Cám ơn cuộc Đời

Cám ơn cuộc Đời

Mặc dầu Lễ Tạ ơn đã qua nhưng xin đăng bài này, rất cảm động.

cam-onHôm nay Thứ Năm ngày 24/11/2016 là Lễ T Ơn tại Mỹ. Trân trọng mời đọc bài viết đặc biệt cho mùa lễ tạ ơn của tác giả Hoàng Thanh. Cô tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 33’., hiện là cư dân Westminster, Orange County. Bài viết về Lễ Tạ Ơn của cô mang tựa dề “Xin Cám Ơn Cuộc Ðời” kể lại câu chuyện xúc

động, giản dị mà khác thuờng, bắt đầu từ cái Bình Thuờng nhất: ” Chỉ với một n cuời 

 

happy-hoa

Xin cám ơn cuộc đời

Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ Ơn, tôi thầm nghĩ, “Dân ngoại quốc sao mà… “quởn” quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ, màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business đó mà…”

Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn.

Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục, nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi.

Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm đó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà lại đang điều trị ung thư ở giai doạn cuối.

Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cuời vui với bà, thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà. Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhung lại bị tật nguyền, rồi từ dó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở nhà duỡng lão.

Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà cuời với tôi và đưa tặng tôi một tấm thiệp cùng một ổ bánh ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm thiệp ra đọc liền đi.

Tôi mở tấm thiệp và xúc động nhìn những nét chữ run rẩy, xiêu vẹo:

Dear Thanh,

My name is Josephine Smiley, but life does not “smile” to me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I met you in this pharmacy.You are the ONLY person who always smiles to me, after the death of my husband and my son.You made me feel happy and help me keep on living. I profit this Thanksgiving holiday to say “Thank you”, Thanh.

Thank you, very much, for your smile…

(Thanh thân mến,

Tên tôi là Josephine Smiley, nhưng cuộc sống Không có “nụ cười” với tôi cả. Nhiều lần tôi muốn tự tử, cho đến ngày tôi vào tiệm thuốc tây này.

Cô là người luôn luôn mỉm cười với tôi, sau cái chết của chồng tôi và con trai tôi. Cô làm tôi cảm thấy hạnh phúc và giúp tôi tiếp tục sống. Nhân dịp ngày Lễ Tạ Ơn để nói lời “Cảm ơn”, Thanh.

Cảm ơn cô, rất nhiều, vì nụ cười của cô …)
Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn… Tôi thật hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống còn.

Ðó là lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghĩa cao quý của ngày lễ Thanksgiving.

Ngày Lễ Tạ ơn năm sau, tôi cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ đến tìm gặp tôi. Cô đưa cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô y tá này tấm thiệp và nhờ cô đến đưa tận tay tôi vào đúng ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa của tôi đã làm nhòe hẳn đi những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn nghèo trên trang giấy:

My dear Thanh,
I am thinking of you until the last minute of my life.
I miss you, and I miss your smile…
I love you, my “daughter”.. .

( Thanh thân yêu,

Tôi đang nghĩ đến cô Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời tôi.
Tôi nhớ đến cô, và tôi nhớ nụ cười của cô …
Tôi yêu cô , “con gái” của tôi.. 
.)

Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm đó, không sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của bà, nguời “Mẹ American” đã gọi tôi bằng tiếng “my daughter”…

Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành cho bà, vào mỗi ngày lễ đặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm ở pharmacy đó.

Mãi cho đến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã “cảm” được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này.

Thông thuờng thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào đó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (tuckey).

Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có… Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi nguời ăn nhậu.
Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thuờng làm món gà ta, “gà đi bộ.” Ngày xưa tôi cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn.

Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi “Free meals” tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp…để chờ đến phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một cái túi ngủ qua đêm.

Ở nơi đâu trên trái dất này, cũng luôn vẫn còn rất rất nhiều nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta…

Nếu nói về hai chữ “TẠ ƠN” với những nguời mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy…

Cám ơn quê hương tôi -Việt Nam, với hai mùa mưa nắng, với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi- nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê nguời…

Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi duỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế kỷ qua…

Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học….

Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho đất nuớc, xã hội…
Cám ơn các chị, các em tôi, đã xẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại…

Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm – buồn vui- những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua được. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo trắng của tôi không có chút gì dể mà lưu luyến cả…
Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xưa, đã “nuôi” tôi cả mấy năm trời Ðại học, bằng những lon “gigo” cơm, bữa rau, bữa trứng, bằng những chén chè nho nhỏ, hay những ly trà đá ở căn tin ngày nào.

Cám ơn các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất, đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật…

Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc…

Cám ơn những nguời tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã giúp tôi biết đuợc cảm nhận đuợc thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly.

Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương…

Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc dời, để nhận ra cuộc sống này là vô thuờng… để từ đó bớt dần “cái tôi”- cái ngã mạn của ngày nào…

Xin cám ơn tất cả… những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì:
Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau…”

Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những người thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi.

Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói “Con thương Mẹ”, hay một tấm thiệp, một cành hồng.Tình thương, là phải đuợc cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không?

Xin cám ơn cuộc đời…

Hoàng Thanh

Hồi ức Tị Nạn

Trong dịp cuối năm, cũng là 41 năm kể từ 1975, xin chia sẻ với quý anh chị em một chút tâm tình:

Hồi ức Tị Nạn

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi không có thói quen viết nhật ký. Hồi bé tôi cũng ráng bắt chước các chị trong nhà, nắn nót viết vì được tặng một cuốn sổ có chìa khóa bé xíu rất xinh, nhưng chỉ viết được vài dòng thì chán – chơi búp-bê, chạy nhảy ngoài sân với bạn vui hơn.

Lớn lên, khi buồn chuyện này người kia, tôi cũng có ý định trang trải tấm lòng trên trang giấy, nhưng vốn biếng lười rồi sợ có người đọc được nên thôi. Thế nhưng hôm nay tôi lại chạnh lòng, muốn viết một chút gì đó để hồi tưởng lại 40 năm tị nạn, nhớ lại chặng đường dài mà người dân Việt đã đi qua. Nếu như tôi đã viết nhật ký, việc ghi nhớ chuyện cũ có lẽ sẽ dễ dàng hơn nhiều, vì bây giờ những kỷ niệm xưa, các suy tư đã phôi pha theo ngày tháng, tuổi tác  … Nhưng hôm nay tôi nhủ lòng sẽ cố gắng ghi lại một chút tâm tình – Tâm tình của người tị nạn, của một thuyền nhân nhỏ bé tầm thường – viết lại tâm trạng khắc khoải của người di tản buồn phải lưu vong trên xứ người. Tôi vẫn thích hát “Hãy cố quên đi mà sống…”, nhưng ngược lại có những điều tôi không cho phép mình được quên để biết mình là ai và trách nhiệm như thế nào… “Mời người lên xe, về miền quá khứ”….

Ngày… tháng…

30 tháng 4, 1975, tôi chưa tròn 15 tuổi. Những tháng trước đó gia đình tôi không được ở nhà mình tại khu nhà thờ Tây Ninh nữa, mà phải xin tạm trú với người bà con ở xa khu vực tỉnh lỵ để tránh pháo kích. Sợ lắm, nửa đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng đạn nổ thật to, thật gần. Ba má và mấy chị em chúng tôi phải chạy trốn xuống hầm tránh đạn, ngồi co ro lo lắng. Tôi hay hỏi: Hết pháo kích chưa để được lên nhà nằm ngủ, ba má biết đường nào mà trả lời! Tôi đã thấy những miểng đạn thật to bay vào sân nhà, tôi đã đi đám tang của bà bán chè trong xóm chết tại chỗ, thịt da và máu lẫn trong nồi chè lênh láng. Tôi đã nghe radio loan tin về các em học sinh bị pháo kích ở Cai Lậy, và rơi nước mắt với nhiều gia đình vì người thân đi lính đã tử trận. Ôi chiến tranh, ôi thời kỳ đau thương khốn khó.

Xưa kia em có mẹ cha

Xưa kia em có ông bà

Trong một ngày em mất cả ba….

Anh tôi hiểu tình hình thời sự, nên khuyên ba má và mấy đứa em chúng tôi bỏ Tây Ninh lên thành phố sinh sống, vì Saigon dù sao cũng có tai mắt quốc tế, ít sợ bị trả thù, bị gò bó như ở tỉnh nhỏ. Rời Tây Ninh tôi buồn lắm, xa trường mất bạn nhưng biết làm sao hơn.

Nhưng buồn hơn cả là biết được 30 tháng 4 là ngày mất nước, Việt Cộng đã tràn vào tới Saigon, trên đài phát thanh ông Dương Văn Minh đã chính thức đầu hàng. Chị tôi bảo phải lo cắt móng tay cho thật ngắn, vì Việt Cộng không thích những đứa xí xọn để móng tay dài. Má tôi có vài lượng vàng, vài cái nhẫn, bắt chúng tôi giấu kín trong người, tưởng rằng như thế là qua mắt được “họ”! Chúng tôi còn ngây thơ quá, ít kinh nghiệm với Cộng Sản quá, bằng chứng là sau đó hai ông anh của tôi đã nghe lời ra trình diện học tập cải tạo 10 ngày, để rồi đi “mút mùa” bao nhiêu năm.

Mấy tháng sau ngày 30 tháng 4, tôi được đi học lại, nhưng ngày đầu tiên là học hát nhạc đỏ, nhạc “cách mạng”, nghe giảng chính trị dài dòng vô nghĩa. Dù sao tôi cũng còn may mắn có sự bảo bọc của gia đình, không phải đi kinh tế mới, không phải đi bán vé số, lượm rác…

hoi-uc-ti-nan-1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

​Ngày… tháng…

Tôi học trung học cấp Ba, tuổi học trò nên còn vô tư, còn vui với bạn bè, dù cuộc sống đã bắt đầu thay đổi. Vì lao động là vinh quang, học sinh phải làm công tác sản xuất ngoài giờ học chữ, nên chúng tôi quay quần bên nhau đan lá mây tre, tức là ngồi đan những cái rổ, cái giỏ để xuất khẩu cho nhà trường kiếm tiền. Chúng tôi thủ thỉ chuyện thơ văn, chuyện bất công đói rách đang xảy ra trên quê hương, tình bạn thật thắm thiết dù thầy cô “quốc doanh” dạy chúng tôi phải có tinh thần tập thể, cái gì cũng phải mang ơn Bác và Đảng, như ngắm trăng cũng phải cùng ngắm chung, ngồi một mình tư lự với trăng là tư duy sai lầm, là cá nhân chủ nghĩa!

Hôm nay N. đến trường nhưng không ở hết buổi học, anh tới giã biệt tôi vì phải cùng mẹ đi xa kiếm cách sinh sống. Ba của N. đã trốn vào bưng tìm cách đấu tranh giành lại chính quyền, kinh tế gia đình gặp khó khăn, công an có thể tới nhà N điều tra khó dễ. Tôi buồn lắm, một phần vì cũng có cảm tình đặc biệt với N, lũ bạn hay “cáp đôi” chúng tôi với nhau, một phần vì lo sợ cho chính gia đình tôi. Trước vận mệnh đất nước, nhiều chia ly, đau khổ sẽ diễn ra. Thầy T. đang dạy chúng tôi môn Toán cũng bị công an tới tận lớp bắt đem đi mất, nói là có tội với Cách mạng, cô T. và gia đình thầy khổ sở biết bao nhiêu. Tôi nhớ câu chuyện Bầy Phượng Vỹ Khác Thường của Nhã Ca, chúng tôi cũng đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, không an tâm học hành, không biết ngày mai chuyện gì sẽ xảy ra…

