắp Muộn, Vệt Nắng Cuối Chiều, Vẫn Còn Vương Tơ (viết chung với GS Võ Doãn Nhẫn)…

Sự xuất hiện của nhà văn đã được nhiều cây bút đề cập khá nhiều vì anh đã viết lại quãng đời từ cố hương thuở học trò, trong quân ngũ, trong lao tù, mảnh đời tị nạn với nhiều góc cạnh của cuộc sống, tình chiến hữu, tình người, tình quê hương, đất nước…

Trích dẫn vài nhận xét: “Những câu chuyện được viết bằng một giọng văn hòa ái, giản dị nhưng không kém phần trau chuốt, cốt chuyện thì rất mạch lạc, với kết thúc bất ngờ, trọn vẹn và nhiều ý nghĩa, gợi lên trong lòng độc giả một niềm thương cảm sâu xa” (GS Nguyễn Thanh Liêm).

“Phạm Tín An Ninh nhận định về việc ông được mến mộ một cách rất khiêm nhượng. Theo ông, ở thế hệ chúng ta, ai cũng phải trải qua nhiều mất mát, thăng trầm. Vì thế khi đọc ông, hầu hết độc giả đều thấy sự đồng cảm, và do đó, đã dành cảm mến cho tác giả. Ông được coi như đã “viết hộ”, “nói ra hộ” nhiều người không có cơ hội cầm bút, hoặc năng khiếu vận dụng ngòi bút”…

“Trên một khía cạnh khác, dù có nhiều từng trải, nhưng nếu người trải qua cảnh ngộ không có một cái “tâm” đồng cảm thì câu chuyện chưa chắc được lưu ý đúng mức để có thể viết ra”. (GS Trần Huy Bích).

“Tác giả Phạm Tín An Ninh đã trở thành một nhà văn ngoài dự liệu của bản thân ông. Ông viết truyện để giải tỏa những trăn trở và gửi gắm đến độc giả một thông điệp. Thông điệp đó là chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quý giá và tồn tại với thời gian… Đọc Phạm Tín An Ninh, ai cũng có thể tìm thấy mình trong đó để mà tiếc nuối, hờn tủi, trách cứ, phẫn nộ và thương xót cho đất nước, cho dân tộc, cho bạn bè, cho vợ con và cho chính bản thân mình” (Nhà báo Nguyễn Linh Giang).

“Phạm Tín An Ninh, chỉ kể chuyện thôi, những chuyện thật, liên quan đến ông, dính dáng đến ông, ông đã trải qua, hay nhìn thấy. Nhưng ông đã làm sáng lên được cái Đạo gồm các sự hy sinh, tận tâm, chí khí, tròn trách nhiệm, giữ danh dự, không vị kỷ, tận tình tận nghĩa, của những con người sống theo cung cách và phong thái của hơn 4000 Văn Hiến đã tồn tại cho đến ngày mất nước…

Những chuyện Phạm Tín An Ninh kể, là những thí dụ điển hình. Nếu không muốn nhớ tiêu đề của mỗi truyện, ta có thể hiểu tất cả chỉ là những chương trong một truyện dài: “Miền Nam Trường Hận”… (Bảo Anh Trần Tường Vi)

Nhà văn Đỗ Trường sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Sau thời gian theo học tại đại học ngoại ngữ, nghỉ học đi buôn và rồi theo lao động xuất khẩu sang CHDC Đức. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ở lại và định cư tại thành phố Leipzig, CHLB Đức. Là người không liên quan đến thời Việt Nam Cộng Hòa đã nhận định:

“Nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh…

Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức, cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông, thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh”.

Đỗ Trường đã sống thời gian trong nước có lẽ đã đọc sách vở trong nước và khi ờ trời Âu đã viết nhiều bài về các nhà văn, nhà thơ thời VNCH, nhưng đặc biệt “đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức” nói lên giá trị và ảnh hương của tác giả Phạm Tín An Ninh.

“Truyện” của PTAN hầu hết là “hồi ký” với nhân vật tôi (tác giả) lồng vào đó những dòng hư cấu xoay quanh câu chuyện cho sống động. Vì vậy, với tôi, đây là truyện ký, tự truyện trong ký ức của anh được xây dựng từng mẩu chuyện nhỏ góp nhặt lại thật tài tình.

Vào thời tiền chiến, vài nhà văn đã thành công trong những tác phẩm truyện ký… Tiêu biểu như Đêm Sông Hương (Tam Lang), Nhà Nghèo, Cỏ Dại (Tô Hoài), Vang Bóng Một Thời (Nguyễn Tuân), Ba Người Bạn, Những Trẻ Khốn Nạn (Nam Cao), Tắt Đèn (Ngô Tất Tố), Gió Đầu Mùa, Sợi Tóc (Thạch Lam)… Với bối cảnh trong xã hội thực tại qua từng nhân vật trong cuộc sống được cảm nhận, chứng kiến để sáng tác trong hoàn cảnh “Lò cừ nung nấu sự đời. Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Và “bức tranh vân cẩu” đó đã bàng bạc trong truyện ký của PTAN.

Từ những mẩu chuyện năm 2008 như Ba Dòng Nước Mắt, Trên Chiến Trường Xưa, Những Đàn Chim Thiên Di,  Ở Cuối Hai Con Đường… Năm 2009 với Lá Rụng Không Về Cội, Vĩnh Biệt Một Con Đò, Tiếng Sáo … Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân (2010)… đến những truyện gần đây như Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, Tuy Hòa Một Thời Gió Cát, Người Nữ Tu Trong Cô Nhi Viện Pleiku, Nỗi Buồn Cuối Đời Của Một Người Lính Già Lưu Lạc… Theo tôi biết khoảng tám mươi bài viết nhưng anh với tính tình điềm đạm, khiêm nhường, tế nhị trong những lần phát biểu ra mắt tác phẩm, trong những cuộc phỏng vấn.

Theo Quỳnh Đào, Úc Châu: “Trong những cuộc phỏng vấn, Phạm Tín An Ninh nói rằng anh không hề muốn là một nhà văn, mà chỉ muốn viết để vơi bớt những đớn đau dằn vặt trong lòng mình, đặc biệt là để chia sẻ những nỗi đau thương mất mát với đồng đội của mình. Thế nhưng anh đã đạt được những thành công vượt ra ngoài dự tính trong những buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ cũng như tại Úc Châu.

Các truyện ngắn của anh đã tạo nên tiếng vang tại nhiều nơi trên thế giới, và được sự đón nhận và cảm thông đến từ mọi thành phần độc giả, kể cả thế hệ trẻ, bao gồm thế hệ một rưỡi ở nước ngoài như cá nhân người soạn bài viết này, và ngay cả nhiều độc giả rất trẻ ở trong nước. Điều này cho thấy ngòi bút của Phạm Tín An Ninh có sức rung động vượt ra khỏi giới hạn của những hồi tưởng dành riêng cho những người lính, vì`nó đã phản ảnh được những gì rộng lớn hơn, đó là số phận bi thảm của cả một đất nước và một dân tộc từ sau ngày miền Nam thất thủ, và những long đong của thân phận con người”.

