Thánh Clara (St. Clare of Assisi, 1194-1253)
Thánh Đa Minh
Một ngày bình an và hạnh phúc nhé. Hôm nay 8/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Đa Minh, chúc mừng Bổn Mạng đến các nam nữ tu sĩ, linh mục Dòng Đa Minh và những ai nhận thánh Đa Minh làm quan thầy. Chúc mừng! Chúc mừng!
Cha Vương
Thứ 3: 8/8/2023
Thánh Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ “tuyệt vời và dịu dàng.” Bà cố là Joanna d’Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng.
Dù được cưng chiều, thánh Đa Minh sớm sống đời khổ hạnh. Đến tuổi đi học, Đa Minh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại chủng viện ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đa Minh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước.
Ngài là đấng sáng lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Ordo Praedicatorum”, viết tắt: O.P.) về sau người ta thường gọi là Dòng Đa Minh. Vào năm 1206 thánh nhân lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên tại Prouille, nước Pháp. Ngài chọn đường lối rao giảng Tin Mừng bằng cách lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ “nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa.” Đem Chúa đến cho tha nhân, và nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện, người dẫn đưa tha nhân về với Chúa. Chân phước Jordano ghi rằng: Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những đau cổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài: Chúa ơi! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? Một hôm Thánh Nhân rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách nào, Ngài nói: Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả.
(Nguồn: Hạnh Các Thánh)
Hôm nay mời Bạn hãy bắt chước Thánh Đa Minh, bằng chính đời sống cầu nguyện của mình, “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Máccô 16:15), và qua việc cầu nguyện dẫn đưa tha nhân về với Chúa.
From: Đỗ Dzũng
ĐaMinh Ngọn Đuốc Tin Mừng (Sáng tác: Sr. Clara Chu Linh.OP) – Vũ Phong Vũ
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê (1786-1859), bổn mạng các cha xứ
Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787)
Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên
Thánh Gioankim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria
CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ
- Thánh Mátthêu chịu tử đạo ở Êthiôpia. Người ta đã dùng gươm để giết chết ngài.
2. Thánh Máccô chết ở Alexandria, Ai cập. Người ta đã dùng những con ngựa để kéo bừa ngài qua các đường phố cho đến chết.
3. Thánh Luca bị treo cổ ở Hy Lạp vì ngài đã giảng rất hùng hồn về sự lầm lạc, hư mất.
4. Thánh Gioan chịu tử đạo bởi hình phạt bị thiêu sống trong cái bồn khổng lồ chứa đầy dầu đang sôi, trong cuộc tàn sát ở Rôma.
Tuy nhiên, Ngài đã đựơc cứu sống một cách nhiệm lạ. Rồi ngài bị kết án đi đày trong các hầm mỏ ở nhà tù trên đảo Pátmô.
Thánh Gioan đã viết Sách Khải Huyền tại đảo này. Sau này, Tông đồ Gioan đựơc trả tự do và trở về thi hành sứ vụ giám mục của Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài qua đời trong lúc tuổi già. Ngài là vị tông đồ duy nhất qua đời một cách bình an.
5. Thánh Phê-rô bị đóng đinh quay đầu xuống đất trên thập giá hình chữ X. Theo truyền thống Giáo hội giải thích, bởi vì ngài nói với những người xử tử là ngài cảm thấy không xứng đáng để được đóng đinh giống Đức Giêsu Kitô.
6. Thánh Giacôbê là người lãnh đạo Giáo hội tại Giêrusalem, đã bị ném xuống đất từ nóc đền thờ ở huớng đông nam, cách mặt đất gần cả trăm mét vì ngài đã từ chối từ bỏ đức tin vào Chúa Kitô. Khi người ta phát hiện ngài vẫn chưa chết, những kẻ thù đánh đập ngài cho đến chết bằng gậy của thợ nhuộm vải.
Đỉnh đền thờ này cũng là nơi Satan đã dùng trong cơn Cám dỗ Đức Giêsu.