Ngày… tháng…

Sáng nay tôi giật mình dậy sớm vì nghe tiếng khóc nỉ non, tiếng kể lể từ nhà hàng xóm bên cạnh vọng lại. Trời ơi! bạn K. bị bắt đi nghĩa vụ quân sự mấy tháng trước đã bỏ mình nơi chiến trường Campuchea. Xót xa nào hơn khi cha mẹ tóc bạc phải khóc con đầu xanh, mà lại không được thấy xác con để nhìn mặt lần cuối hoặc chôn cất. Hèn chi người anh bà con của tôi nhất định không chịu trình diện làm lính thế thân cho Cộng Sản. Anh trốn chui trốn nhũi đói khát thật đáng thương. Anh không được đi học đi làm, cũng không thể ở nhà vì lệnh bắt trốn nghĩa vụ quân sự ai cũng biết, không ai dám chứa chấp. Chị tôi bị ép phải “phấn đấu” để có thể trở thành cảm tình viên của Đoàn Thanh niên Cộng Sản. Chị đâu có muốn thành đoàn viên. Gia đình tôi lý lịch xấu, cha làm công chức cho chế độ cũ, anh làm “Lính Ngụy”, phấn đấu 10 đời cũng không tới đâu, nhưng họ vẫn bắt chị đi họp hành ca hát, công tác liên tục. Mấy đứa cháu phải tham gia Thiếu Nhi Khăn Quàng Đỏ, bị nhồi sọ những chuyện sai lầm, sắt máu. Còn các bà mẹ, các người chị phải ra ngoài buôn thúng bán bưng, đầu tiên là bán các thứ trong nhà để sống cầm hơi, vì người đàn ông trụ cột trong gia đình đã đi tù cải tạo. Mọi người có thêm gánh nặng nhịn ăn nhịn mặc để lo thăm nuôi người nhà trong trại tù. Tôi có cùng chị dâu đi thăm anh tôi ở trại cải tạo một lần, thật là thương cho các chiến sĩ, nhân viên chế độ Cộng Hòa bị sa cơ thất thế. Đói rét đã đành, nhiều người bệnh nặng, bị biệt giam gông cùm thật khổ. Trong cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện có ghi lại kinh nghiệm tù mà tôi còn nhớ. Khi bị cùm lâu ngày một chân sẽ bị teo nhỏ lại không đi vững được, nhưng người tù vẫn không dám xin cán bộ đổi cùm sang chân kia. Lý do không phải vì sợ cán bộ từ chối, nhưng chân teo nhỏ lại sẽ ít bị cái cùm siết chặt, ít đau đớn hơn. Nhiều người bị nhốt trong phòng tối mười mấy năm, mắt trở nên mù lòa thật khổ. Tôi hồi ấy cũng còn ngây thơ, nên thắc mắc cán bộ không cho tù cải tạo ăn đường là phải, vì mua đường tốn tiền, nhưng muối rất rẻ mà sao họ cũng không cho ăn để cải tạo bị phù thủng? Thì ra Cộng Sản muốn làm khổ, muốn hành hạ cho phá bệnh tật để không còn sức lực tranh đấu, chứ không phải vì thiếu muối. Thật vậy, tình thương yêu thông cảm đâu tốn xu nào để mua, mà con người vẫn dè sẻn đâu đã cho nhau hết lòng, nói chi đến Đảng Cộng Sản sắt máu.

Nhiều em bé không được tới trường, phải lang thang đầu đường xó chợ đói rách kiếm ăn. Do thiếu giáo dục các em hỗn láo ma lanh, dối gian… Nhà cầm quyền lại đánh phá “Tư sản mại bản” bằng nhiều hình thức, một trong những cách là đổi tiền hai ba lần. Tôi nhớ lần đầu mỗi gia đình chỉ được đổi 200 đồng tiền Hồ, còn lại mất hết, ba má và người thân tiếc tiền phát bệnh, có người còn tự tử. Ôi, thân phận con người thế hệ chúng tôi.

hoi-uc-ti-nan-2

Ngày… tháng…

Đến thời gian này phong trào “Đi” được bắt đầu, vì cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ bỏ trốn Cộng Sản để ra đi mà! Chuyện đút lót mua bãi để không bị bắt lại, chuyện bị lường gạt mất “cây” mà không đi được, chuyện vào tù vì dám bỏ trốn chế độ xảy ra thường xuyên. Rồi vượt biên lạc đường bị đói khát, bị cướp biển, bị làm mồi cho cá mập… Ai nấy căng thẳng sợ hãi. Nhưng ở lại cũng chết, ra đi dù sao cũng có chút hy vọng, nên đông đảo người dân đã liều mình vượt biên, tạo nên một sự kiện đặc biệt trong lịch sử. Hôm nay đi học tôi lại thấy vắng thêm một người bạn, công an đang hồ hởi phong tỏa căn nhà của gia đình bạn để làm cơ sở thành phố. Thầy bói có thêm cơ hội hành nghề, vì nhiều người quá lo phải tới nhờ thầy xem dùm có đi thoát không rồi mới dám liều. Anh chị Hai tôi ở Bến Tre, anh là Đại Úy phải đi học tập, chị bị công an tịch thu nhà để làm Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, đuổi đi kinh tế mới. Đàn con phải làm rẫy khổ sở, nên chị liều mình vượt biên, rủ tôi cùng đi.

May mắn chuyến hải trình êm xuôi, chúng tôi không bị hải tặc, chỉ bị công an Việt Nam chặn lại cướp của làm tiền. Chúng tôi được đưa tới trại tị nạn tại Nam Dương, mừng quá là mừng. Đó cũng là nhờ cháu bé con anh Năm tôi lúc đó mới 3 tháng tuổi. Khi tàu Tây Đức đi ngang qua, họ không muốn rắc rối nên chỉ cho thức ăn nước uống để chúng tôi đi tiếp. May quá một người nhanh trí đã ẵm cháu tôi giơ lên cao cho người Đức thấy. Có lẽ vì thương trẻ em cùng với con thuyền bé nhỏ mong manh trên biển cả, họ bảo chúng tôi đục cho tàu ngập nước, rồi gọi về cho cấp trên nói là chúng tôi đang chết chìm nên phải cứu.

Trại tị nạn Indonesia được mệnh danh là “Ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người”, chúng tôi an tâm học Anh văn, chuẩn bị ngày đi Mỹ. Cơm Cao Ủy phát chúng tôi ăn còn đói, còn thiếu thốn rất nhiều các phương tiện khác, nhưng không dám đòi hỏi gì hơn. Chỉ buồn là thấy chung quanh cũng có một số ít người vì chút quyền lợi, vì thiếu suy nghĩ nên luồn cúi cảnh sát Indonesia làm hại bà con, hoặc có các chị chịu đi chơi riêng với người Indonesia, không tiếc phẩm giá. Lại có người độc thân tại chỗ, vì quá cô đơn yếu đuối cần nơi nương tựa, nên đã “ghép form” ở tạm với nhau, làm sau này gặp phải cảnh  hai vợ hai chồng, không biết chọn ai bỏ ai. Ở lại quê nhà là một dấu chấm than, nhưng ra đi được lại là một dấu chấm hỏi to tướng. Trách nhiệm rất nặng nề, mình sẽ làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước đây?…

Ngày… Tháng…

Thời gian ở trại Tị nạn thật dài với những vui buồn lẫn lộn. Vui vì thoát được chế độ Cộng Sản, buồn vì xa nhà, lo lắng cho tương lai trên xứ lạ quê người. Cuối cùng tôi và gia đình anh chị cũng tới được Cali đất Mỹ. Tôi vừa học vừa làm, mỗi ngày mười mấy tiếng, có bệnh cũng không dám nghỉ, ráng dành dụm gởi tiền, gởi quà về cho gia đình và bè bạn. Ngày ấy vải vóc ở Việt Nam rất quý, hơn một thước vải xoa Pháp vài đô-la là may được một cái quần đen, nếu chúng tôi nhịn xài thì có thể giúp được nhiều người. Mỗi khi thèm quá mua bánh kẹo trái cây ăn, cô cháu gọi tôi bằng dì luôn xuýt xoa “Chèn ơi! Ăn hết một cái quần xoa Pháp rồi!”

Chúng tôi bây giờ văn minh, bắt đầu sợ mập ăn kiêng, nhưng vẫn không quên những ngày đói khổ tại quê nhà. Chúng tôi hay nhắc lại kỷ niệm cũ như lúc phải nấu cháo ăn cho đỡ tốn, hoặc lúc đi lặn lội đào kinh làm công tác thủy lợi do phường khóm đề ra, không đi là cắt hộ khẩu, cắt gạo, bị kiểm điểm. Cái màn tự kiểm và bị kiểm điểm thật ghê sợ, nếu không nói dối, không khôn khéo sẽ bị tù như chơi. Tôi khi ấy cũng phải phụ giúp gia đình, sáng đi học chiều đi bán nước mía cho người bà con kiếm thêm tiền. Tôi lượm vỏ mía về cho má tôi nấu ăn thay củi, vỏ mía cháy vèo vèo nhưng chịu cực thì cơm cũng chín. Có lần lãng đãng lo ra, tôi đút cả ngón tay vào trục xay nước mía, may mà chỉ bị mất một phần nhỏ ngón tay cái, không bị cụt!

Tôi đã từng sắp hàng cả ngày để mua được vài ký bo bo, nấu lên cứng ngắc ba tôi nhai trệu trạo thật đau lòng. Tôi cũng nhớ có lần mang sổ hộ khẩu sắp hàng để mua được một chia bia, đem bán chợ đen ngay để có tiền mua đi chợ. Chị tôi đi dạy học có tiêu chuẩn mỗi tháng nửa ký thịt, nhưng chị vừa hiền lành vừa khẳng khái không tranh dành, nên chỉ đem về chừng vài trăm gram thịt mỡ bèo nhèo, lớp cán bộ đã ăn bớt, lớp các bạn đồng nghiệp chia chác hai ba đợt. Ba tôi lâu ngày không có thịt ăn, ăn vào lạ bụng tiêu chảy quá chừng. Buổi cơm gia đình tôi lúc ấy thường chỉ là rau muống luộc, đậu hũ luộc, ngày nào có khách thì mua vài cái trứng vịt, quậy thêm với bột mì để chiên cho được nhiều. Nhiều nơi hàng xóm dòm ngó nhau, nếu có thịt, có thức ăn ngon cũng phải dấu diếm, nếu không sẽ bị tố giác, làm khó dễ. Cộng Sản quá khôn ngoan ác độc với những hình thức trừng phạt, gieo vào lòng tất cả người dân một sự sợ hãi khó lòng vượt qua được. Sợ, sợ lắm, tới bây giờ tôi vẫn còn sợ….

Nhớ lúc mới được nhà thờ bảo trợ qua Mỹ, chúng tôi còn xấu hổ. Nhà thờ hôm ấy mừng lễ Phục Sinh, tức là Easter có cho trẻ em chơi trò dấu trứng. Trứng đây là kẹo chocolate gói giấy màu thật đẹp hình trái trứng, tượng trưng cho sự đổi mới sanh sôi nảy nở. Các cháu tôi ốm nhom bé choắt, lại khai rút tuổi để dễ đi học nên khôn lanh so với con nít Mỹ thật nhiều. Có bao nhiêu kẹo dấu ở đâu chúng cũng hớn hở tìm ra hết, hình như chúng “hửi” được mùi ngọt, đám con nít Mỹ ngây thơ hầu như chẳng tìm được trái trứng nào. Gia đình “Mít” thâu lượm hết, không biết chia sẻ, không biết đây chỉ là trò chơi cho vui!

Lại còn chuyện đãi các ông bà bảo trợ cũng mắc cười. Chị tôi mua tôm càng to đút lò, làm chả giò và nhiều món ngon mời bảo trợ tới nhà ăn để tỏ lòng biết ơn. Dĩ nhiên mấy dì cháu tôi đâu có tiêu chuẩn ăn tôm, nhưng may thay khách tới trò chuyện vui quá, chị tôi quên mất món tôm còn để nguyên trong lò. Khách về chúng tôi sung sướng thưởng thức, trong khi anh chị tôi tiếc hùi hụi….

hoi-uc-ti-nan-3

Ngày… Tháng…

Vấn đề ngôn ngữ bất đồng tại xứ người cũng rắc rối. Mấy dì cháu tôi khổ sở ngày ngày tra tự điển, uốn lưỡi tập đọc tiếng Anh, ráng nói mà sao Tây Mỹ vẫn tròn xoe mắt không chịu hiểu. Bạn tôi ước gì có viên thuốc đặc biệt uống vào là tiếng Anh như gió để có thể tìm việc làm mà không cần phải học. Nói tiếng Anh chúng tôi không mỏi miệng mà mỏi tay, vì phải ra dấu diễn tả lung tung.

Hôm đó là ngày lễ, tức là longweekend không phải đi học đi làm, nhưng chúng tôi nhận điện tín báo tin buồn. Vì nhân viên bưu điện cũng nghỉ lễ, nên họ không tới nhà trao điện tín, mà đọc nội dung cho nghe qua điện thoại trước, rồi sẽ giao giấy sau. Họ đánh vần rõ ràng “Ba đã mất” nhưng khi cô cháu nhận phôn nói lại, cả nhà không ai chịu tin. Má tôi bệnh tiểu đường, rất yếu nên má mất mới hợp lý, chứ ba tôi còn khỏe lắm. Chúng tôi trách cháu nghe cò ra quạ, chữ M lại tưởng chữ B, rồi khóc mà không biết khóc ai! Hôm sau nhận điện tín mới rõ đúng là ba đã mất.