Ngoài tình chiến hữu huynh đệ sống chết một thời, PTAN cũng luôn nặng lòng với thầy cũ, bạn xưa của thời cắp sách. Tập truyện Vẫn Còn Vương Tơ anh đã viết chung với cựu GS Võ Doãn Nhẫn, vị thầy dạy Triết lớp Đệ Nhất C của anh thời trung học ở trường Võ Tánh Nha Trang, trong một trường hợp đặc biệt rất cảm động, như  “Lời Thưa” anh đã viết ở trang đầu tập truyện:

“Thầy Võ Doãn Nhẫn là giáo sư dạy môn Triết khi tôi đang học lớp Đệ Nhất C  trường trung học Võ Tánh – Nha Trang. Khi ấy thầy còn rất trẻ, có lẽ cũng vừa tốt nghiệp sư phạm từ Viện Đại Học Đà Lạt. Còn tôi là một đứa học trò không có gì đặc biệt. Học lực trung bình, kể cả môn Triết của thầy, và cũng không nghịch ngợm phá phách lắm. Vì vậy mà sau này thầy không còn nhớ.

Rời trường một vài năm, tôi vào lính. Cuộc chiến càng lúc càng khốc liệt, cuốn tôi theo như cơn lốc xoáy.

Mùa Hè năm 2008, từ Bắc Âu sang Cali ra mắt tập truyện Ở Cuối Hai Con Đường, tôi bất ngờ gặp một cô bạn học cũ, cho biết thầy đang sống ở thành phố San Diego. Tôi gởi biếu thầy tập truyện với lòng biết ơn của một đứa học trò xưa, mà những bài viết hôm nay ít nhiều đã được thừa hưởng từ sự chỉ dạy của Thầy.

Tôi nhận được lá thư với nét chữ run run, không thẳng hàng, lời lẽ thật cảm động, ngợi khen và khích lệ. Thầy cho biết trước đó cũng đã có đọc qua một số truyện ngắn của tôi, nhưng không biết tác giả là học trò của mình ngày trước.

Điều làm tôi cảm động hơn khi biết sức khỏe của thầy không mấy tốt. Thầy bị tai biến mạch máu não cách đây gần mười năm. Bây giờ liệt nửa người, chỉ quanh quẩn trong nhà với chiếc xe lăn. Bao dự tính, ước mơ có lẽ vĩnh viễn không còn thực hiện được.

Chúng tôi, một nhóm bạn cùng lớp rủ nhau xuống thăm thầy. Một buổi trưa hè cháy nắng, thầy ra ngồi trước hiên nhà hơn một tiếng đồng hồ để đợi đón đám học trò xưa. Lòng tôi thật cảm động. Nói năng hơi khó khăn, nhưng thầy rất thích bàn luận về triết học, văn chương.  Những lúc như thế, tôi thấy đôi mắt của thầy sáng lên rồi bỗng dưng trở nên u uẩn. Tôi nghĩ là thầy đang tiếc nuối những chữ nghĩa, những tình tự văn chương vẫn còn lãng đãng ở đâu đó trong ký ức của thầy. Thầy đang sống những tháng ngày buồn bã. Trường lớp, đồng nghiệp, học trò cùng phấn trắng bảng đen đã là một quá khứ mịt mờ xa – một quá khứ mơ hồ như thuộc về ai đó chứ không phải của thầy.

Tôi năn nỉ xin thầy viết lại. Dù thầy chỉ còn một bàn tay hoạt động được, và tất nhiên trí óc thầy cũng khá nặng nề, mệt mỏi, nhưng tôi tin là ký ức của thầy sẽ trỗi dậy mãnh liệt, trái tim của thầy sẽ rung động hơn khi thầy viết ra những gì đang còn đè nặng trong lòng. Và dù thầy có viết được như ngày xưa, khi thầy còn mạnh khỏe hay không, tôi hình dung những lúc ngồi trước máy vi tính, đưa một ngón tay chậm chạp gõ từng mẫu tự trên bàn phím sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất của thầy.

Để có người đồng hành trên con đường có nhiều bông hoa nhưng cũng khá gập ghềnh ấy, tôi xin hứa sẽ cùng đi theo thầy, viết với thầy, và in chung thành một một tác phẩm kỷ niệm.  Và đó là lý do để tập truyện ra đời, mang ý nghĩa Vẫn Còn Vương Tơ, như cái tựa mà chính thầy đã chọn.

Bên cạnh những bài viết mang ít nhiều tính triết học sâu sắc của một vị thầy là những câu chuyện kể bình dị, với văn phong non nớt của một đứa học trò. Ước mong được độc giả đón nhận với sự cảm thông và lòng độ lượng.”

(Hình: tác giả cung cấp)

Nhà thơ Quan Dương khi viết về nhà văn đồng hương PTAN cho biết: “Bà xã anh Phạm Tín An Ninh tên Trương Gia Thức và tôi là bạn học cùng lớp cùng trường thời trung học tại trường Trần Bình Trọng Ninh Hòa”… Hai anh em tôi vốn đã thân lại càng thân nhau hơn. Từ sự thân thiết này nên cũng chính tôi là người xúi giục anh cho ra đời tác phẩm đầu tay Ở Cuối Hai Con Đường mà hiện nay đã từng lấy nhiều nước mắt của người đọc. Có một điều hơi tiếu lâm là mặc dù tôi và bà xã anh Ninh đã lên chức nội ngoại hết rồi nhưng nói chuyện với nhau tôi vẫn gọi bạn tôi bằng bà xưng tui giống như 50 năm về trước khi còn đi học… Bà xã anh Ninh tiến bộ hơn không gọi tôi bằng mày xưng tao như lúc xưa nữa mà cũng đã gọi tôi bằng ông xưng tui cho đúng phép lịch sự… Truyện nào của anh cũng đầy tính nhân bản không chứa hận thù nhưng không quỵ luỵ và nhất là không có sự thoả hiệp với cái ác mà đám cộng sản trong nước đang nhân danh để khủng bố người dân. Bên cạnh trong những tác phẩm của anh viết về đời lính, tình chiến binh, tình đồng đội sẵn sàng hy sinh cho nhau mà chúng ta thường bắt gặp vẫn còn có những câu chuyện anh kể về một nửa kia của đời mình”.

Một điều đặc biệt khác, là tất cả các tác phẩm ra mắt tại Hoa Kỳ và Úc Châu, anh Phạm Tín An Ninh đều ủy quyền cho Ban Tổ Chức gây quỹ yểm trợ anh em Thương Binh đang còn khốn khổ ở trong nước, và anh cũng không nhận lại bất cứ một chi phí nào.

Với riêng tôi, sau khi ra trường, thời gian phục vụ ở Tiểu Đoàn 20 CTCT (Pleiku), cuối năm 1970 thuyên chuyển về Nha Trang và lập gia đình ở nơi chốn nầy. Bà xã di cư từ Hà Nội vào Nha Trang năm 1954, niên khóa 1965-1966 theo học lớp Đệ Nhất A tại Trường Trung Học Võ Tánh (học Triết với thầy Võ Doãn Nhẫn), coi anh Phạm Tín An Ninh như lớp đàn anh, Khóa Nguyễn Trãi I Trường ĐH.CTCT, tốt nghiệp vào tháng 5/1969, có 12 tân sĩ quan (Thiếu Úy hiện dịch) về phục vụ tại Trung Đoàn 44 ở Sông Mao, cùng đơn vị với anh, tuy chỉ trong 2 năm (sau đó đa số đã chuyển ngành) nhưng tình “huynh đệ chi binh”, tình chiến hữu  vẫn có biết bao hình ảnh đẹp từ đó đến hôm nay.