- Thánh Giacôbê (tiền) là con ông Dêbêđê. Ngài là người làm nghề đánh cá. Khi được Đức Chúa Giêsu kêu gọi, ngài đã theo từ đó để thi hành sứ vụ. Với tư cách là ngừơi lãnh đạo mạnh mẽ của Giáo hội, Giacôbê đã bị chém đầu cuối cùng tại Giêrusalem. Tên lính La Mã canh giữ ngài đã rất ngạc nhiên khi ngài bảo vệ đức tin của mình trước toà án xét xử ngài. Sau đó, lính canh đi bên cạnh ngài đến nơi hành hình. Bỏ qua mọi sự thuyết phục, anh ta đã tuyên xưng niềm tin của mình và quỳ bên cạnh Thánh Giacôbê để chấp nhận bị chém đầu như một Kitô hữu.8
- Thánh Bathôlômêô, cũng đựơc gọi là Nathanael, đã truyền giáo ở Á châu. Ngài sống chứng nhân cho Chúa ở vùng Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Thánh nhân chịu tử vì đạo vì rao giảng Tin Mừng ở Armenia, tại đây ngài đã bị lột da cho đến chết bằng roi da.
- Thánh Anrê bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X ở Patras, Hy Lạp. Sau khi những tên lính đánh ngài bằng roi cách dã man, chúng cột (trói) thân xác ngài vào thập giá bằng những sợi dây thừng cho đến khi ngài hấp hối. Những môn đệ của thánh nhân kể lại rằng, khi ngài đựợc dẫn đến thập giá, ngài đã chào cây thập giá bằng những lời này: “Tôi đã ước ao và mong chờ giờ hạnh phúc này đã từ lâu”. Cây thập giá đã đựơc treo thân xác Đức Kitô và Người đã thánh hiến nó thành cây thánh giá. Thánh nhân tiếp tục giảng đạo cho những tên lính hành hình ngài trong hai ngày cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.
- Thánh Tôma đã bị đâm bằng một cái giáo ở Ấn Độ vào một trong những chuyến đi truyền giáo của ngài để thành lập cộng đoàn Giáo hội tại lục địa nhỏ (subcontinent).
- Thánh Giuđa (Tađêô) bị giết chết bằng những mũi tên khi ngài kiên quyết bảo vệ niềm tin vào Chúa Kitô.
- Thánh Mátthia, được chọn để thay thế chỗ cho tên phản bội Giuđa Iscariot, đã bị ném đá và rồi bị chặt đầu.
- Thánh Phaolô bị hành hạ và rồi bị chặt đầu vào năm 67 dưới thời bạo chúa hoàng đế Nerô ở Rôma. Thánh Phaolô chịu đựng việc tống giam trong thời gian dài. Thời gian này đã giúp ngài viết nhiều lá thư mục vụ cho các giáo đoàn mà ngài đã thiết lập trên khắp đế chế La Mã. Những lá thư này truyền dạy những đạo lý nền tảng của Kitô giáo và chiếm một phần lớn trong Bộ Tân Ước.
Nguồn: Tổng hợp
Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ
Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1)
Hôm nay 22/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1). Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh Nữ làm quan thầy nhé.
Cha Vương
Thứ 7: 22/7/2023
Ngày trước, người ta lẫn lộn giữa Maria Magdalen với ba người phụ nữ được Phúc âm nói đến là:
– Người đàn bà tội lỗi vô danh đã đến đổ thuốc thơm trên chân Chúa và lấy tóc lau (Lc 7,37-50)
– Maria ở Bethania, em của Mattha và Lazarius. Cô cũng đã xức thuốc thơm nơi chân Chúa và lấy tóc lau (Gio 11,1;12,3)
– Maria ở Magdala (Magdala là một làng nhỏ bên bờ hồ Tiberiade) người được Chúa Giêsu đuổi trừ bảy quỷ (Lc 8,2) và đã có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết cùng với Mẹ Maria và Gioan. Cô dự vào việc mai táng Chúa, trở ra mộ Chúa hai hôm sau để xức xác, nhìn thấy ngôi mộ trống. Maria là người đầu tiên nhìn thấy Chúa sống lại và đi báo tin cho các tông đồ. Thì chỉ Maria Magdalen này được ghi trong niên lịch Phụng Vụ sau vụ cải tổ lịch Phụng Vụ Roma mới.
Cũng do sự nhầm lẫn lâu đời giữa ba nhân vật nên Maria Magdalen mới được coi như là quan thầy những phụ nữ hoàn lương, những người bán nước hoa và buôn găng tay.
Cũng do sự nhầm lẫn lâu ấy mà có những tương truyền khác nhau như việc Maria Magdalen đã đến xứ Gaules (có từ thế kỷ thứ XI) người ta kính thánh tích của bà ở Vezelay, trên con đường hành hương đến Compostelle; cũng tại Provence, từ thế kỷ thứ XIII có những cuộc hành hương lôi cuốn nhiều người đến Sainte Marie de la Mere, nơi mà người ta cho rằng Maria Magdalen đã đổ bộ với em là Lazarius cùng nhiều phụ nữ khác, có cả người tớ gái là Sarah, quan thầy của những người phiêu bạt Gitans. Cũng như tại Saint Baume nơi có bọng đá mà người đã ở qua và tại Saint Maximin có phần mộ của người.