Qua được xứ Mỹ nhưng chúng tôi rất hà tiện, vì mới chân ướt chân ráo làm lương rẻ và còn đang đi học thêm. Mỗi lần chợ đại hạ giá món hàng nào, chị Hai bắt hết mấy dì cháu chúng tôi sắp hàng mua thật nhiều về để dành. Khi có dư chút đỉnh chị mua vàng lá để trong nhà ngắm nghía. Chúng tôi bàn nên gởi ngân hàng cho có tiền lời, nhưng chị bảo hồi ở Việt Nam quá khổ, cái nhẫn một chỉ cũng không có nên bây giờ chị nhất định mua ít vàng về chưng trong phòng cho bõ ghét! Ấy thế mà chị “trúng”, sau này vàng lên giá quá chừng. Chị cũng rất sáng suốt, tuy cần tiền nhưng nhất định không cho ai “share” phòng, dù lúc này việc cho mướn phòng kiếm thêm tiền đang rất phổ thông. Chị bảo cho đàn ông vào share phòng thì sẽ mất con gái, còn cho đàn bà vào ở thì sẽ mất chồng!

Các cháu tôi ít nhiều cũng biết khổ là gì vì lớn lên ở Việt Nam, biết giá trị của cuộc sống nên cố gắng học hành, sau này đều thành bác sĩ, kỹ sư thật thành công. Cô cháu Út bắt đầu quên tiếng Việt, nói tiếng Mỹ đúng giọng rất hay. Đám trẻ thật dễ hội nhập, thật là mừng và cảm ơn xứ người đã cho chúng tôi cơ hội sống tốt đẹp hơn. Nghĩ cũng lạ, nhiều nhà cha mẹ nói tiếng Anh không giỏi lắm, nhưng con cái không biết chút tiếng Việt nào. Một người quen bảo lãnh được cha mẹ sang giúp trông cháu, đứa cháu cần cái ly, nói tiếng Anh ông bà không hiểu, phải gọi điện thoại vào hãng nhờ mẹ thông dịch mới có cái ly uống sữa! Do phải làm việc nhiều, một số gia đình không có giờ dạy dỗ con cái, chúng học theo cái xấu của Tây Mỹ trở nên hư hỏng, vợ chồng bất hòa ly dị…. Được tự do no ấm, nhưng cuộc sống hải ngoại cũng không dễ vì đang có những vấn nạn khác, không có gì là toàn vẹn….

Ngày… Tháng…

Hôm nay đi chợ bất ngờ tôi gặp lại bạn cũ. Tôi không nhận ra nhưng chị gọi tôi. Chị đi với một thanh niên rất cao ráo, thì ra đây là cháu trai hồi đó sinh ra ở đảo – đứa con không mong đợi khi chị bị hải tại cưỡng hiếp trên đường vượt biên. Tôi nhớ ngày ấy chị rất buồn. Không nỡ phá thai, nhưng chị xấu hổ bó bụng lại nên sanh ra cháu èo uột đen đủi, có người bảo cháu giống … con khỉ. Tình mẹ thật nhiệm mầu, dù cháu có nhăn nhó xấu xí chăng nữa chị vẫn chăm sóc, hôn hít yêu thương. Sau khi trò chuyện, tôi biết chị sang Cali, đã lập gia đình với anh D – người cùng thời ở đảo, nhưng anh này lớp khó tính, lớp hay đem chuyện chị bị hãm hiếp ra dày vò mỗi khi nổi giận, nên chị ly dị ở một mình nuôi con. Tôi ủng hộ quyết định của chị, nếu việc bị hải tặc ngày xưa mà cứ đem ra nói đi nói lại thì chẳng khác nào làm chị bị cưỡng hiếp thêm lần nữa. Cháu trai nay sắp tốt nghiệp dược sĩ, rất ngoan và siêng năng. Tôi thật mừng cho chị. Cuộc đời có ai biết ai ngờ, nhiều người tưởng là sẽ thành công nhưng cuối cùng lại thất bại, nhiều người bị thử thách nhưng không ngờ lại có thể vượt qua mà vươn lên. “Con khỉ” ngày xưa bây giờ là một dược sĩ bảnh trai – Hạt giống đau khổ nhưng nẩy mầm trong vùng đất tốt đã trổ sinh hoa trái tươi đẹp. Thật là một phép mầu, mà nếu không ở xứ Tự Do hai ngoai thì phép mầu này khó có thể xảy ra được.

Ngày… Tháng…

Chúng tôi sống một ngày như mọi ngày, trẻ đi học, người lớn đi làm, đi chợ nấu ăn, giặt giũ, cuối tuần thì tới nhà thờ, đi chùa, dự tiệc tùng hoặc các sinh hoạt khác…. Dù bận rộn nhưng cũng vui. Khi kinh tế khó khăn, chúng tôi cũng bị thất nghiệp, phải lo lắng nhưng rồi cũng có việc khác. Một số bạn bè bắt đầu nghề làm móng tay, mở tiệm Nail khấm khá hẳn ra. Nhiều người học cao tạo được danh tiếng trong thương trường, đóng góp đáng kể cho xã hội và được vinh danh tại hải ngoại. Sinh hoạt văn nghệ, truyền hình, sách báo sáng tác cũng rất phong phú. Ngược lại cũng có người buôn lậu, trồng cần sa hoặc trộm cắp, gian lận trợ cấp welfare, medicare làm xấu hổ người Việt, nhưng cũng may số người xấu này không đông. Trên các diễn dàn, thế giới ảo email, facebook lại hay có những bài viết nặc danh chửi bới làm nản lòng mọi người, làm thối chí ai muốn đóng góp cho Tự Do Dân Chủ trên quê hương, nhưng nói chung người tốt và các sinh hoạt ý nghĩa vẫn tiếp tục được thực hiện. Thật an ủi vì đa số ai cũng sẵn lòng góp công góp của làm việc tốt, việc thiện. Truyền thống hào hùng bất khuất, lá lành đùm lá rách vẫn mãi tồn tại và được đề cao tại hải ngoại.

Riêng tại quê nhà, cuộc sống vất vả và cái nghèo luôn hiện hữu. Một số chán nản trước đời sống không lối thoát đầy tệ nạn nên đã tìm quên trong men rượu, thậm chí bài bạc làm xã hội càng thêm xuống dốc. Không có Tự do Dân chủ, sống chung quanh các giả trá dối gian, nhiều người chịu ảnh huởng trở nên xấu thật đáng tiếc. Bất công và ranh giới giàu nghèo ngày càng rõ. Chỉ có giới cán bộ tai to mặt lớn là giàu sụ, còn lại dân nghèo dân oan khắp nơi…. 40 năm thay vì phát triển và là hòn ngọc sáng chói của Viễn Đông, nước tôi trở nên lạc hậu nghèo khổ hơn bao giờ.

Dù sao, tôi cũng xin ghi lại những dòng chữ hôm nay để cảm ơn các vui buồn trong cuộc sống, cảm ơn những thử thách để có thể tôi luyện chính mình. Tôi chân thành ghi nhớ những gương lành, những vị đã kiên trì làm việc tốt cho cộng đồng, cho người khác. Tôi cũng cám ơn cuộc sống tiện nghi, những phương tiện truyền thông tân tiến giúp tin tức, kiến thức mọi người được tốt đẹp. Tạ ơn cuộc sống này dù có nhiều phức tạp âu lo….

Ngày… Tháng…

Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hưởng ứng các sinh hoạt cộng đồng, góp tiếng tranh đấu cho Nhân Quyền, cho các Dân Oan bị áp bức không thể lên tiếng tại Việt Nam. Riêng tôi rất thông cảm cho các nhóm tổ chức. Ai cũng bận rộn khiếm khuyết, thiếu thì giờ, nếu có sai sót cũng rất đáng được bổ sung, cùng góp ý xây dựng sửa đổi, không nên chửi bới mạt sát. Ngày sanh con, đem các cháu đi bác sĩ chích ngừa các loại bệnh thông thường như đậu mùa, phong đòn gánh, tôi đã ước gì có loại thuốc chích ngừa tinh thần, tức là làm sao chủng ngừa cho các con tôi tránh được bệnh ích kỷ, bệnh lười biếng vô cảm cũng như các chứng hư tật xấu để các cháu có thể xây dựng tương lai – không những cho chính mình mà còn sống vì người khác. Bây giờ tôi thấm thía chính tôi cũng cần chích ngừa và tránh những bệnh đó. Chính tôi phải làm gương để các cháu hiểu được thế nào là tình người, là trách nhiệm với tổ quốc. Ai cũng sợ bị đột quỵ, bị stroke bất ngờ nằm bán thân bất toại, nhưng cơn stroke tâm hồn có lẽ còn nguy hiểm hơn nếu không tích cực, không sẵn lòng hy sinh và đoàn kết yêu thương. Tôi cũng đã từng bị đột quỵ tâm hồn, ú ớ không nói được lời động viên, xin lỗi với người chung quanh hoặc nhát sợ không dám lên tiếng cho sự thật, mặc “cha chung không ai khóc”!

Nhìn lại cuộc sống của một người tị nạn tầm thường nhưng đầy may mắn, tôi không biết nói sao để dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, đội ơn tiền nhân và biết ơn đất nước đã cho tôi tạm dung. Được tự do, có việc làm, có rất nhiều quyền mà trong đó quyền căn bản của con người được tôn trọng, được học hỏi nhiều điều hay tại Tây Phương, được đi du lịch đó đây, con cháu có cơ hội học hành thành đạt trong xã hội mới… tôi còn mong muốn gì hơn. Thế nhưng tôi vẫn hay tự hỏi: Bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng, sau mấy mươi năm nhìn lại tôi đã làm được gì cho bản thân, gia đình và việc chung? Tôi phải làm gì để san sẻ sự may mắn của mình cho người khác, đặc biệt cho những đồng bào còn đang chịu áp bức, đau khổ ở quê nhà? Tôi đã quá nửa đời người, khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại tôi nên làm gì, nghĩ gì? Cụ Phan Bội Châu đã viết những câu thơ rất hay và làm tôi suy tư thật nhiều, sống đứng chật trời không ích lợi gì thì sống làm chi?

Vì thế tôi mạnh dạn ghi thêm vài dòng suy tư, để cùng với biết bao người tị nạn khác, gạt nước mắt ly hương mà tôn vinh và tri ân các chiến sĩ, các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho chính nghĩa Tự do và bảo vệ đất nước. Tôi xin góp lời để hiệp thông và ủng hộ các nhà Dân Chủ tại quê hương – những anh hùng anh thư thời đại dám vượt qua sợ hãi tù đày, sợ gia đình bị liên lụy để mang khát vọng yêu chuộng Tự do và Nhân quyền của người dân trong nước để thế giới hiểu được. Tôi cũng nhủ lòng phải cố gắng tích cực hơn, lạc quan hơn và làm việc nhiều hơn, dù chỉ là những việc bé nhỏ nhưng với hết tấm lòng. Tôi tin nếu ai cũng ra sức đóng góp thì chắc chắn việc chung sẽ có kết quả cao.

Vâng, bốn mươi năm mới đó mà đã thoáng qua, biến cố 30 tháng Tư như một cơn sóng thần khủng khiếp đã quét mất nước Việt Nam Cộng Hòa, đã cuốn trôi bao sinh linh, bao đổ vỡ mà hệ lụy vẫn còn kéo dài. Mỗi khi tham dự lễ Chào Cờ với phút mặc niệm, liệu một phút ngắn ngủi ấy có đủ cho mình nhớ thương và vững lòng với trách nhiệm hay không? Câu hát hùng tráng trong bài Quốc Ca Việt Nam: “Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống”, tôi đã đồng lòng đoàn kết và đã hy sinh được bao nhiêu? Thật là tủi hổ vì câu trả lời của tôi hầu như là zero – dù tôi cũng có một chút lòng thành. Có lẽ tôi sẽ vẫn mãi hoài yếu đuối, ngại khó không làm được gì – dù tôi cũng thiết tha chờ đợi một ngày quê hương vinh sáng.