Trong bài viết của anh PTAN: “Trung Đoàn 44 BB đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt, Sông Mao. Bản doanh của Sư Đoàn 5 BB, từ thời Đại Tá Tư Lệnh Voòng A Sáng, bàn giao lại để di chuyển vào Vùng 3 Chiến Thuật. Sông Mao là một thị trấn nhỏ nằm phía Bắc Phan Thiết khoảng 70 cây số, cách Quốc Lộ 1 về hướng Tây gần 2 cây số. Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đã từng theo chân Đại Tá Voòng A Sáng và Sư Đoàn 3 Dã Chiến từ vùng Mống Cái vào đây sau Hiệp Định Genève năm 1954, để sau đó biến cải thành SĐ5 BB, một trong những sư đoàn đầu tiên và thiện chiến của thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Phía dưới, về hướng Đông, nằm dọc theo Quốc Lộ 1 là quận Phan Lý Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số là người Chàm. Có cả dinh cơ của bà công chúa cuối cùng của vương quốc Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ xí, long bào, và ấn tín. Cách đó không xa là mật khu Lê Hồng Phong rộng lớn nổi danh của VC. Phía trên là dãy Trường Sơn với mật khu Bá Ghe, nơi trú ẩn của một số đơn vị VC địa phương, đặc biệt có cả một đại đội nữ…

Đây là một vùng khô cằn sỏi đá. Mùa hè, nắng cháy, thỉnh thoảng có vài ngọn gió Nam thổi đến, xoáy theo những đám bụi mù trời… Nhưng một hôm bỗng dưng như có những cơn gió mát làm dịu bớt cái không gian rất “lính” này. Không phải gió từ biển thổi lên, mà từ cao nguyên Lâm Viên và từ tận thủ đô Sài Gòn mang tới. Cùng lúc với mười hai chàng trai tuấn tú từ trường Đại Học CTCT Đà Lạt khăn gói về đây trình diện, là một bông hoa tài sắc từ trường Xã Hội Quân Đội: Thiếu Úy Đinh Thiên Kim (mẩu chuyện nầy được kể tiếp rất thú vị). Trung Đoàn đón tiếp những chàng “Nguyễn Trãi 1” và vị nữ lưu này với niềm vui đặc biệt: hy vọng sẽ có những luồng gió mới trong sinh hoạt của đơn vị hầu mang lại những thành quả, chiến công, trước nhất là thực thi hoàn hảo Kế Hoạch Chân Trời Mới được Quân Lực tin tưởng giao phó”.

Anh đánh giặc cũng thuộc loại “cừ”, dạn dày trong lửa đạn từ khi ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy (3/1965) Trung Đội Trưởng đến khi sĩ quan Khóa NT I gặp anh đã mang cấp bậc Đại Úy, trong Ban Tham Mưu Trung Đoàn (tháng 6/1969).

Từ trước đến nay, chỉ có nhà văn PTAN nhắc đến Kế Hoạch Chân Trời Mới với các sĩ quan CTCT ra trường được áp dụng tại đơn vị nầy. Năm 1971, trong cuộc hội thảo của Khóa NT I  tại Tổng Cục CTCT, có sự phê bình, phản đối vì sau 28 tháng quân trường, được đào tạo rất công phu, chu đáo trong ngành nhưng không được sử dụng đúng mức ở các đơn vị tác chiến, nên sau đó đa phần được đặc biệt thuyên chuyển về phục vụ trong ngành CTCT ở các Quân chủng Hải Quân và Không Quân. (Khóa NT I về 4 Sư Đoàn BB: SĐ 2 có 13 sĩ quan, SĐ có 13 sĩ quan, SĐ 23 có 13 sĩ quan và SĐ 5 với 39 sĩ quan trong tổng số 168 sĩ quan tốt nghiệp).

Có dip gặp anh tôi hỏi “Sao anh không viết về những chiến công đã từng tham dự?”. Anh tế nhị trả lời “Là người lính xông pha ngoài trận mạc phải làm tròn bổn phận và có những chiến hữu đã dũng cảm hy sinh cho Tổ Quốc đáng trân trọng và vinh danh hơn bản thân mình”. Trong bài Một Thoáng Pleiku, anh viết: “Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Dương Đình Chính, Đỗ Bê… những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku… Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt”.

Không phải chỉ với những người bạn chỉ huy, mà anh cũng luôn nhắc nhớ đến chiến công hào hùng của những người lính.

Trong bài Chuyện Một Người Lính Trinh Sát, anh viết: “Trong số này có một anh rất trẻ, đã lập khá nhiều chiến công lẫm liệt, luôn được vị đại đội trưởng đề nghị cấp trên khen thưởng sau mỗi cuộc hành quân. Thành tích xuất sắc nhất là khi anh tình nguyện một mình ôm lựu đạn bò vào tiêu diệt cái chốt của địch gồm nhiều ổ súng phòng không, nằm trong một hốc đá kiên cố trên đỉnh núi Chư Pao. Chính cái chốt quỷ quái này đã gây cho các đơn vị ta nhiều thiệt hại và đe dọa không nhỏ đối với các phi cơ bao vùng, đổ quân và chiến đấu”.

Anh đúng là một cấp chỉ huy luôn gần gũi yêu thương đồng đội dưới quyền, nên luôn nhận được sự kính mến, ngay cả lúc đã tan đàn rẽ nghé. Mở đầu tác phẩm “ Những Nén Hương Thắp Muộn” anh đã có những lời bộc bạch:

“Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải qua nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp chỉ huy đảm lược, những chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không nhớ tôi đã hướng dẫn họ được những gì, nhưng chắc chắn tôi đã học được ở họ sự trung thành, lòng can đảm và nhiều kinh nghiệm chiến trường. Trong hơn mười năm chiến trận, tôi từng được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là công trạng của mình, khi hình dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội dưới quyền đã hy sinh, trong lúc mình vẫn đang còn sống? Tôi không bao giờ quên được những ánh mắt của họ đã nhìn tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ muốn trăng trối, gửi gắm hay oán trách điều gì. Tôi thường dành phần để được vuốt mắt họ khi tình hình có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là đã không bảo vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đã mắc nợ khá nhiều xương máu của đồng đội anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ còn trả được.”

Năm 2008, khi đảm trách nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, đọc bài viết của PTAN tôi rất thích. Khi họp khóa, Nguyễn Mạnh Vỹ cho biết về anh và từ đó những bài viết của anh đều đăng trên trang báo nầy. Và những tác giả viết về nhà văn PTAN đều được đăng trong mục Văn Nghệ của tờ báo. Với Nha Trang, trước đó là nhà văn Điệp Mỹ Linh (tự nhận người lính không có số quân), kế tiếp là nhà văn PTAN, gây được nhiều thiện cảm của độc giả qua nhiều sáng tác.

Nhà văn PTAN có trí nhớ rất tốt từ tuổi thơ ở quê nhà, bạn học, bạn cùng đơn vị, những vị thầy khả kính, bạn tù, những hiền thê của người lính, cấp chỉ huy… cả những mẩu đối thoại với nhau cho đến nơi chốn, địa danh được ghi lại rất tường tận. Nhà văn PTAN với cái tâm, nhân bản và đạo lý của người cầm bút nên nhiều sáng tác của anh khi đọc xong cảm thấy xúc động.