Tại Đông Phương, tương truyền rằng Maria Magdalen chết và được chôn ở Êphêsô. Năm 899, hoàng đế Leon VI đã chuyển thánh tích của người hay là được coi như vậy, về một tu viện ở Constantinople. Từ Đông phương, việc sùng kính đến Tây phương từ thế kỷ thứ X.
Vậy chúng ta chỉ biết về những gì Phúc âm nói đến về vị thánh nữ đặc biệt ấy và ngày nay hình như chỉ có Maria Magdalen này mới có tên trong lịch Phụng Vụ mới. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần, hạnh các Thánh)
Đức Giáo hoàng Benedict XVI nói: “Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu”… “Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều này:
– tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết”.
Hôm nay Bạn hãy xin cho được ơn hoán cải nhé. Xin thánh Maria Magdalen, cầu cho chúng con.
From: Đỗ Dzũng
Theo Trang Mạng thánh Thomas Moore, đại học Yale:
Vào năm 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thay đổi tình trạng của Thánh lễ được cử hành để tưởng nhớ Thánh Maria Mađalêna từ Lễ Tưởng niệm thành Lễ Mừng Kính. Điều này có thể không có nhiều ý nghĩa đối với những người không phải là mọt sách phụng vụ, như tôi, nhưng ngoài các ngày Chủ nhật và Lễ trọng, đó là cấp độ quan trọng cao nhất tiếp theo, nâng thánh nữ lên ngang hàng với các Tông đồ. Mary Magdalene đã có một lịch sử rô.
Câu chuyện của Ngài thường bị lầm lẫn với những người phụ nữ khác (có cùng tên) trong Kinh thánh. Sự chuyển hướng này nhìn nhận vai trò đích thực của Thánh Nữ trong lịch sử cứu độ.
Tại sao Mary Magdalene lại quan trọng? Chúng ta có thể không có Cơ đốc giáo nếu không có Ngài. Cô ấy là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-xu là Đấng Ki tô phục sinh và Magdalene đã làm theo chỉ dẫn của Ngài để kể cho các Sứ đồ những gì đã xảy ra. Vì điều này, thánh nữ được tặng danh hiệu Apostolorum Apostola , hay “Sứ đồ của các Tông đồ.”
Ngoại trừ một số ít, chúng ta ít nghe về những người phụ nữ đã đi cùng Chúa Giê-su và tham gia vào thánh vụ của ngài. Ngay cả trong những câu chuyện nổi tiếng nhất, như Feeding of the 5.000, người ta ghi rằng có 5.000 đàn ông có mặt, không kể phụ nữ và trẻ em [1] .
Điều quan trọng cần lưu ý là Mary, Martha và Mary Magdalene được đề cập nhiều lần trong Tin Mừng, cùng với Mary, Mẹ của Chúa Giêsu. Vai trò của họ với tư cách là bạn bè, gia đình và đồng nghiệp được ghi lại bởi các học giả Kinh thánh.
Một số học giả nghĩ rằng những người phụ nữ đi cùng Chúa Giê-su cũng có thể giúp tài trợ cho thánh vụ của Ngài.
Những người phụ nữ thánh thiện này, với lỗi lầm và ân sủng, cũng là một phần di sản của các nữ lãnh đạo trong Giáo hội. Xin cho chúng con, giống như Mẹ Maria Mađalêna và vô số phụ nữ khác trong lịch sử, những người được nhớ hoặc quên tên, tiếp tục loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Kitô.
Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh
Thân chào bình an đến Bạn và gia đình nhé. Hôm nay 15/7, Giáo hội mừng kính Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.
Cha Vương
Thứ 7: 15/7/2023
Thánh Bonaventura sinh tại Bagnorea miền Toscane năm 1221. Ngài trải qua thời niên thiếu tại dòng thánh Phanxicô Khó Khăn thành Assise (1243). Dưới sự hướng dẫn của Alexandre de Hales, ngài theo học văn chương và cũng thâu lượm nhiều kiến thức khoa học. Bảy năm sau, ngài cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Commentaire sur les 4 livres des sentences” và nhiều sách có giá trị khác.