Người Do Thái sau bao năm lưu đày đã quyết tâm trở về, và họ đã làm được. Không biết tới ngày nào tôi mới có thể bắt đầu trang nhật ký mới bằng câu: Hôm nay chúng tôi vinh quang trở về xây dựng quê hương, vì gông cùm cộng sản không còn – Ngày ấy chắc tôi sẽ cảm động rơi nước mắt. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện và hi vọng. Xin chắp tay dâng một lời kinh tự đáy lòng để tình người được triển nở và đất nước, con người Việt Nam sẽ sớm bước sang chặng đường mới sáng tươi…

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Lễ Tạ Ơn: Chiếc Kính Gãy

Lễ Tạ Ơn: Chiếc Kính Gãy – VVNM 2016 – Việt Báo Online
Tác giả: Phan
Bài số 4972-18-30672-v7111916

Nhân mùa Lễ Tạ Ơn bắt đầu, mời tiếp tục đọc về Tháng Mười Một, bài thứ 3 của Phan. Chiếc Kính Gãy là chuyện trên đất Mỹ. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông cũng là tác giả Viết Về Về Nước Mỹ đầu tiên có bài đạt số lượng trên một triệu người đọc và đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016.
* * *

kinh-gay-gong

Kính gãy (gọng).

Mùa Lễ đã về, lễ Tạ ơn đến gần từng ngày với những sớm mai thức dậy trong hơi thu lành lạnh, những chiều về bát ngát trời thu trên những cánh đồng…Tôi nhớ lắm những người quen kẻ còn người mất, thương đám trẻ trong nhà không còn háo hức đợi quà mà chúng đang tất bật đời sống của những người đã trưởng thành, những người cố nhín chút thời gian đi mua quà cho người thân của chúng khi ngày lễ Tạ ơn đã cận kề.

Tôi còn nhớ lễ Tạ ơn đầu tiên năm tôi đến Mỹ. Tôi nghĩ riêng trong lòng, xứ giàu người ta bày vẽ quá, lễ này lễ nọ để bán thiệp, bán quà… những hình thức thương mại thật đa dạng, phong phú ở xứ tư bản. Nhưng chỉ lễ Tạ ơn năm sau tôi đã nhìn ra, làm thương mại ở xứ giàu dù sao cũng còn nhân đạo hơn làm thương mại ở xứ nghèo là chế tạo ra đồ giả, thuốc tây giả, hàng nhái…bất chấp an toàn thực phẩm và sức khoẻ của người khác.

Những suy nghĩ bước đầu hội nhập ấy tôi nhớ rõ vì đó là những suy nghĩ đầu tiên về lễ Tạ ơn trên mảnh đất dung thân mà mình vừa tới được. Những ý nghĩ cụ thể hơn khi ấy chỉ là một ngày nghỉ được trả lương, và một buổi tối ăn uống với gia đình.

Nhưng hội nhập sâu hơn vào đời sống Mỹ tôi mới hiểu thêm được ý nghĩa của ngày lễ Tạ ơn. Tại sao hàng năm lễ Tạ ơn lại được xem như quốc lễ; tại sao muôn người đều hoan hỷ đón mừng lễ Tạ ơn… Bởi ngoài lịch sử của lễ Tạ ơn đầu tiên trên nước Mỹ đã quá đẹp, và ngày lễ này ngày càng đẹp đẽ hơn với thêm nhiều ý nghĩa về tình người, nhân bản, từ bi… mà tôi đã may mắn được làm người chứng.

Sau lần nước Mỹ bị khủng bố, tôi bị mất việc. Hàng tuần lãnh tiền thất nghiệp đã tới những tuần cuối rồi cũng chưa tìm được việc làm khác vì kinh tế Mỹ lúc ấy tuột dốc nên việc làm ít. Tôi nghe lời người bạn cùng mất việc với tôi, và theo anh ta đi làm công việc dễ nhất trong thành phố là đi giao pizza tận nhà cho khách hàng đặt hàng (order) qua điện thoại.

Ôi, bao nhiêu tự ái, tủi thân cứ nhỏ lệ âm thầm mỗi tối khi ngồi đếm những đổng tiền tip trong ngày có được để sinh tồn. Nhưng cũng bao nhiêu tự ái, tủi thân ấy chấp cánh bay đi vào một lễ Tạ ơn để tôi an nhiên sống, thậm chí thích nghề giao pizza tận nhà từ món quà của thượng đế ban cho.

Hôm đó gần lễ Tạ ơn, trời đổ nước đá bào chứ không phải tuyết, những hạt mưa đá nhỏ tí teo tung tăng trên đường theo gió. Tôi trợt chân trước cửa nhà một khách hàng, không bị thương nhưng gãy mất cái kính.

Bà chủ nhà là một bà cụ Mỹ trắng rất phúc hậu. Bà lo lắng và thương cảm cho tôi đến cảm động. Tôi đã ngồi xuống sofa nhà bà, uống tách trà nóng do bà mời. Tôi đã làm một việc sai trái với nội quy cho người đi giao pizza là không được phép làm như thế, không được bước vào trong cánh cửa nhà của khách hàng. Nhưng trước thịnh tình của người bản xứ thì phải biết xử sự sao cho ra một người Việt Nam?

Tôi quên hết nỗi lo sợ có thể mất việc nếu ông quản lý ở tiệm pizza biết được. Tôi cảm ơn bà cụ đã vỗ về tự ti mặc cảm trong lòng tôi vào một đêm đông. Tôi chỉ cái bảng tên đường gắn trên khung cửa cách biệt phòng khách với nhà sau trong nhà bà. Tôi hỏi: “Bà thích Elvis Presley lắm hả?” Vì tôi thấy trên khung cửa ấy là tấm bảng màu xanh lá cây, chữ trắng, và ghi là “Elvis Presley. Blvd”

Bà cụ như trẻ lại tới thời bà còn con gái, bà huyên thuyên kể về kỷ niệm. Tôi chỉ hiểu được đó là món quà của người bạn trai đầu tiên đã tặng bà khi hai người đi xem buổi ca nhạc của Elvis Presley. Đó là lúc ông cụ đã đói bụng nên mò từ trên lầu xuống, hỏi: “Pizza tới chưa?”

Mọi chuyện cứ diễn ra như theo ý Chúa. Sáng hôm sau tôi đi làm. Nhà tôi nhờ đem trả đồ mà má xấp nhỏ đã mua ở Trung tâm thương mại Collin Creek mà người Việt quen gọi là Collin Creek Mall. Sao tôi lại thấy một khách hàng khác cũng đi trả đồ như tôi. Cô ta trả lại hai cái đồng hồ treo tường be bé, xinh xinh, trên mặt đồng hồ có in hình Elvis mờ mờ, có cả chữ ký của Elvis nữa.

Tôi đợi cô trả xong thì xin mua. Cả hai cái đồng hồ có sáu mươi đô la, vị chi có ba mươi đồng một cái. Tôi cần một cái để thay cái đồng hồ Toyota ở nhà, hồi mua xe người ta cho quà. Nhưng nó đã rơi và vỡ kính. Tôi nghĩ đến bà cụ nên mua hai để tặng bà một. Tôi nghĩ thầm, chắc bà cụ vui lắm vì cái đồng hồ này độc đáo là mỗi giờ Elvis lại hát một câu trong những bản nhạc ngày xưa ông hát. Món quà tặng này biết đâu có thể làm bà cụ mỗi giờ mỗi trẻ lại khi hoài niệm và yêu mến Elvis Presley.

Đâu ngờ ý Chúa đã an bày, tới hôm lễ Tạ ơn năm ấy. Tôi không có cơ hội đi giao pizza đến nhà bà nên đợi hết giờ làm thì lái xe đến nhà bà. Bấm chuông để tặng bà cái đồng hồ. Bà vui đến ứa nước mắt với một người Việt nam vô danh, tôi thì khóc được với một người bản xứ đã tặng tôi cái kính mới vào lễ Tạ ơn năm ấy. Bà nói với tôi, “Cái kính gãy của anh đã rơi khỏi túi áo lạnh của anh nửa cái. Sáng hôm sau tôi thấy trên sofa, nên tôi đi đặt làm cái kính mới cho anh, theo độ của cái kính gãy. Anh thử lại xem có vừa mắt không…?”

Chúng tôi thành bạn vong niên với nhau cho tới lúc bà mất. Tôi thành bạn nhậu của ông nhà sau khi bà mất đến lúc ông phải vô viện dưỡng lão…

Từ đó tôi cảm nhận về ngày lễ Tạ ơn qua lăng kính mới. Nếu cứ nhìn cuộc sống qua bảng giá, cộng thuế ở Mỹ này thì cuộc đời khô xảm lắm! Mỗi người chỉ còn là cái máy in tiền để đi mua và trả thuế. Tôi hiểu thêm ý nghĩa của lễ Tạ ơn là sự cho đi và nhận lại; dù chỉ một câu chúc mừng nhau, món quà mọn, nhưng làm ấm lòng nhau cho cuộc sống thăng hoa tới người người cảm nhận được hạnh phúc quanh mình. Nên tôi hiểu được một người bạn đã trò chuyện với tôi trước lễ Tạ ơn gần đây, cô ấy nói, “Ngày xưa em cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày quy y, em không ăn thịt gà nữa. Cứ lễ giết gà về là em ráng làm những việc tốt, lớn nhỏ gì cũng hồi hướng công đức cho tất cả những con gà sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn…”

Có phải lễ Tạ ơn đã cứu rỗi một người, rồi ý nghĩa ngày lễ thấm sâu thêm vào lòng người để mỗi người hướng thiện theo cách riêng? Để mỗi năm lễ Tạ ơn về, ai cũng ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những bữa ăn miễn phí tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những người không nhà. Ai từng đến với những bữa ăn này, thường sang năm lại đến vì thôi thúc của lòng từ bi đã thức dậy trong tâm khi nhìn những người nghèo đứng xếp hàng trong gió lạnh để nhận một phần ăn từ những người thiệm tâm. Ai có thể đứng ngoài tình người dửng dưng cho được. Phải đứng về một phía, nếu ta không là người cho thì ta sẽ là người nhận. Chẳng ai đứng ngoài xã hội mình đang sống được cả.

Với lễ về năm nay, tôi vừa gãy cái kính do bất cẩn. Ta thán với người bạn xa,“sao tôi xui dữ vầy nè?” Bạn tôi gợi ý, đi tìm cái kính cũ xài đỡ đi, rồi tính sau. Tôi chỉ tìm ra cái kính của bà cụ năm xưa cho, cũng đã gãy… Tôi hỏi tại sao những người cho không cung cấp đủ kính cho tôi dùng – là ý nghĩ trong mùa Tạ ơn này! Nhưng nhờ không có kính nên tôi chẳng nhìn xa được nên nhìn vào lòng mình là khỏi cần kính. Tôi thấy rõ ra mình cứ đứng mãi bên phía người nhận nên bên cho hụt người! Tôi gọi cô bạn đã quy y, “Cho anh đóng góp chút đỉnh vô bữa ăn cho người không nhà mà nhóm con lai của các em tổ chức. Nếu hôm đó anh có thời gian thì anh sẽ góp một bàn tay với anh chị em…”

Một trong những ý nghĩa của lễ Tạ ơn là sự cho và nhận. Ở đâu cũng nhiều người rộng lòng nên ở đâu cũng có rất nhiều người đang cần những tấm lòng nhân ái của mọi người. Nếu Tạ ơn chỉ gói ghém với những người mà ta từng thọ ơn thì danh sách những người ta phải mang ơn, đền ơn sẽ dài hơn trí nhớ chúng ta nhiều bởi không ai tồn tại trên đời mà không từng mang ơn người khác. Chúng ta được sinh ra làm người, đã là một ân sủng của Tạo hoá. Tôi không biết xuất thân của ai, nhưng bản thân thì tôi rõ. Từ đứa bé đủ cơm no áo ấm, mỗi ngày đến trường. Rồi lớn lên trong mù mịt tương lai vì lịch sử sang trang. Rồi vượt thoát đến miền đất hứa, trải qua bao nhiêu hoàn cảnh khi hưng lúc khó… Tôi không thể một mình vượt qua tất cả để tồn tại đến bây giờ mà ơn thọ từ cái kính của người bản xứ đã tặng tôi, làm thay đổi cái nhìn của một người di dân theo hướng thiện tâm và tích cực hơn…

Mùa Tạ ơn về, lễ Tạ ơn cận kề với bao tấp nập ngoài phố thị, trên môi cười trẻ nhỏ, lo toan trong ánh mắt những người lớn còn khó khăn… Tôi đã đủ cơm ăn áo mặc, một việc làm ổn định, một chỗ ở không phải sợ nắng mưa. Tôi Tạ ơn xứ sở này đã cho tôi biết bao nuôi dưỡng và dung thứ để tôi có hiện tại. Tạ ơn quê nhà đã đón nhận tôi từ một sinh linh bé bỏng, cho tôi thật nhiều kỷ niệm tuổi thơ, cả nỗi nhớ thương quê dạt dào trong lòng người viễn xứ khi lễ Tạ ơn về.