Với tình chiến hữu không những ở đơn vị mà sau khi ra tù tìm đường vượt biên. Trong bài viết Bạn Tôi – Những Người Lính Biệt Động Quân: “Nói về bạn bè Mũ Nâu, thì tôi có khá nhiều, từ quan tới lính. Ngay anh em trong gia tộc tôi cũng có hơn một trung đội (đầy đủ theo bản cấp số), đa số đã nằm lại ở các chiến trường. Bạn cùng khóa thì cũng trên bảy mươi chàng chọn Biệt Động….

Một anh bạn gốc BĐQ, trước 75 là một Hạ sĩ 1, tài xế, nhưng về sau này mới bất ngờ gặp và quen nhau lúc tôi vừa ở tù ra với cuộc đời vô cùng khốn khó, còn anh là tài xế của một chiếc xe đò nhỏ chạy đường Nha Trang – Ban Mê Thuột . Biết tôi cũng từng là một cấp chỉ huy nên anh luôn gọi tôi là ông thầy, và hết lòng giúp tôi những gì có thể. Anh đã để lại trong tôi nhiều cảm xúc và một niềm ân hận khôn nguôi, vì nghĩ mình đã không xứng đáng với tấm lòng của anh, không giữ được lời hứa với anh trước khi anh mất…

Gia đình anh gồm vợ và 2 đứa con nhỏ sống ở Ban Mê Thuột. Biết tôi có ý định vượt biên, anh ngỏ ý tha thiết cùng đi với vợ con.Tôi tổ chức chuyến vượt biên cùng với một nhóm bạn cùng tù. Chuyến đi khó khăn sắp thực hiện, tôi ra bến xe mấy lần tìm anh, không gặp. Tôi lên Ban Mê Thuột, và rất bất ngờ được biết xe anh vừa bị tai nạn trên đèo M’Drak, anh bị thương nặng đang nằm trong bệnh viện. Tôi đến thăm, mình mẩy còn quấn đầy băng trắng, cả hai chân bị gãy, vừa mới được giải phẫu, còn treo lên thành giường. Nước mắt tôi ứa ra, chỉ ôm nhẹ vai anh mà không nói được lời nào…

Khi đưa vợ con và bạn bè xuống tàu vượt biển, lòng tôi rất buồn vì thiếu gia đình anh, người bạn BĐQ rất có lòng và chí tình với tôi”.

Bài viết Về Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sĩ Minh Kỳ với tình người bạn tù đã in sâu vào tâm khảm: “Người viết bài này, có cái cơ duyên được ở chung cùng một trại tù với ông, và cũng đã được tâm sự cùng ông một vài ngày trước khi ông chết…

Trại tù An Dưỡng Biên Hòa, cũng chính là nơi tôi đã gặp nhạc sĩ Minh Kỳ, và đã tâm tình cùng ông một ngày trước khi ông chết…

Một đêm, cuối tháng 8/75… Khi ấy chúng tôi mới biết tiếng nổ tối hôm ấy đã xảy ra tại Nhà 3, làm chết và bị thương khá nhiều. Mọi dấu tích đã được thu dọn sạch sẽ, như chưa hề có việc gì xảy ra…

Lòng tôi nhói lên đau đớn như vừa bị một nhát chém hư vô nào đó. Trong tôi vừa mới mất thêm một điều gì, mà với tôi nó trở thành thiêng liêng hơn là kỷ niệm. Nhiều đêm sau đó tôi trằn trọc cả đêm không ngủ. Dư âm những bài hát Nha Trang của anh lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi. Tâm tư lúc nào cũng mơ màng đến thành phố Nha Trang, đến ngôi trường Võ Tánh, nhớ da diết những kỷ niệm ấu thơ, của những ngày đi học, và hình dung đến từng khuôn mặt bè bạn thân quen…”

Ngoài ra với tình gia đình, anh thiếu tình mẹ từ nhỏ nên rất trân trọng tình mẹ của người vợ lính, người vợ tù, góa phụ nên khi đọc cảm thấy bùi ngùi, xúc động

Không thể nào trích hết những đoạn văn trong các bài viết của anh PTAN. Các bài viết đã lưu trữ trên blog cá nhân của anh, nhiều websites và trong các tác phẩm của anh đã được ấn hành. Đất nước trải qua thời kỳ đen tối của lịch sử ảnh hưởng đến những hệ lụy của thế hệ chúng tôi “sinh bất phùng thời” từ khi sinh ra, lớn lên và cả tuổi già!

Bài thơ Ba Kiếp Lang Thang của thi bá Vũ Hoàng Chương với hai câu cuối: “Ba kiếp lang thang, ngồi chụm lại. Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau”. Nay sống trên xứ người, nhờ những sáng tác của các văn thi hữu coi như “chứng tích” của một thời, một đời người nổi trôi theo vận nước cho thế hệ hiện tại và tương lai, trong đó có nhà văn Phạm Tín An Ninh.

(Little Saigon, January 2025)


 

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975 :

Lời mở đầu (cập nhật 03/05/2023)

Posted on October 27, 2020 by Lê Thy

(TM tổng hợp và bổ túc)

LỜI MỞ ĐẦU
(xem thêm phần bổ túc LỜI MỞ ĐẦU ngày 3/5/2023 tại đây)

Đây là một tổng hợp và bổ túc lược sử các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975.

Những lý do thúc đẩy thực hiện bài này là như sau :

  1. Thứ nhứt : Tình cảm riêng tư. Người viết và các bằng hữu đã may mắn được theo học bậc trung học tại vài trường tọa lạc trong địa bàn Sàigòn và Gia Định . Nay muốn ghi lại để bảo tồn kỷ niệm về những ngôi trường này và tri ân các thầy cô đã dầy công đào tạo chúng tôi nên người ;
  2. Thứ hai : Khoảng thời gian ở bậc trung học, một cách tổng quát, là khoảng thời gian đẹp nhất trong đời học trò. Thật vậy ,trong bảy năm trung học, đặc biệt bậc đệ nhất cấp, học trò nam cũng như nữ ở vào cái tuổi ‘’Ăn không no, lo chưa tới’’ , gần như hoàn toàn vô tư vì chuyện thi cử và chuyện lính tráng còn mờ mờ xa xa, chuyện ăn mặc sinh sống đã có cha mẹ lo, chuyện chiến tranh bảo vệ an ninh hậu phương và bờ cõi đã có các chiến sĩ can trường ngày đêm giết giặc , bắt đầu mơ mộng biết vui, biết buồn, biết nhớ tới cô bạn (hay anh bạn) học ngồi cùng lớp, cùng trường hay trường lân cận hay cô láng giềng bên nhà. Đây cũng là khoảng thời gian gặp gỡ , kết bạn để cùng nhau chia sẻ những mối bận tâm của lứa tuổi niên thiếu , từ đấy nảy nở những mối lương duyên hay tình bằng hữu chân thật , thân thiết , bền bỉ tới lúc bạc đầu ;
  3. Thứ ba : Những trường trung học lớn, lâu đời và danh tiếng của miền Nam Việt Nam thành lập từ cả trăm năm trước , đều tọa lạc ở Sàigòn và Chợ Lớn.