Tạ ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục. Tạ ơn thầy cô đã dạy dỗ cho tôi từ vỡ lòng tới khai trí. Tạ ơn anh chị em trong nhà đã chia cay xẻ đắng với nhau khi vận nước đổi thay, cha tù mẹ bệnh… Tạ ơn bạn bè đã lắng nghe và chia sẻ cùng tôi. Tạ ơn em mùa về khơi gợi biết bao nỗi niềm. Tạ ơn cả lời thơ dòng nhạc đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi theo năm tháng…

Tạ ơn đời khoan thứ bao dung…

Thanksgiving 2016

Phan

From: nguyenkimchuc & Anh chi Th ụ  Mai gởi

3 câu chuyện khiến bạn phải xem tới 3 lần và trầm ngâm tới 3 tiếng…

3 câu chuyện khiến bạn phải xem tới 3 lần và trầm ngâm tới 3 tiếng…

Trong việc đối nhân xử thế, chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe, nên cho người khác có cơ hội để giải thích. Có như vậy, mới giúp chúng ta tránh được nhiều điều khiến ta phải hối tiếc sau này.

1. Sự khoan dung.

Câu chuyện kể về một người lính Mỹ, cuối cùng đã được trở về nhà sau trận chiến đấu vô cùng ác liệt ở Việt Nam…
Từ San Francisco, anh gọi điện cho cha mẹ mình: “Ba mẹ ơi, con đã trở về nhà này, nhưng con có một chuyện muốn nhờ ba mẹ. Con có một người bạn, con muốn đưa anh ấy về nhà cùng con”. “Chắc chắn rồi, con trai yêu quý“, cha mẹ anh vui vẻ trả lời: “Ba mẹ rất muốn gặp bạn con”.
“Nhưng có một điều con muốn nói trước với ba mẹ”, chàng trai tiếp tục, “anh bạn con đã bị thương khá nặng trong chiến tranh. Anh ấy đã hơi bị đãng trí và còn bị mất một cánh tay và một chân. Anh ấy không có nơi nào để về, và con muốn anh ấy đến sống với chúng ta…”
“Ồ, ba mẹ xin lỗi con, con trai… Nhưng có lẽ chúng ta có thể giúp anh ấy tìm một nơi nào khác để sống…”
“Không, ba mẹ ơi, con muốn anh ấy tới sống với chúng ta”.
“Con à“, người cha nói, “con có biết con đang yêu cầu cha mẹ điều gì không? Một người tàn tật đến như vậy sẽ là một gánh nặng khủng khiếp cho ba mẹ. Ba mẹ còn có cuộc sống riêng của mình chứ, ba mẹ không thể để một điều như vậy làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng. Ba nghĩ rằng con hãy về nhà đi và quên anh bạn đó của con đi. Anh ấy rồi sẽ tìm được cách lo liệu cho cuộc sống của mình thôi…”
Lúc đó, người con trai gác điện thoại. Cha mẹ anh không còn nghe thấy điều gì từ đầu dây bên kia nữa. Song, một vài ngày sau đó, họ đột nhiên nhận được một cú điện thoại từ đồn cảnh sát San Francisco. Con trai của họ đã qua đời sau khi ngã từ trên một tòa nhà xuống, cảnh sát đã thông báo như vậy cho họ. Cảnh sát San Francisco nhận định rằng đó là một vụ tự sát.

Cha mẹ người lính, trong đau đớn tột cùng, đã vội vã bay tới San Francisco và được đưa tới nhà xác thành phố để nhận diện thi thể của con trai. Họ nhận ra anh, người con trai yêu quý của mình. Nhưng đột nhiên họ khiếp hãi không thốt nên lời khi nhìn thấy một điều mà trước đó họ không hề hay biết, đó là con trai của họ chỉ còn một cánh tay và một chân.
Những giọt nước mắt ân hận rơi xuống, nhưng tất cả đã quá muộn màng.

Cảm ngộ: Đừng bao giờ đối xử phân biệt với người khác, bạn sẽ không biết được người thực sự bị gây tổn thương là ai? Hãy bao dung rộng lượng với mọi người và tự nghiêm khắc với bản thân mình! Nếu mỗi người chúng ta đều có thể dành sự bao dung và nhân ái cho những người lạ như cho chính người thân của mình, thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao.
Bởi vì với sự từ bi, bao dung chúng ta sẽ đủ sức mài mòn bất kỳ hòn đá vô tri vô giác nào để trở thành một viên ngọc lung linh tỏa sáng, đủ sức biến điều khó khăn trở nên dễ dàng, đủ sức biến một người tầm thường hay tàn khuyết thành một vĩ nhân.  Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

2. Sự hiểu lầm:

Tại Alaska có một cặp vợ chồng trẻ mới kết hôn. Đến thời kỳ người vợ sinh nở nhưng do sinh khó nên đã qua đời để lại đứa con.

Người cha vì mải cuộc sống bận rộn, nên con không có ai chăm sóc. Vì vậy người cha đã đào tạo một con chó. Con chó này rất thông minh và biết nghe lời, có thể chăm sóc em bé được. Nó còn mang được bình sữa mang đến cho em bé uống.

Một hôm người cha để con chó ở nhà trông chừng đứa bé, khi ông trở về nhà bỗng thấy khắp miệng con chó toàn là máu, nguyên nhân là vì……
Người đàn ông ra ngoài có việc, để con chó ở nhà trông đứa bé. Khi ông trở về, nhìn thấy khắp sàn nhà toàn là máu, nhưng lại không thấy đứa bé đâu cả. Còn con chó thì vừa liếm máu tươi ở khóe miệng, vừa vẫy vẫy cái đuôi vui vẻ nhìn ông.

Người đàn ông nổi giận, liền rút con dao đâm mạnh vào bụng con chó. Con chó kêu thảm một tiếng, làm cho đứa trẻ đang ngủ say dưới tấm thảm loang lổ vết máu giật mình tỉnh dậy. Lúc này, người đàn ông kia mới phát hiện xác chết của một con cho sói đang nằm bên cạnh góc tường.

Cảm ngộ: Có rất nhiều sự việc mà bạn nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai, nhưng nó chưa chắc đã đúng như những gì bạn nghĩ.
Trong việc đối nhân xử thế, chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe, nên cho người khác có cơ hội để giải thích. Có như vậy, mới giúp chúng ta tránh được nhiều điều khiến ta phải hối tiếc sau này.
Ngược lại nếu chúng ta không hỏi, không nói, không giải thích mà đã vội vã hành động hay phán xét thì đây không phải là thể hiện sự mạnh mẽ, cá tính mà nó chính là sự bất công, không có trách nhiệm với chính mình và những người khác.

3. Sự nóng giận

Một cậu bé có tính xấu rất hay nổi nóng. Một hôm cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh và nói với cậu bé rằng mỗi khi cậu nổi nóng thì hãy chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ.
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần cậu bé đã tập kiềm chế cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào mỗi ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình thì dễ hơn là phải đóng cây đinh lên hàng rào.

Một ngày kia, cậu đã không nổi giận một lần nào suốt cả ngày. Cậu nói với cha và ông bảo cậu hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào mỗi một ngày mà cậu không hề nổi giận với ai dù chỉ một lần.

Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một bữa cậu bé tìm cha mình báo rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu đã cùng cậu đến bên hàng rào. Ở đó ông nói với cậu rằng:

“Con đã làm rất tốt, nhưng hãy nhìn những lỗ đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không thể giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói đó cũng giống như những lỗ đinh này, để lại những vết sẹo trong lòng người khác. Dù sau đó con có nói xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như những vết thương thể xác vậy. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con trong mọi chuyện. Họ nghe con nói khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng mình cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…”

Cảm ngộ: Con người khi cáu giận thường trút giận dữ lên những người thân yêu ở quanh mình, bởi vì họ biết những người thân yêu của chúng ta sẽ luôn bao dung và tha thứ cho chúng ta. Nhưng những lời nói khi tức giận luôn giống như những chiếc đinh làm tổn thương người khác. Có thể bạn chỉ là vag lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Không Qúa Muộn Ðể Nên Thánh

Không Qúa Muộn Ðể Nên Thánh

Người Nhựt Bản có kể một câu chuyện như sau:

Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ.

Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.

Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.

Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:

“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi”.

Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.

Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.

Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.

Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:

“Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?”

Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói:” Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ”. Nét đẹp quí phái nhất nơi lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình ảnh của sự phục thiện mà Thiên Chúa vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.

Nhưng bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được. Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

ty-phu

Sau bao năm miệt mài theo đuổi ước vọng giàu sang nhưng rồi tỷ phú Vương Quân Dao cũng phải đối diện với cái chết khi tuổi đời còn quá trẻ. Những lời ông nói trên giường bệnh khiến nhiều người không khỏi giật mình.

Trong sự nghiệp kinh doanh, tôi đánh trận nào thắng trận đó. Trong con mắt người khác, tôi là một doanh nhân thành đạt điển hình. Nhưng niềm vui tôi có được ngoài công việc cũng không nhiều. Thói quen hưởng thụ vật chất dư thừa của cuộc sống giàu sang khiến cơ thể tôi phát phì.

Giờ đây, khi mắc bệnh phải nằm viện, tôi mới có thời gian suy nghĩ lại cuộc sống trước đây. Bao nhiêu sự đắc ý, bao nhiêu công danh lợi lộc đối với một người sắp chết, chúng không còn sức hút nữa, không có chút ý nghĩa nào nữa.

Trong bóng tối, tôi đã nhiều lần tự hỏi chính mình. Nếu như có thể làm lại cuộc đời, điều tôi muốn làm nhất là gì? Liệu có thể xem nhẹ tiền tài và danh vọng? Có thể làm được vậy không?

Trong bóng đêm, tôi thấy những thiết bị y tế phóng ra những ánh sáng đủ màu sắc và những tiếng gọi của tử thần.

Hiện tại, tôi hiểu được rằng, khi còn sống, con người nên biết đủ tiền tài, dành thời gian nhiều hơn để theo đuổi niềm đam mê khác như tình yêu thương, nghệ thuật, hoặc chỉ để có một thân hình đẹp.

Theo đuổi tiền tài chỉ làm con người tham lam hơn và sống nhạt nhẽo. Biến con người thành những hình hài kỳ quái giống như tôi hiện tại.

Lúc Thượng Đế tạo ra con người với đầy đủ giác quan, là muốn con người cảm thụ vạn vật bằng tất cả con tim, không phải niềm vui mang đến từ tiền bạc.

Tôi đã kiếm được rất nhiều tiền khi còn khỏe mạnh, nhưng khi chết, tôi lại không mang theo được thứ gì. Tình thương yêu không có quan hệ đến vật chất, chúng không phai mờ và mất đi, có được nó mới là thật sự đạt được giàu sang. Tình thương sẽ đi theo, luôn bên cạnh, tiếp thêm động lực và tạo ra ánh sáng soi đường cho mỗi bước đi đúng đắn. Còn tiền bạc sẽ không đi theo con người ta mãi mãi.

Tiền bạc đủ dùng cho chi tiêu sinh hoạt cơ bản, phần còn thừa nên để nó phục vụ lý tưởng, phục vụ tinh thần và phục vụ xã hội.

Tình yêu thương sẽ đưa chúng ta đi xa ngàn dặm. Dù đi bao xa, trèo lên bao cao, nó đều nằm trong trái tim của mỗi người. Ai cũng nắm trong tay tình yêu và thế giới này đều nằm trong đó.

Chiếc giường nào đắt tiền nhất trên thế giới? Đó chính là giường bệnh.

Trên chặng đường đi của đời người, chúng ta có thể có người lái xe thay, có thể giúp kiếm tiền nhưng không có ai mang bệnh hộ chúng ta được. Đồ vật mất đi có thể tìm trở lại, nhưng có một thứ mất đi không bao giờ tìm trở lại được, đó là sinh mệnh.

Vương Quân Dao sinh năm 1966 vì mải mê theo đuổi ước vọng giàu sang để thực hiện giá trị nhân sinh của đời người, anh đã làm việc rất chăm chỉ. Vì mắc phải bệnh ung thư và làm việc quá sức, anh đã từ biệt cõi đời khi mới 38 tuổi.

Bác sỹ đòi rút ống thở của con trai, ông bố trả lời bằng hành động cực sốc:

Câu chuyện của anh khiến tôi nhớ đến lời trăn trối cuối cùng của một vị vua vĩ đại, Alexander. Trước khi chết ông đã để lại 3 điều ước:

“Điều ước đầu tiên, hãy bảo thầy thuốc mang quan tài của ta về một mình.”