Bậc trung học của hệ thống giáo dục miền Nam trước 1975 có thể được coi là quan trọng nhất trong ba bậc học : tiểu học, trung học và đại học, bởi vì theo tài liệu [1] : ‘’ Ở bậc trung học ,sự xã hội hóa nhắm vào việc thích nghi con người vào tình trạng văn hóa mà người ta muốn có. Thường khi người ta (các nhà làm chính trị, những nhà lãnh đạo) muốn có xã hội thế nào thì người ta nhắm vào lớp người vào trung học để đào luyện họ trở thành những công dân kiểu mẫu cho xã hội người ta muốn có. Những người này sẽ được xã hội hóa để bảo tồn những gì đã có. Các trường trung học của Việt Nam Cộng Hòa cũng đóng vai trò xã hội hóa học sinh giống như bao nhiêu trường trung học khác trên thế giới. Việc xã hội hóa ở đây là thích nghi con người vào trong xã hội Miền Nam nước Việt vào giữa thế kỷ XX’’.

Theo tài liệu [2,3] :

Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, năm học 1960 miền Nam có 112.129 học sinh trung học.

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 và có 534 trường trung học.

Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có 1.091.779 học sinh trung học.

Đến năm 1975, có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập.

Mặc dù chỉ tồn tại trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.

Theo tài liệu [4] : Nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được những thành công quan trọng nhất và rõ rệt nhất, đồng thời cũng là một nét vàng son đáng trân quý trong nếp sống và sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975.

Các tài liệu [1,2,3,4,5,] là những tài liệu căn bản và tổng quát viết về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa với các chủ đề chính yếu : Lịch sử nền giáo dục ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, triết lý giáo dục Việt Nam Cộng Hòa , hệ thống tổ chức giáo dục của ba cấp bậc tiểu học, trung học và đại học, nhân sự giáo chức sư phạm, chương trình giảng dạy , tài liệu và dụng cụ giáo khoa, hệ thống thi cử và bằng cấp, và những lý đó đưa đến những thành công to tác của nền giáo dục này. Vì vậy, các chi tiết về các trường trung học ngay cả các trường lâu đời nổi tiếng ở Miền Nam và đặc biệt ở Đô Thành Sàigòn và vùng phụ cận không được đề cập nhiều .

Những dữ kiện về lịch sử của các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 trên mạng Internet rất ít ỏi , hiếm hoi hoặc không có sẵn. Gần như chỉ có những trường trung học lớn nổi tiếng , nhất là các trường công lập hay trường công giáo có các hội ái hữu cựu học sinh thành lập ở hải ngoại, là có phổ biến lược sử của trường. Các trường trung học nhỏ hoặc là trường tư thục không có hội cựu học sinh gần như không có tin tức , và nếu có thì lại nằm rải rác trong nhiều bài vở với nhiều chủ đề khác nhau của nhiều cá nhân. Những ai còn lưu tâm đến các tin tức này có thể mất rất nhiều thời giờ tìm kiếm trên mạng.

Các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 , được tổng hợp, bổ túc và trình bày trong bài này rất đa dạng :

  • Trường trung học được thành lập từ thời Pháp mới vào miền Nam cho tới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa;
  • Trường trung học đệ nhất cấp với lớp đệ thất đến lớp đệ tứ , trường đệ nhị cấp bao gồm các lớp từ đệ thất tới đệ nhứt, trường đệ nhị cấp nhưng chỉ có từ đệ tam tới đệ nhứt và trường đệ nhị cấp nhưng chỉ có lớp đệ nhứt thôi. Nhiều trường trung học còn có các lớp tiểu học trong khuôn viên trường ;
  • Trường trung học giảng dạy chương trình Việt , chương trình Pháp và chương trình dành riêng cho học sinh người Việt gốc Hoa ;
  • Trường trung học công lập và trường trung học cộng đồng ;
  • Trường trung học tư thục thành lập và quản trị bởi giáo hội Công giáo, hay Phật giáo hay tư nhân ;
  • Trường trung học phổ thông, kỹ thuật , mỹ thuật ,kiểu mẫu và tổng hợp.

Bài này là một tổng hợp thực hiện với những dữ kiện trích từ các nguồn sau đây :

  1. Một số tài liệu nghiên cứu lịch sử, địa lý và văn hóa vùng Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định từ thế giữa thế kỷ thứ 18 cho tới những năm 1970, được ấn hành vào thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ;
  2. Những tin tức, tài liệu và hình ảnh về một số trường học được viết hay kể lại theo trí nhớ hay được cung cấp bởi các cựu học sinh ;
  3. Ký ức của người viết bài này;
  4. Các tài liệu sưu tầm trên mạng Internet đặc biệt là các địa chỉ mạng của các hội ái hữu cựu học sinh ở hải ngoại.

Các dữ kiện từ những tài liệu tham khảo trên Internet đã được kiểm soát chéo (cross check) lẫn nhau trước khi được xử dụng để tổng hợp.

Tuy vậy, dù đã cố gắng tối đa nhưng chắc chắn bài viết vẫn còn thiếu sót.Tác giả rất vui đón nhận những phê bình, chỉ dẫn để có thể hoàn thiện bài này.

Tổng cộng chín mươi bảy (97) trường trung học riêng rẻ ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định và một (1) tập hợp các trường trung học công lập không chi tiết ở Gia Định, đã được tổng hợp và bổ túc.

Ngoài ra, bài này còn thêm vào ba (3) cơ sở không hoàn toàn thuần túy là trường trung học vì những lý do sau :

– Chủng viện (Séminaire) Sàigòn : Chủng viện là gốc nguồn xuất phát của vài trường trung học trong bài này. Chủng viện cũng được xử dụng như trường học tạm thời trong một thời gian ngắn cho học sinh của vài trường trung học khác;

– École Normale d’Instituteurs (École Normale) : Chuyên đào tạo thầy cô giáo bậc sơ học và tiểu học khởi đầu cho nền giáo dục ở miền Nam. Cơ sở của École Normale đã được xử dụng làm 2 trường trung học trong bài này;

– Trường Sư Phạm Nam Việt : Trường này đã được ghi dẫn trong lược sử một vài trường trung học .

Và sau cùng là một Phụ trang về các trường chuyên dạy Sinh Ngữ.

Để dễ dàng cho việc tìm kiếm và tham khảo, người viết đã sắp xếp và phân loại các ngôi trường liệt kê trong danh sách dưới đây theo thứ tự như sau :

  1. a) Trường phổ thông, kiểu mẫu và tổng hợp theo địa bàn : Sàigòn – Chợ Lớn và sau đó là Gia Định ;
  2. b) Trường kỹ thuật và mỹ thuật trong chung địa bàn Sàigòn – Chợ Lớn và Gia Định;
  3. c) Trong mỗi thể loại trên, các ngôi trường được sắp theo năm thành lập và tiếp theo đó là thứ tự mẫu tự tên trường . Những ngôi trường mà năm thành lập không xác định sẽ được xắp sau cùng theo thứ tự mẫu tự tên trường .