“Ước nguyện thứ hai, hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho trên suốt dọc đường đến mộ ta khi các ngươi mang quan tài ra nghĩa địa.”

“Ước muốn cuối cùng, hãy đặt hai bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài.”

Rồi vua Alexander giải thích: “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã nhận ra. Để người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình: bởi một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng phải trân quý cuộc sống của chính mình.

Mong ước thứ hai của ta là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên theo đuổi mộng giàu sang. Ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu sang, nhưng ta đã lãng phí hầu hết thời gian của đời người.

Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng.”

Nói xong những lời này, vua Alexander đã nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.

Công danh lợi lộc chẳng dài lâu, đời người chỉ thoáng qua như mây khói. Vì vậy, hãy tận dụng những năm tháng đời người ngắn ngủi để sống sao cho có ý nghĩa, sống sao cho có ích, đừng để đến khi sắp cận kề cái chết, mới nhận ra ý nghĩa của đời người.

San San

Thiên thần phải bật khóc vì lòng đố kỵ của con người…

Thiên thần phải bật khóc vì lòng đố kỵ của con người…

Có một câu chuyện kể rằng, một ngày nọ có một thiên sứ đến nhà của một đôi vợ chồng ở một nông trang, thiên sứ nói với họ rằng: “Do các con sống hiền lành lương thiện, ta quyết định cho các con 3 điều ước, nhưng có một điều kiện là: Cho dù các con có ước điều gì đi chăng nữa, thì hàng xóm của các con cũng sẽ nhận được gấp đôi”.

thien-than

Người vợ nghe thấy thế vui quá bèn nói: “Hãy cho con một núi thóc, để năm nay chúng con sẽ không phải làm ruộng nữa!”. Sáng ngày hôm sau, quả nhiên trước nhà xuất hiện một ngọn núi bằng thóc, người chồng rất vui mừng, nhưng nghĩ một lát thấy kho thóc nhà mình sẽ không đủ để cất giữ, liền chuẩn bị vào thị trấn mua gỗ về dựng kho thóc lớn hơn.

Người chồng vừa đi đến nửa đường thì gặp người hàng xóm, hỏi ra thì biết rằng người hàng xóm cũng đi mua gỗ về để dựng kho chứa thóc. Người hàng xóm phấn khích nói: “Hôm nay trước cửa nhà tôi đột nhiên xuất hiện 2 ngọn núi bằng thóc, năm nay và cả năm sau tôi sẽ không phải làm ruộng nữa!”. Ông chồng nghe xong lập tức tâm ghen tị liền nổi lên, chỉ mong sao người hàng xóm biến đi cho khuất mắt.

Một tuần sau, thiên sứ lại đến, hai vợ chồng lại ước điều ước thứ 2, họ nói với thiên sứ rằng:“Chúng con không có con, chỉ ước sao có một đứa con xinh xắn đáng yêu”. Mười tháng sau, hai vợ chồng quả nhiên sinh hạ một em bé, đang chuẩn bị đi thông báo cho người thân và bạn bè tin tốt lành này, ai ngờ vẫn chưa kịp bước ra khỏi cửa, người hàng xóm đã mang trứng gà đỏ vào nhà, rất phấn khích nói: “Vợ tôi sinh rồi, quả thật không ngờ được vợ chồng tôi vẫn có thể có con, thậm chí còn sinh đôi nữa”.

Hai vợ chồng nghe thấy thế không vui cho lắm, nhìn trứng gà đỏ hàng xóm mang đến mà nuốt không trôi. Tối hôm đó thiên sứ lại đến, và bảo họ hãy ước điều ước thứ 3, ông chồng phẫn nộ nói: “Tôi yêu cầu chặt đi một cánh tay của tôi!”. Thiên sứ nghe thấy thế rất kinh ngạc, ông chồng lại nói: “Tôi muốn để cho tên hàng xóm dương dương tự đắc kia mất hết cả hai tay, cả đời sẽ không làm gì được nữa.”

Người chồng quỳ xuống đất, đợi cho cánh tay của mình rơi xuống, nhưng mãi không thấy phản ứng gì, liền ngẩng đầu lên, nhìn thấy thiên sứ nước mắt chảy dài, rồi nói: “Yêu cầu của ngươi ta không thể thực hiện nổi, tại vì ta yêu tất cả mọi người trên thế gian này. Ngươi thật là ngốc nghếch, sao ngươi lại muốn hại người khác, và khiến cho bản thân cũng bị đau khổ, đồng thời cũng khiến Thần cảm thấy thương tâm?”

Những người bạn yêu quý, trong hoàn cảnh công tác hay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, có phải chúng ta cũng thường vô ý mà đố kỵ những người “hàng xóm” may mắn hơn chúng ta không?

Đố kỵ cũng như một con dao, bạn tưởng rằng bạn đã đâm nó lên thân của kẻ khác, kỳ thực bạn đã đâm nó vào chính trái tim mình.

Theo Secretchina

Mảnh đạn B.40 và phép nhiệm mầu

Mảnh đạn B.40 và phép nhiệm mầu

Nguyễn Trãi

Tác giả Nguyễn Trãi là SQ pháo đội trưởng pháo binh đóng vùng II CT đã thuật cho chúng ta nghe 2 câu chuyện may mắn của ông trong chiến tranh: lần thoát chết trong nháy mắt xui khiến ông vừa rời 1 hố cá nhân tránh bom nhỏ tức thì nguyên 1 trái đại bác 130 ly “thảy lổ” rơi đúng ngay chóc hố cá nhân ấy. Lần sau ông bị thương nặng vì trúng đạn B,40 cùng bị 3 viên đạn AK bắn xuyên nhưng kỳ diệu lại thoát ra cùng 1 lổ, tại vùng Gò Găng Bình Định, tiếp đến trãi bao gian lao số mệnh như ngàn cân treo sợi tóc nhưng ông không chết và may mắn lần hồi lết về được quê nhà vùng ven thành phố Nha Trang. Chuyện kể trước, ông tạm dừng khi may mắn trở về đến quê nhà, Bầy tui tiếp tục lên mạng cố gắng sưu tầm tác phẩm của ông theo tên tác giả. Câu chuyện tiếp này kể về điều may mắn kỳ diệu này diễn ra mấy chục năm sau cuộc chiến tranh, sự việc xảy ra trên đất Mỹ… Mời các bạn theo dõi tiếp câu chuyện của 1 người có số mệnh được âm đức phù hộ….. .    

Bệnh viện Nha trang chạy loạn không còn Bác Sĩ , Gia dình tôi nhờ một y tá trong làng mỗi ngày đến thay băng rửa vết thương . Ba tôi mua cua biển nấu cháo cho ăn cả chục ngày để vết thương lồi thịt làm đầy vết thương .

Cảnh tượng ở quê tại Nhatrang đêm dêm họp đấu tố y như phim ‘ Chúng Tôi Muốn Sống “ tôi tìm cách vào Sài Gòn bằng một giấy thông hành đi mổ vết thương .

Trong căn nhà của tôi nơi tôi được sinh ra và lớn lên , hàng đêm , cứ vào khoảng bảy tám giờ tôi nghe tiếng quát tháo của ông Chủ Tịch Xã VC mới vừa được lên nắm quyền trong những buổi họp “đấu tố “ làm tôi lien tưởng đến cuốn phim “ Chúng Tôi Muốn Sống “ được coi từ hồi nhỏ .

Tôi nghĩ thầm “ không thể nào sống ở điạ phương này , phải tìm mọi cách để vào Sài Gòn “ vào nhà vợ .

Bàn tay trái nơi có mảnh đạn B40 chưa lành vẫn còn ra máu , tôi đi trình diện Trường Đại Học Phú Thọ để trả nợ 10 ngày “ học tập “ cho xong . Mấy cán bộ VC không cho tôi vô , tôi dại dột năn nỉ để được “ học tập “ Tôi muốn “ trả cho xong nợ quỷ thần “

Ra đến Miền Bắc , chổ mảnh đạn đã lành , nhưng bàn tay không cầm được vật nặng quá hai kí lô , và cả bàn tay mất cảm giác rất nhiều , lúc nào cũng thấy bị tê buốt .

Cán bộ quản Giáo không tin tôi và cho là “ trây lười lao động “, có lần lấy cây kim dài đâm vào lòng bàn tay để xem tôi có bị đau không ..

Năm mảnh đạn B40 khác nhỏ hơn và nằm bên ngoài nhiều hơn , nên chỉ hai hay ba năm sau ngày ra Bắc là nó tự động bị đẩy ra ngoài , ung lên thành mủ , tôi chỉ lấy dao cạo râu rạch nó và lấy ra dễ dàng

Sau bảy năm , tôi được thả ra , ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân Z30 C , tôi chống nạn gổ , một tay cầm chiếc đàn guitar tự đóng ngoài Bắc . hình hài tôi không khác một người đi ăn xin có biết chút ít ca hát kiếm sống .

Tôi về khá bất ngờ cả nhà không biết trước , mọi người trong gia đình vợ tại Sài gòn ôm chầm lấy tôi mà chỉ biết khóc .

Tôi đi Bệnh Viện Chợ Rẫy xin mổ mảnh đạn , mấy bác sĩ đều kết luận “ mổ sẽ bị liệt cánh tay “ ; tôi không dám yêu cầu nữa

Đầu năm 1990 , tôi đi theo diện HO1 , đi qua cổng phi trường ở Mỹ , còi báo động kêu lên , tôi phải ở lại và bị rắc rối vì mảnh đạn trong cánh tay .

Tôi tin tưởng vào nền y khoa tối tân của Mỹ , nên đã nhiều lầu yêu cầu chụp hình và xin giải phẩu mảnh đạn B40 . Tất cả các Bác Sĩ cũng đều cả quyết “ nếu lấy mảnh đạn ra chắc chắn bàn tay sẽ bị liệt “

Tôi chấp nhận cứ để như vậy cho đến khi mình chết đi . Lâu lâu cũng bị đau nhức , bàn tay ấy cũng yếu hơn tay kia và nhất là trời lạnh thì đau nhức hơn .

Có lần phải đi làm MRI về bệnh nhức đầu , vừa bỏ vào máy chừng 10 phút , máy báo động kéo ra cho biết có vật lạ bằng kim loại trong người , đó là một mảnh B 40 nhỏ trên trán và một mảnh lớn trên cánh tay . Họ không dám làm MRI nữa .

Ngày tôi bị thương là 31 tháng 3 năm 1975 . đúng chính xác 37 năm sau cũng ngày ấy chổ mảnh đạn nơi cánh tay sưng lên rất to , đỏ mọng . Tôi đi gặp Bác sĩ gia đình , họ gởi tôi đến một bác sĩ chuyên khoa người Mỹ .

Tôi vào nhà thương mổ chỗ sưng ấy , khi về nhà , ngày hôm sau có y tá người Mỹ đến nhà thay băng . Vết thương được khoét rộng clean hết máu mủ bên trong , vết thương không được may khép kín miệng , họ để trống cho y tá mỗi ngày rút cuộn băng cũ đầy mủ máu ra , và nhét cuộn băng mới vào . Tôi đau đớn thấy bảy tám ông trời . Cứ như thế đến 69 ngày liên tục , vết mổ lành hẵn và đầy đặn thịt lồi lên .

Bác sĩ có cho biết chỉ mổ chỗ sưng mà không lấy đụợc mảnh đạn ( vì nguy hiểm các giây thần kinh , động mạch tỉnh mạch đã bao kín mảnh đạn )

Vết mổ lành sau 69 ngày , khoảng 20 ngày sau đó ngay chỗ mổ sưng lên lại y như lần đầu . Tôi gặp Bác sĩ gia đình , ông ta lại chuyển đến Bác Sĩ mổ kỳ trước . Vừa nhìn thấy chổ sưng , Bác Sĩ này hẹn ngay cho lần mổ thứ hai .

Ông ta nói : sẽ clean thật kỹ bên trong , lần này vết mổ được khâu vá kín mít nên không cần  y tá tới nhà thay băng . Hai tuần lể sau khi mổ lần thứ nhì , đi tái khám , tất cả đều ngon lành và ông ta hẹn hai tuần nữa đến cắt những đường chỉ khâu .

Tôi thấy nhẹ nhõm trong người và yên chí từ nay hết bị hành hạ mặc dù mảnh đạn vẫn còn nằm bên trong .

Ba tuần sau đó chổ vết mổ sưng lên lần thứ ba giống y chang hai lần đầu . Tôi gặp trực tiếp Bác Sĩ mổ trở lại . Ông ta nhìn rồi lắc đầu và nói “ tôi đầu hàng “ Ông bác sĩ này chuyển tôi đến một Bác Sĩ khác chuyên về Nhiễm Trùng .