Danh sách các ngôi trường trình bày trong bài gồm có :

Trường trung học phổ thông & tổng hợp ở Sàigòn-Chợ Lớn :

  1. 1850- Chủng viện (Séminaire) Sàigòn – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  2. 1861- Collège d’Adran – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  3. 1864- Trường Saint Paul Sàigòn – Quận 1
  4. 1874- Trường Chasseloup Laubat-JJ Rousseau- Lê Quý Đôn – Quận 3
  5. 1874- Trường La San Taberd – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  6. 1877- Trường Thiên Phước – Quận 3
  7. 1908- Trường Bác Ái – Quận 5
  8. 1910- Institution municipale des jeunes filles à Saigon – Quận 1
  9. 1915- Trường Gia Long – Quận 3
  10. 1918- Trường Marie Curie Sàigòn – Quận 3
  11. 1922- École Normale d’Instituteurs – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  12. 1922- Trường Huỳnh Khương Ninh – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  13. 1923- Trường Lasan Đức Minh – Quận 3
  14. 1927- Trường Petrus Ký
  15. 1933- Trường Hồng Bàng – Quận 5
  16. 1940- Trường Bồ Đề – Quận 2
  17. 1945- Centre scolaire Saint Exupéry
  18. 1947- Trường Huỳnh Thị Ngà – Quận 1
  19. 1947- Trường Thánh Linh – Quận 5
  20. 1948- Trường Colette – Quận 3
  21. 1948- Trường Lamartine – Quận 1
  22. 1950- Trường Couvent des Oiseaux – Quận 1
  23. 1950- Trường Les Lauriers – Quận 1
  24. 1950- Trường Sư Phạm Nam Việt – Quận 1
  25. 1950- Trường Vương Gia Cần – Quận 1
  26. 1953- Trường Charles de Gaulle – Quận 3
  27. 1953- Trường Đức Trí – Quận 2
  28. 1954- Trường Chu Văn An – Quận 5
  29. 1954- Trường Nguyễn Trãi – Quận 4
  30. 1954- Trường Trần Lục – Quận 3 (1971 trở thành Nguyễn Du- Quận 10)
  31. 1954- Trường Trưng Vương – Quận 1
  32. 1955- Trường Võ Trường Toản – Quận 1
  33. 1956- Trường La San Hiền Vương – Quận 3
  34. 1956-Trường Nguyễn Bá Tòng (Sàigòn) – Quận 2
  35. 1956- Trường Văn Lang – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  36. 1957- Trường Mạc Đĩnh Chi – Quận 6
  37. 1957- Trường Trung Thu – Quận 5
  38. 1958- Trường Văn Hóa Quân Đội – Sàigòn và Gia Định
  39. 1959- Trường Hưng Đạo – Quận 2
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  40. 1960- Trường Regina Pacis – Quận 3
  41. 1962- Trường La San Chánh Hưng – Quận 8
  42. 1963- Trường Nữ Thánh Anna – Quận 9
  43. 1963- Trường Phan Sào Nam – Quận 3
  44. 1966- Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 – Quận 8
  45. 1967- Trường Saint Martin – Quận 1
  46. 1968- Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 – Quận 6
  47. 1970- Trường Đồng Tiến – Quận 10
  48. 1971- Trường tổng hợp Nguyễn An Ninh – Quận 10
  49. 1971- Trường tổng hợp Sương Nguyệt Anh – Quận 10
  50. 1972- Trường Phục Hưng – Quận 3
  51. Khoảng thập niên 1950 hay trước – Trường Kiến Thiết – Quận 3
  52. Khoảng thập niên 1950 hay trước – Trường Thánh Têrêxa – Quận 5
  53. Khoảng thập niên 1950 – Trường Trường Sơn – Quận 3
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  54. Khoảng thập niên 1950 – Trường Việt Nam Học Đường – Quận 1
  55. Khoảng thập niên 1960 hay trước – Institution Phan Van Hue – Quận 2
  56. Khoảng thập niên 1960 hay trước – Trường Nguyễn Khuyến – Quận 3
  57. Khoảng thập niên 1960 – Lycée Cửu Long – Quận 3
  58. Khoảng thập niên 1960 – Trường Đông Tây Học Đường – Quận 1
  59. Khoảng thập niên 1960 – Trường Nguyễn Công Trứ – Quận 1
  60. Khoảng thập niên 1960 – Trường Tân Thạnh – Quận 1
  61. Khoảng thập niên 1960 – Trường Văn Hiến – Quận 1
  62. Khoảng thập niên 1960 – Trường Văn Học – Quận 3
  63. Khoảng trước năm 1964 – Trường Thánh Tâm – Quận 10
  64. Năm không xác định – Trường Tân Văn – Quận 3

Trường trung học phổ thông & kiểu mẫu ở Gia Định

  1. 1939- Trường Lasan Mossard Thủ Đức
  2. 1954- Trường Hồ Ngọc Cẩn
  3. 1955- Trường Chu Mạnh Trinh
  4. 1956- Trường Lê Bảo Tịnh
  5. 1956- Trường Nguyễn Duy Khang
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  6. 1957- Trường An Lạc
  7. 1957- Trường Lê Văn Duyệt
  8. 1957- Trường Lý Thường Kiệt
  9. 1959- Trường Đạt Đức
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  10. 1959- Trường Hoàng Gia Huệ
  11. 1959- Trường Thánh Thomas
  12. 1960- Trường Notre Dame des Missions
  13. 1960- Trường Thánh Liêm
  14. 1961- Trường Chân Phước Liêm
  15. 1963- Trường Quốc Gia Nghĩa Tử
  16. 1965- Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức
  17. 1966- Trường Bình Chánh
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  18. 1966- Trường Nhà Bè
  19. 1966- Trường Phụng Sự Thánh Minh
  20. 1968- Trường Vinh Sơn Liêm
  21. 1969- Trường Tân Bình (1973 trở thành Nguyễn Thượng Hiền)
  22. 1970- Trường Lasan Thạnh Mỹ
  23. 1970- Trường Nguyễn Bá Tòng (Gia Định)
  24. Khoảng trước năm 1960 – Trường Trung Mỹ Tây
  25. Khoảng trước năm 1968 – Trường Quang Trung
  26. Năm không xác định – Trường Phước An
  27. Khoảng thập niên 1960-1970 – Tập hợp các trường công lập không chi tiết ở Gia Định

Trường trung học kỹ thuật & Mỹ Thuật ở Sàigòn & Gia Định

  1. 1898- Trường kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ – Sàigòn
  2. 1906- Trường kỹ thuật Cao Thắng – Sàigòn
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  3. 1913- Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định – Gia Định
  4. 1956- Trường kỹ thuật Don Bosco – Gia Định
  5. 1959- Trường kỹ thuật Régina Pacis – Sàigòn
  6. 1960- Trường kỹ thuật Việt Đức – Thủ Đức – Gia Định
  7. 1965- Trường kỹ thuật Quốc Gia Nghĩa Tử – Gia Định
  8. 1968- Trường kỹ thuật Gia Định – Gia Định
  9. Năm không xác định – Trường kỹ thuật Cao Đạt – Sàigòn
  10. Năm không xác định – Trường kỹ thuật Dương Châu Minh- Sàigòn

Phụ trang

  1. Các trường chuyên dạy Sinh Ngữ27/5/2021

103-Danh sách bổ túc các trường trung học27/5/2021

104-Bổ túc Lời Mở Đầu và chi tiết các trường Trung Học

Để dễ dàng việc định vị các ngôi trường trên, bản đồ Đô Thành Sàigòn và vùng phụ cận , và bản đồ tỉnh Gia Định ấn hành trước năm 1975, được đính kèm dưới đây.