Đến chỗ chuyên khoa về nhiễm trùng , họ khám nghiệm , nghiên cứu hồ sơ từ chỗ cũ , lấy máu lẫn mủ gởi đến hai phòng Lap khác nhau để xét nghiệm , Tôi còn được đưa đi Chụp hình X quang xác định chổ mảnh đạn , và đi Scan xương gần đó xem có bị ung thư xương mà tạo ra mủ hay không .

Tất cả đều có kết quả mủ và máu không có virus. Cả ba ông bác sĩ ba nơi đều kết luận ba lần khác nhau ‘” nên chấp nhận tình trạng ra mủ như vậy đến suốt đời “.

Tôi chưa chịu thua, bèn đi gặp thầy thuốc Bắc , uống đến  65 thang thuốc Bắc mà vẫn cứ ra mủ dài dài . .

Tôi chấp nhận chổ vết mổ ra mủ suốt đời , mỗi 24 giờ thay băng một lần . Mảnh đạn đã không thể nào lấy ra được thì cũng chấp nhận mang nó đến khi về bên kia thế giới.

Không còn một giải pháp nào để giải quyết tình trạng máu và nhất là mủ ở đâu trong cánh tay cứ ứa ra đúng trọn hai năm liền kể từ ngày mổ đầu tiên.

Đã hai lần mổ, ba ông Bác Sĩ y khoa thứ thiệt của nền Y Khoa Mỹ cũng tuyên bố bó tay và khuyên tôi chấp nhận tình trạng ra mủ như vậy cũng như mảnh đạn cứ để yên đến khi chết .

Thuốc Bắc có đến 65 thang cũng không hề hấn gì . Tôi xoay ra Cầu Nguyện , cầu xin Cha Trương Bửu Diệp giúp con . Đặc biệt Vợ tôi Cầu Nguyện hằng giờ trước bàn thờ có hình Cha Trương Bưu Diệp mà bà rất tin tưởng .

Với một niềm tin rất mạnh trong lòng , Bà vẫn hằng cầu nguyện ngày này qua tháng nọ với Cha Trương Bửu Diệp . Bỗng một bữa tôi thấy chổ mủ chảy ra hằng ngày khô lại và lành , để lộ bên trên một cái mày màu nâu của máu khô có chiều dài khoãng hai centimet . Tôi thử kéo cái mày màu nâu lên . Một cục máu và mủ đã cứng từ lâu có chiều dài cũng chừng hai centimét và to bằng ngón tay giữa .

Cục máu lẫn mủ khô ấy được kéo lên đã để lại cánh tay tôi một lỗ sâu hút . Tôi tiếp tục băng chổ ấy lại và từ từ nhiều ngày sau nữa thịt tự động mọc ra thêm làm bằng mặt cái lỗ trống

Rõ ràng Phép lạ của Cha Trương Bửu Diệp đã cứu tôi thoát ra khỏi tình trạng ra mủ suốt đời , và đặc biệt hơn nữa , mảnh đạn đã cũng đi ra theo với cục máu lẫn mủ cứng ấy .

Tôi quên không xẻ cục máu mủ khô ấy để biết thật rỏ có mảnh đạn trong đó hay không . Tôi xin đi chụp X quang và kết quả bàn tay tôi trở lại bình thường không còn mảnh đạn nữa .

Ngày tôi bị thương là 31/3 /1975 . Đúng 37 năm sau cũng ngày đó nó sưng lên . Trong hai năm liên tục kể từ ngày bị sưng , mảnh đạn di chuyển từ chổ bị bắn len lỏi luồng lách xuyên qua các khe hở của các giây thần kinh , các động mạch và tỉnh mạch để đến chổ mổ , rồi khô cứng lại cùng với máu mủ mà ra ngoài, cũng vào khoảng tháng ba năm 2014 Tổng cộng 39 năm mảnh đạn ở lại trong tôi.

Quả đúng là chỉ có một Phép Lạ mới làm được như thế. Hôm Lể Giổ Cha Trương Bửu Diệp tại một Nhà Thờ gần nhà tôi được tổ chức hôm tháng 3 năm 2014 ; tôi đã xin phép Cha Chủ Tế lên Cung Thánh để kể lại chuyện cái mảnh đạn và phép Lạ của Cha Trương Bửu Diệp đã ban cho tôi với tấm lòng Tạ Ơn Cha.

Câu chuyện hoàn toàn thuộc về tâm linh , và tuỳ vào niềm tin của từng người có hay không . Nhưng đối với tôi là một bằng chứng và là sự thật . Cả gia đình tôi ai cũng tin rằng có phép lạ của Cha Trương Bửu Diệp .

Nguyễn Trãi / Houston

Ngày hôm sau không bao giờ đến.

Ngày hôm sau không bao giờ đến.

  “Ngày hôm sau không bao giờ đến “ Câu chuyện bắt đầu khi tôi 16 tuổi. Trong khi đang chơi bên ngoài trang trại của gia đình ở California, tôi gặp một nguời con trai.

Ðó là một người bình thường như bao người khác, người trêu chọc bạn để rồi bạn đuổi theo và đấm cho anh ta một trận. Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi tiếp tục gặp nhau và trêu chọc lẫn nhau.

Nhưng việc trêu chọc chỉ diễn ra một lúc, rồi chúng tôi thường đứng nói chuyện ở hàng rào. Tôi có thể kể với anh mọi bí mật của mình. Anh chỉ yên lặng lắng nghe và tôi nhận thấy anh thật dễ gần.Ở truờng chúng tôi đều có những mối quan hệ riêng, nhưng khi về nhà chúng tôi thuờng kể cho nhau nghe mọi chuyện. Một hôm tôi kể với anh cái gã, mà tôi thích, đã làm cho trái tim tôi tan nát. Anh an ủi tôi và bảo rồi mọi chuyện sẽ qua. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc, vì có một người bạn thực sự hiểu mình. Có điều gì đó ở anh khiến tôi rất thích, tôi lại cho rằng đây chỉ là cảm giác.

Trong những năm trung học, chúng tôi luôn bên nhau với tình bạn đơn thuần. Vào buổi lễ tốt nghiệp, tuy chúng tôi nhận đuợc bằng vào hai ngày khác nhau, nhưng tôi rất muốn ở cạnh anh.

Tối hôm đó khi mọi nguời đã về hết tôi đến nhà anh, nói rằng tôi rất muốn gặp anh. Ðó quả là một cơ hội lớn, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm, chỉ là ngồi bên cạnh anh ngắm sao trời, và cùng bàn về những dự định của hai đứa. Anh nói anh muốn lấy vợ sớm để ổn định cuộc sống, rằng anh muốn trở thành người giàu có,thành đạt.

Tôi về nhà với nỗi ân hận, vì đã không thổ lộ cho anh biết tình cảm của mình. Tôi muốn ngỏ lời yêu anh, nhưng lại quá nhút nhát và sợ sệt. Tôi để những cơ hội ấy qua đi, và tự nhủ sẽ nói cho anh ấy vào một ngày nào đó.

 Trong những năm học đại học, tôi luôn muốn thổ lộ cùng anh nhưng luôn có nhiều nguời xung quanh anh. Sau khi ra truờng anh tìm việc làm ở New York. Tôi mừng cho anh, nhưng cũng cảm thấy buồn, vì chưa nói được gì với anh. Nhưng làm sao tôi có thể nói ra điều đó được, khi mà anh đang chuẩn bị ra đi.

Tôi giữ kín điều đó cho riêng mình và nhìn anh bước lên máy bay. Tôi đã khóc rất nhiều và cảm thấy rất buồn khi không nói được những điều trong trái tim mình. Sau đó tôi được nhận vào làm thư ký, rồi làm cho một nhà phân tích máy tính. Tôi rất tự hào về những gì mình đạt đuợc. Cho đến một ngày tôi nhận được một bức thư có kèm thiệp mời mừng đám cuới. Ðó là của anh.

 Tôi đến dự đám cuới một tháng sau đó. Ðám cưới thật lớn được tổ chức ở một nhà thờ, và chiêu đãi ở một khách sạn lớn. Tôi gặp cô dâu và cả anh nữa, và tôi nhận ra rằng mình vẫn rất yêu anh. Tôi đã tự kiềm chế, để không làm hỏng ngày vui của anh.

Tôi cố gắng tỏ ra vui vẻ, khi nhìn thấy anh bên cô ấy, để che giấu đi những giọt lệ đang tuôn rơi trong lòng tôi. Tôi rời New York và cho rằng mình đã hành động đúng. Khi tôi lên máy bay, anh đi tiễn và nói rằng, anh rất vui khi gặp lại tôi. Tôi về nhà cố quên đi mọi chuyện đã xảy ra ở New York, vì hiểu rằng mình không thể làm khác. Một năm qua, chúng tôi vẫn trao đổi thư từ cho nhau và kể cho nhau nghe mọi chuyện.

Rồi một thời gian dài, anh không viết thư cho tôi. Tôi bắt đầu lo lắng vì tôi đã viết đến 6 bức thư. Cho đến khi tôi mất hết hy vọng, tôi nhận đuợc lời nhắn: “Hãy gặp anh ở hàng rào nơi chúng ta vẫn trò chuyện truớc đây”.

 Tôi đến và gặp lại anh. Anh nói rằng anh đã vui vẻ trở lại, quên đi mọi chuyện rắc rối từ cuộc ly dị. Tôi càng yêu anh hơn, nhưng vẫn không thể nói ra mối tình ấp ủ bấy lâu. Khi anh quay lại New York, tôi đã khóc rất nhiều. Tôi không muốn nhìn thấy anh ra đi. Anh hứa sẽ đến thăm tôi ngay khi có thể.

Rồi một ngày,  anh không đến thăm tôi như đã hẹn. Tôi đoán rằng có lẽ anh rất bận. Chuỗi ngày chờ đợi kéo dài, cho đến khi tôi đã quên đi điều đó, thì nhận được một cuộc điện thoại, từ luật sư của anh ở New York. Ông ấy cho tôi biết anh đã mất, trong một tai nạn trên đường ra sân bay. Trái tim tôi duờng như vỡ vụn và tôi thực sự bị sốc. Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao anh không đến như đã hẹn. Tôi đã khóc, những giọt nuớc mắt của sự mất mát và đau đớn đến khôn cùng.

Tôi tự hỏi: “Tại sao điều đó lại xảy đến với một người tốt như anh?”. Tôi thu dọn công việc đến New York để nghe đọc di chúc của anh. Mọi thứ đã được chuyển về cho gia đình, và người vợ cũ của anh. Tôi gặp lại cô ấy. Cô kể cho tôi nghe về tình trạng của anh, rằng anh luôn buồn, cho dù cô ấy đã làm mọi cách, cũng không thể nào khiến cho anh hạnh phúc được, như hôm gặp lại tôi ở đám cưới của họ.

Người ta trao lại cho tôi quyển nhật ký của anh. Nó được bắt đầu từ ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Anh viết rằng anh rất yêu tôi, nhưng vì quá nhút nhát, mà không dám nói ra điều đó. Ðó là lý do tại sao anh im lặng, và thích lắng nghe tôi.

Anh luôn yêu tôi kể cả khi đến New York và kết hôn với người khác. Ðối với anh, quãng thời gian hạnh phúc nhất, là khi ở bên tôi, và được nhảy với tôi trong đám cưới. Anh đã tưởng tượng rằng, đó là đám cuới của chúng tôi, và anh đã rất đau khổ, khi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ly hôn.

Anh viết rằng anh rất hạnh phúc, khi nhận được thư của tôi. Và cuốn nhật ký kết với dòng chữ: “Hôm nay, nhất định tôi sẽ nói với cô ấy rằng tôi rất yêu cô ấy”. Ðó chính là ngày, mà anh bỏ tôi ra đi vĩnh viễn – ngày mà tôi sẽ biết được tình yêu, từ sâu thẳm trái tim anh dành cho tôi.

Nếu bạn yêu một người nào đó, đừng đợi đến ngày mai, để nói với họ biết điều đó. Bởi lẽ ngày hôm sau đó, có thể sẽ không bao giờ đến nữa.

Anh chị Thụ & Mai gởi

“Có ai bán ve chai không“.

“Có ai bán ve chai không“.

  Đây là lời bài hát nổi tiếng kể về một câu chuyện có thật ở Đài Loan diễn ra vào những thập niên 1980, bài hát có tên:

“Có ai bán ve chai không“.