Vì lý do rất hiển nhiên là tất cả các trường trung học trình bày trong tài liệu này đều được xây lên và hoạt động từ trước năm 1975, bài này chỉ dùng các danh từ, ngữ vựng, thành ngữ và các tên đường và địa chỉ đã được đặt ra và xử dụng trước năm 1975 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Từ những kết quả cụ thể đạt được ,những điểm nổi bậc đáng chú ý được ghi nhận như sau :

  • Các trường trung học công lập thành lập bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 20 như Chasseloup-Laubat (Jean Jacques Rousseau), Gia Long , Petrus Ký và Chu Văn An… có thể được coi là những nôi đầu tiên đào tạo nhân tài trí thức ưu tú cho xã hội miền Nam Việt Nam;
  • Sau hiệp định Genève năm 1954 , bên cạnh những việc tái định cư và ổn định đời sống cho hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa đã nhanh chóng thiết lập lại các trường trung học di cư để cho việc học của các học sinh không bị gián đoạn;
  • Sau khi người Pháp về xứ, chính phủ Việt Nam đã chuyển tiếp một cách êm thấm chương trình Pháp sang chương trình Việt trong hai trường Gia Long , Petrus Ký. Đến thập niên 1960, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thêm môn Việt Văn vào trong chương trình giảng dạy của các trường Pháp ở Sàigòn, quản trị và điều hành bởi chính phủ Pháp hay các tổ chức tư nhân;
  • Vào năm 1958 và nhiều năm kế tiếp sau đó,chính phủ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đã thành lập trên 4 vùng chiến thuật toàn cõi miền Nam Việt Nam, một hệ thống trường trung học Văn Hóa Quân Đội để giúp đỡ các con em quân nhân tại ngũ, có nơi chốn học hành ở hậu phương;
  • Năm 1963 và nhiều năm kế tiếp sau đó, để tỏ lòng tri ân của quốc gia đối với những người đã cống hiến xương máu hoặc hy sinh cho tổ quốc, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã mở một hệ thống trường Quốc Gia Nghĩa Tử trên toàn quốc cho các cô nhi, con cái của tử sĩ và thương phế binh. Các trường này có các lớp đến đệ nhị cấp, giảng dạy theo ba chương trình giáo dục phổ thông, kỹ thuật và tổng hợp;
  • Nền giáo dục thành lập và để lại bởi người Pháp đã có một ảnh hưởng to lớn và sâu đậm trong nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa. Các trường trung học phổ thông và cả kỹ thuật miền Nam vẫn theo mô hình giáo dục trung học phổ thông Pháp.Tuy nhiên vào đầu thập niên 1960, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thử nghiệm một hệ thống giáo dục Tổng Hợp theo mô hình giáo dục Hoa Kỳ. Thành công của cuộc thử nghiệm này đã dẫn tới việc thành lập một hệ thống trường Trung Học Tổng Hợp (còn được gọi là trường Trung Học Dẫn Đạo) trên khắp toàn quốc Việt Nam Cộng Hòa;
  • Giáo dục kỹ thuật cũng có những bước tiến đáng kể. Trước năm 1960, Sàigòn chỉ có 2 trường kỹ thuật công lập Nguyễn Trường Tộ và Cao Thắng, xây vào đầu thế kỷ 20 bởi người Pháp. Đến năm 1970, số trường đã tăng lên tới 9 với 7 trường kỹ thuật công lập và tư thục. Nhiều bộ môn chuyên nghiệp mới như Thương Mại, Kế Toán, Doanh Thương, Nữ Công Gia Chánh, Kinh tế gia đình, Dinh Dưỡng… đã được thêm vào trong học trình kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu nhân lực do sự phát triển của kinh tế , thương mại và kỹ nghệ. Vì vậy, trường Nguyễn Trường Tộ ,truyền thống chỉ nhận nam sinh, vào năm 1973 đã mở cửa đón nhận nữ sinh.Vào năm 1971, trường mỹ thuật Gia Định và năm 1973 trường Nguyễn Trường Tộ đã được nâng lên thành trường trung học đệ nhị cấp;
  • Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu phải để dành gần như hết tài lực và nhân lực để đối phó với chiến tranh xâm lược liên tục bởi cộng sản miền Bắc, đã thành công gầy dựng được rất nhiều trường trung học công lập mới. Chính phủ đã đặc biệt chú ý tới các quận nghčo của đô thành Sàigòn và các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh của tỉnh Gia Định.Nhiều ngôi trường mới đã được khởi đầu từ các trường tiểu học có sẵn. Một số trường mới khác , gian nan hơn ,đã bắt đầu từ con số không và được xây dựng trên những khu đất không được dự trù để xây cất hay trú ngụ.

Trước năm 1954, Sàigòn- Chợ Lớn và Gia Định chỉ có 5 trường công lập: Hai trường phổ thông Gia Long, Petrus Ký, hai trường kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ , Cao Thẳng và một trường mỹ thuật Gia Định để lại bởi người Pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn 18 năm từ năm 1954 đến năm 1972, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thành lập được bảy mươi bốn (74) trường trung học công lập;

  • Sau năm 1954 và vào đầu thập niên 1960, một hệ thống trường trung học tư thục hình thành và phát triển rất nhanh tại Sàigòn- Chợ Lớn và Gia Định để bổ khuyết cho khả năng giới hạn của các trường công lập không đáp ứng được hết nhu cầu gia tăng khối lượng học sinh quá nhanh chóng.Tài liệu [4,6,7]đã có ghi nhận điều này. Đô thành Sàigòn, Chợ Lớn và tỉnh Gia Định có 63 trường trung học tư thục Việt, Pháp và Hoa .

Các trường tư thục được thành lập bởi giáo hội Công Giáo , Phật Giáo và tư nhân. Tuy nhiên chương trình đào tạo học sinh trung học phổ thông của các trường công giáo như trường La San , Nguyễn Bá Tòng ,Chân Phước Liêm, Don Bosco … có thể được coi là hoàn hảo nhất bởi vì ngoài phần văn hóa còn có thêm các sinh hoạt hiệu đoàn ,hướng đạo , văn nghệ, thể thao,công tác xã hội từ thiện.

Nhiều trường tư thục tư nhân như Văn Lang,Trường Sơn, Hưng Đạo, Văn Học, Phục Hưng… đã mời được những giáo sư đầy kinh nghiệm tới từ các trường công lập. Vì vậy phẩm chất giảng dạy của các trường này rất tốt và số học sinh đậu tú tài 2 rất cao chẳng kém trường công lập;

  • Các trường trung học Việt ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 liệt kê trong danh sách trên , đều được đặt bằng tên :

– Của các anh hùng dân tộc thời trước hay danh nhân, được mọi người từ lâu công nhận như: Trưng Vương, Lý Thường Kiệt ,Hưng Đạo, Gia Long ,Nguyễn Trãi , Lê Văn Duyệt , Mạc Đỉnh Chi, Lê Quý Đôn, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Cao Thắng, Nguyễn Trường Tộ, Petrus Ký, Phan Sào Nam v.v … ;

– hoặc những tên có ý nghĩa tôn giáo như tên các Thánh Công giáo, Thiên Phước, Phước An, Bồ Đề… ;

– hoặc các danh xưng văn hóa ,văn học xứ sở như Hồng Bàng, Văn Lang, Văn Hiến, Văn Học, Tân Văn, Tân Thạnh, Bác Ái ,Kiến Thiết, Phục Hưng…

Tuyệt nhiên không hề có một trường trung học công lập nào mang tên của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo, như đã ghi trong tài liệu [4,5].

Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các trường trung học kể trên bị bọn ngụy quyền cộng sản tịch thu. Một số trường bị phá hủy để xây cao ốc thương mại, condos, một vài trường trở thành trường dành riêng cho bọn cán bộ đảng, phần còn lại bị đổi quy chế và trách nhiệm giáo dục và bị đổi tên trường với những tên hoàn toàn xa lạ như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai hay tên của những kẻ khủng bố như Lê Thị Hồng Gấm và cả những khủng bố vị thành niên như Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng …hay tệ hơn nữa, là ngụy tạo Lê Văn Tám, không có thật, đối với quảng đại quần chúng miền Nam là “ngoài giáo dục” (kiêm luôn vô giáo dục ) hay vài cái tên vọng âm hưởng cải tạo ruộng đất đấu tố tràn đầy máu và nước mắt ngoài Bắc ngày xưa như Bổ Túc Công Nông, Đuốc Sống hay cái tên Đồng Khởi dính liền với đặt bẫy, gài mìn , ném lựu đạn khủng bố , đào đường, đắp mô, phá cầu, đòi tiền mãi lộ, ám sát, chặt đầu, trấn nước thả sông, đốt nhà, phá ấp, pháo kích bừa bãi vào trường tiểu học và nhà dân … chính vì nó mà biết bao người dân vô tội vùng thôn quê miền Nam đã mất mạng sống và sau năm 1975, toàn dân Việt Nam mất luôn Tự Do.

Tài liệu tham khảo :
1. Nguyễn Thanh Liêm – Nền giáo dục miền Nam trước 1975 (trích lược) – 01/07/2019.
2. Nam Sơn Trần Văn Chi – Đạo và Đời Qui Nguyên- Viện Nghiên Cứu Đạo Cao Đài – Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.
3. Nguyễn Võ Phương Nam – Tiếc nuối nền giáo dục Việt Nam Cộng Hoà (2) – 06/09/2018.
4. Phạm Cao Dương – Sau 44 năm : Nhìn lại thời vàng son của giáo dục VNCH trước năm 1975 – 06/05/2019.
5. Phạm Cao Dương – Những đặc tính truyền thống cơ bản của nền giáo dục miền Nam trước 75.
6. Huỳnh Minh– Gia Ðịnh xưa và nay – Nhà xuất bản Khai Trí -1973.
7. Lê Nguyễn -Ký ức vụn về chuyện học ở miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa..


 

PHI THƯỜNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển”; “Người thấy Giacôbê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền”.

Kính thưa Anh Chị em,

Mùa Giáng Sinh kết thúc, chúng ta bắt đầu nhịp thường của năm phụng vụ với mùa Thường Niên. Thế nhưng, cuộc sống của Kitô hữu là một cuộc sống đơn điệu và bình thường? Không hoàn toàn như thế! Đúng hơn, cuộc sống của Kitô hữu khá bình thường nhưng cũng rất ‘phi thường!’.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên giữa nhịp sống thường nhật của họ khi họ “đang thả lưới xuống biển”, khi họ “đang xếp lưới trong thuyền”. Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan đã mau mắn đáp trả lời gọi ấy – một sự đáp trả chóng vánh không thể tin được – đến nỗi nó sẽ trở thành một lời mời, một thách thức cho mỗi người chúng ta. Bạn và tôi được mời gọi bước ra khỏi nhịp sống bình thường để đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, một lời mời gọi mà nhờ đó, cuộc sống của chúng ta rồi cũng trở nên phong phú, đầy kinh ngạc và ‘phi thường’.

Đích điểm cuộc sống của Kitô hữu là Chúa Giêsu, đi theo Ngài và nên giống Ngài. Thế nhưng, biết Chúa Giêsu, biết Thiên Chúa chưa đủ; chúng ta còn phải chia sẻ niềm tin về Ngài cho thế giới. Thông thường, phần lớn chúng ta chỉ muốn an thân với những gì quen thuộc, nhàn nhã; đang khi Chúa Giêsu lại muốn chúng ta phá vỡ những ‘nếp thường’, khuôn mẫu, dám bước ra khỏi vùng an toàn. Bởi lẽ, bạn không thể ước mong thay đổi thế giới, trừ khi lần đầu tiên, bạn dám thay đổi bản thân; bạn sẽ không là những tông đồ hăng nhiệt của Vương Quốc, trừ khi lần đầu tiên, bạn dám dâng hiến hồn xác cho Chúa Giêsu và dấn thân cho sứ vụ của Ngài.

Charles Ellet Jr. nhận hợp đồng thiết kế đồ hoạ một chiếc cầu treo vắt qua sông Niagara. Một trong những vấn đề là làm sao để kéo sợi cáp đầu tiên qua một vùng thác rộng lớn vốn chỉ có sóng dữ. Một ý tưởng đơn giản chợt loé lên! Ellet nghĩ, nếu một con diều có thể đáp xuống bờ bên kia bằng một sợi dây nhẹ, rồi một sợi dây chắc hơn có thể được gắn theo; sau đó một sợi lớn hơn và cứ thế, tiếp tục tăng dần cho đến khi một sợi cáp có thể được vắt ngang qua. Ellet tổ chức một cuộc thi thả diều và Homan Walsh đã thành công. Ý tưởng đơn giản của Ellet đã phát huy tác dụng. Ngày 01/8/1848, cây cầu đã hình thành – vắt qua sông Niagara – nối liền Canada và Hoa Kỳ.

Anh Chị em,

Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta, giao cho bạn và tôi sứ mạng xây ‘những chiếc cầu’ từ đất lên trời, từ trời xuống đất ngay giữa những công việc bình thường trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Đó là một sứ mạng không tưởng vì chúng ta phải chuyển tải những gì thuộc thiên giới xuống hạ giới và ngược lại, từ hạ giới lên thiên giới. Để được vậy, bạn phải bám vào ‘con diều’ Thánh Thần. Chỉ khi bám vào Ngài, chúng ta mới có thể tăng dần ‘những sợi dây’ ngày càng bền hơn, mạnh hơn, hầu có thể gắn chặt vào ‘trụ cọc’ Giêsu. Nhờ đó, thế giới mới hy vọng có thêm những chiếc cầu. Bấy giờ, cuộc sống của bạn không còn tẻ nhạt nhưng thật ý nghĩa và ‘phi thường’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dẫu công việc của con chỉ như những sợi nhợ đầu tiên được Thánh Thần chấp cánh; nhưng với ơn Chúa, thế giới sẽ có thêm những chiếc cầu mang tên ‘Cứu Độ!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From:KimBang Nguyen

*************************************************

Thứ Hai Tuần I Thường Niên, Năm Lẻ

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15 Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. 17 Người bảo các ông: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người.

19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.


 

Điểm Tựa Giêsu: Động Lực Để Đứng Lên | Bài Giảng LM Khiếm Thị Phêrô Phạm Văn Dương

Điểm Tựa Giêsu: Động Lực Để Đứng Lên | Bài Giảng LM Khiếm Thị Phêrô Phạm Văn Dương

Bài giảng đầy cảm hứng của Linh mục khiếm thị Phêrô Phạm Văn Dương nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Mái Ấm Thiên Ân, mang đến thông điệp sâu sắc về Chúa Giêsu – điểm tựa vững chắc và nguồn sức mạnh vô biên giúp con người vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống. ️ “Chúa Giêsu chính là động lực để chúng ta đứng lên, vượt qua nghịch cảnh và tiếp tục hành trình của niềm tin và hy vọng.”

YouTube player