Nội dung câu chuyện có thật xúc động lòng người như sau:

Một ông lão chân bị khập khiễng sống bằng nghề thu thập vỏ chai, ông bị câm điếc và phải sống đơn độc một mình, cuộc sống khá khốn khổ.

Một ngày kia ông nhặt được một em bé bị bỏ rơi trên đường phố. Ông đã ngây ngất trong niềm vui và nghĩ rằng đó là một món quà mà thượng đế đã ban cho mình.

Ngay lập tức, ông đã đem đứa trẻ về nuôi, thu lượm những vỏ chai rượu rỗng bán đi để lấy tiền mua sữa. Ngày qua ngày, em bé bị bỏ rơi được ông cưu mang và nuôi nấng như vậy. Đến năm lên 6 tuổi, em bé đã nhặt một con cún con về nuôi và đặt tên nó là Vượng Tài.

Chú chó nhỏ, ông lão câm điếc và cô bé cùng dựa vào nhau để sống. Tuổi thơ của em lớn lên cùng những vỏ chai rượu xếp chồng lên nhau.

Chất giọng bẩm sinh tốt của em đã trở thành máy rao bán cho ông. Cứ mỗi sáng sớm em lại dắt ông lão chống nạng để đi thu lượm, vừa đi em vừa hô lớn: Có ai bán ve chai không? Có ai bán ve chai không?

Sau này khi lớn lên, cô gái bé bỏng hôm nào giờ đã có người yêu là một nhà viết nhạc trữ tình. Nhà soạn nhạc này cũng rất nghèo nhưng rất yêu cô.. Anh đã vì cô mà viết rất nhiều bài hát, cũng đối xử với ông lão hết sức tốt. Mỗi lần đến chơi đều giúp ông lão vận chuyển các chai rượu rỗng, cùng trò chuyện với ông bằng cách vẽ tay, chơi cùng con chó…

Thế rồi một ngày cô trở nên nổi tiếng. Cuộc sống hoàn toàn thay đổi, cô tậu nhà mới, xe hơi và được nhiều người theo đuổi… Cô gái vẫn rất yêu chàng trai và hy vọng anh có thể đến sống cùng với mình trong biệt thự, không phải trở lại ngôi nhà ve chai nữa bởi vì người cha vừa câm vừa điếc khiến cô cảm thấy xấu hổ!

Nhưng chàng trai không muốn, và vẫn cùng ông lão sống tại căn nhà cũ. Sau đó, cô gái ngày càng bận rộn, danh tiếng cũng ngày càng trở nên lớn hơn, cuộc sống của cô càng ngày bị chi phối bởi nhà quản lý. Ông lão ve chai cảm thấy nhớ con gái nên nài nỉ chàng trai đưa đi gặp con gái. Nhưng còn chưa vào được buổi hoà nhạc ông đã bị đuổi ra…

Sau đó cô gái cảm thấy ông khá phiền phức nên đã gửi cho ông một khoản tiền và yêu cầu ông không được làm phiền mình nữa. Ông lão nước mắt rưng rưng, lấy tay lau những giọt lệ tràn ra rồi rời đi mà không cầm lấy một đồng nào của cô!

Chàng trai lúc này đã không thể chịu được, tìm đến cô gái để nói chuyện phải trái nhưng cô không nghe. Cũng bởi giờ đây sự chênh lệch đẳng cấp và suy nghĩ của 2 người quá lớn nên kết cục chỉ có thể chia tay. Về phần ông lão, do quá nhớ thương con gái nên đã lâm bệnh nặng. Chàng trai đã cầu xin cô gái, hy vọng cô có thể trở về thăm ông một lần, nhưng rốt cuộc cô gái vẫn không nghe lời anh!

Đến lúc này, chàng trai chỉ còn cách hỏi thăm nơi diễn của cô gái và nói lại với ông lão. Ông lão cố gắng hết sức cùng chú chó già đến để nhìn mặt cô lần cuối. Nhưng thật không may, khi đi ngang qua đường một chiếc xe tải không biết từ đâu chạy tới chuẩn bị đâm vào ông lão. Đột nhiên con chó già Vượng Tài nhảy tới và đẩy ông lão ra. Nó đã bị chiếc xe tải đâm chết…

Chàng trai sau khi biết chuyện đã quyết định viết cho cô bài hát cuối cùng. Anh đã thức suốt mấy đêm để viết. Nhưng do phải đối mặt với một thời gian dài sống trong khó khăn nghèo đói, cộng thêm gánh nặng tư tưởng. Khi thân thể của anh đã sắp không thể chịu được nữa, anh đã viết bài hát này và nhờ người mang đến đưa cho cô gái.

Chàng trai sau khi viết xong bài hát cũng là lúc rời xa trần thế. Khi trong buổi hoà nhạc cô gái miễn cưỡng mở tờ giấy ra, lời bài hát này có đại ý rằng:

Thật là một giọng nói quen thuộc
Ở bên tôi suốt bao năm mưa gió.
Chưa bao giờ cần phải nhớ
Sẽ không bao giờ quên.
Không có trời, nào có đất
Không có đất, nào có nhà
Không có nhà, nào có bạn
Không có bạn, nào có tôi
Nếu như bạn chưa từng nuôi nấng tôi
Cho tôi một cuộc sống ấm áp
Nếu như bạn chưa từng bảo vệ tôi
Thì số phận tôi sẽ như thế nào !
Chính bạn là người nuôi tôi khôn lớn
Ở bên tôi khi tôi nói lời đầu tiên
Chính bạn đã cho tôi một ngôi nhà
Hãy để tôi và bạn cùng có nó
Mặc dù bạn không thể mở lời
Nói một lời
Nhưng càng hiểu rõ hơn về con người thế nhân này
Đen và trắng, đúng và sai
Mặc dù bạn không thể diễn tả cảm xúc thật của mình
Nhưng đã phải trả giá
Đó cuộc sống nhiệt thành
Từ một phương xa gửi đến bạn
Một giọng nói quen thuộc
Hãy để tôi nhớ đến bạn
Một tâm hồn hoà ái và từ bi
Khi nào
Bạn sẽ quay trở lại bên cạnh tôi
Hãy cùng tôi hát
Có ai bán ve chai không
Có ai bán ve chai không…

Đọc xong lời bài hát, bao nhiêu sự việc quá khứ như vùn vụt trở về: Một đống đầy những chai rỗng, người cha già câm điếc, vì để mua cho cô một túi hạt mà khổ sở vất vả, và con chó yêu quý nô đùa vẫy đuôi bên cô…

Cô gái đã bật khóc, cuối cùng lương tâm đã quay trở lại, những nỗi khổ, lo lắng, bất an…

Cô đã học ngay lời bài hát này. Đến cuối buổi biểu diễn cô đã thông báo với ban nhạc về bái hát cuối cùng này có tên: “Có ai bán ve chai không“.

Cô gái “vong tình” đã cất lời hát, tất cả khán giả đều cảm thấy bị sốc và họ đều rơi nước mắt. Cô gái đã kể về cuộc đời của mình ngay trên sân khấu, sau đó chạy thật nhanh đến bệnh viện, cô muốn gặp lại người cha của mình.

Khi ông lão nhìn thấy con gái, những dòng nước mắt từ trên má lã chã rơi. Ông lão không nói gì, chỉ mỉm cười với con gái và từ từ nhắm mắt lại… Cô gái khóc nấc từng tiếng không ngừng…

Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật. Trong cuộc sống, có thể cha mẹ không cho chúng ta được một môi trường thuận lợi và hoàn cảnh vật chất đầy đủ nhất, nhưng họ đã làm hết sức mình để cho chúng ta được sống và trưởng thành. Họ đã dành cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất, kể từ lúc mới sinh còn bập bẹ, cho đến khi chập chững đi bộ từng bước, và đến khi trưởng thành như bây giờ. Họ đã phải dùng cả cuộc đời và tâm huyết dành cho chúng ta.

Vì vậy hãy luôn yêu thương và kính trọng cha mẹ mình. Bởi vì họ đã nuôi dưỡng chúng ta bằng ân tình mà cả đời chúng ta cũng sẽ không bao giờ trả hết được.

Nguồn: Sưu tầm.

Trương C Nghĩa gởi

Hai câu chuyện thật

“O’ HARE”

O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .

Al Capone,  1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
–  Easy Eddie là luật sư của Al Capone.

Sau đây là 2 câu chuyện thật :

Có rất nhiều Quân nhân Mỹ can trường trong thế chiến thứ Hai.Một trong những anh hùng đó là Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch O’Hare.Trung Tá O’Hare là Phi Công khu trục tùng sự trên Hàng Không Mẫu Hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương.

Chuyện thứ nhất

Một hôm toàn thể phi đoàn của ông được giao phó thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh và gia nhập đội hình bay, liếc nhìn bảng phi cụ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về tầu được. Trung tá O’Hare báo với Phi ĐoànTrưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình của phi đoàn và quay trở lại hàng không mẫu hạm.

Trên đường về tầu, bỗng nhiên, trung tá O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: dưới thấp xa xa trước mặt ông là nguyên một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tìến về hải đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhìệm vụ và hải đội không còn ai bảo vệ cả. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không còn thời gian để báo với hải đội những nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi phá tan và chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.

Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình đoàn oanh tạc cơ Nhật, với bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh đỏ rực, ông tấn công tới tấp bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hải đội Hoa kỳ.

Cuối cùng, đoàn phi cơ Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo lại sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng hùng hồn nhất.Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.

Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ.

Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường của thành phố Chicago , quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare. Dịp nào đó nếu dừng chân tại phi trường O’Hare, xin hãy đi thăm khu kỷ niệm O’Hare, nhìn tận mắt Huân Chương Danh Dự đã gắn lên ngực áo của ông. Khu lưu niệm này nằm giữa Terminal 1 và Terminal 2.

Chuyện thứ hai

Hơn mười lăm năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Easy Eddie. Trong thời gian này, Trùm tội ác Al Capone hầu như làm chủ thành phố. Capone nổi tiếng không do các hành động anh hùng mà vì các việc làm bóc lột, tàn nhẫn và hung ác. Thành phố Chicago , qua Capone, tràn ngập những nơi bán rượu lậu, các động mãi dâm và các vụ giết người không gớm tay.

Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi. Việc rành rẽ và biết lợi dụng các kẽ hở pháp luật của Eddie đã giúp Capole nhởn nhơ ngoài vòng tù tội. Để tỏ lòng biết ơn, Capole trả công Eddie rất hậu. Không chỉ về tiền bạc mà còn chu cấp về tài sản nữa. Chẳng hạn như gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, kín cổng cao tường và thừa mứa các tiện nghi của lúc đó với kẻ hầu người hạ ngay trong nhà. Lâu đài này lớn đến độ chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago . Dĩ nhiên với cuộc sống giầu có quyền thế của kẻ đương thời, làm sao Eddie có thể nhận và hiểu được những khốn cùng của xã hội chung quanh.

Như mọi người, Eddie có một nhược điểm. Có một con trai và Eddie thương con vô cùng. Cậu bé có đủ thứ ở trên cõi đời, toàn những loại thượng hảo hạng: quần áo, xe cộ ngay cả trường học nồi tiếng vì giá cả tiền bạc không thành vấn đề, không gì có thể ngăn cản được. Mặc dù liên hệ chặt chẽ và chìm ngập trong tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dậy con thế nào là phải và trái.

Vâng, Eddie đã cố dậy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽlà người tốt.. Cho dù giầu có và quyền thế xiết bao nhưng vẫn có hai thứ Eddie không thể cho con được, hai thứ mà chính Eddie đã chót bán cho Capone: làm gương và để lại cho con niềm danh dự.

Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định việc để lại danh dự cho con cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa hơn là cho con cuộc sống giầu có với những đồng tiền từ máu và nước mắt của người khác. Phải thay đổi hoàn toàn những việc làm lầm lỡ trước kia, phải báo với chính quyền những sự thật vế Al Capone. Eddie cố gắng rửa sạch những nhơ nhớp trên cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.

Để hoàn tất mọi chuyện, Eddie phải ra trước toà làm nhân chứng chống lại ông Trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Hơn tất cả mọi chuyện trên đời, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gưong và niềm danh dự.

Eddie ra trước toà làm nhân chứng, Trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago . Eddie đã để lại cho con trai một món quà lớn nhất trên thế gian này, mua bằng giá cao nhất là sinh mạng của chính mình.

Hai câu chuyện này có liên hệ gì với nhau ?    Trung tá phi công Hải Quân Butch O’Hare chính là con trai của Easy Eddie. Ước mong qúy vị cũng ngậm ngùi và cảm khái như tôi khi đọc những dòng chữ này.