Ngài có lòng dịu hiền tột bậc, lòng khiêm nhường sâu xa và lòng mộ mến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Năm 35 tuổi, ngài được bầu làm Bề Trên của dòng Phanxicô (1257). Với trọng trách nặng nề này, ngài được mọi người biết đến, không những vì học thuyết và sự thánh thiện nhưng còn vì sự thông minh và khôn khéo của ngài nữa. Chính vì vậy, năm 1273, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô X đặt ngài làm Hồng Y coi địa phận Albanô. Ngài đã viết nhiều tác phẩm thần học rất có giá trị và sau cùng ngài chết tại Lyon (1274), hưởng thọ 53 tuổi.
Ðức Giáo Hoàng Sixtô IV nâng ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1482 và Ðức Giáo Hoàng Sixtô V đặt ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1588, vì ngài là cột trụ chống đỡ Giáo Hội, lưu tâm đến vấn đề hiệp nhất Hy Lạp và La Mã, đồng thời duy trì và củng cố dòng Phanxicô được lớn mạnh, vững vàng. (Nguồn: Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt, Vietnamese Missionaries in Asia)
Sau đây là những câu nói của Thánh Bonaventura:
(1) Vinh quang và danh dự chỉ dâng lên Thiên Chúa.
(2) Tất cả của Mẹ là của con và tất cả của con là của Mẹ.
(3) Hỡi linh hồn các tính hữu, anh chị em muốn chứng tỏ tình yêu thật đối với người đã qua đời không? Anh chị em muốn gửi cho họ món quà trợ giúp quý nhất và chìa khoá mở cửa Thiên đàng không? Hãy năng rước lễ cho các linh hồn được an nghỉ.
(4) Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc.
(5) Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới khác tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ khác hoàn hảo hơn Mẹ Thiên Chúa được.
(6) Hạnh phúc cho những ai hiến dâng tâm hồn mình cho Mẹ! Hạnh phúc cho những ai thiết tình phụng sự Mẹ!
(7) Ôi tình thương lạ lùng của Chúa! Muốn một ngày kia khỏi phải tuyên án tống giam chúng con vào ngục tuyệt vọng đời đời, Chúa đã ban Mẹ là Mẹ Chúa, là Chủ tối cao kho tàng ân sủng, làm Trạng sư bầu chữa chúng con.
Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 3 và 4.
From: Đỗ Dzũng
Chúa Yêu Con Nhiều
THÁNH BONAVENTURA – CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI
Thánh Bonaventure được sinh ra vào khoảng năm 1217, ngài đã qua đời vào năm 1274; ngài đã sống ở thế kỷ 13, một thời đại đức tin Kitô giáo, sâu xa thấm nhiễm vào văn hóa và xã hội Âu Châu, đã gợi hứng thực hiện những tác phẩm bất hủ trong lãnh vực về văn chương, nghệ thuật về thị giác, triết lý và thần học. Nổi nang trong số những nhân vật Kitô giáo lớn lao cao cả, thành phần đã góp phần vào việc sáng chế ra mối hòa hợp này giữa đức tin và văn hóa, chính là Thánh Bonaventura, một con người của hoạt động và chiêm niệm, của lòng đạo đức sâu xa và của đức khôn ngoan quản trị.
Ngài được gọi là Gioan thành Fidanza. Một biến cố bất ngờ đã xẩy ra khi ngài còn là một đứa con trai đã sâu xa ghi dấu vết cuộc đời của ngài, như chính ngài thuật lại. Ngài đã bị nhiễm một cơn bệnh trầm trọng, đến nỗi ngay cả cha ngài là một vị bác sĩ cũng không hy vọng cứu được ngài khỏi chết. Mẹ của ngài bấy giờ xin Thánh Phanxicô Assisi là vị được phong thánh trước đó ít lâu chuyển cầu. Và cậu bé Gioan đã được chữa lành. Hình ảnh Người Nghèo Thành Assisi càng trở nên thân thương hơn một năm sau đó, khi ngài ở Paris, nơi ngài đến lo chuyện học vấn của ngài. Ngài đã lấy được văn bằng Cao Học về Nghệ Thuật, một bằng cấp chúng ta có thể so sánh với cấp bằng của một trường có thế giá hạng nhì trong thời đại chúng ta. Vào lúc ấy, như nhiều bạn trẻ trong quá khứ cũng như trong hiện tại, Gioan đã hỏi mình một câu hỏi quan trọng: “Tôi phải làm gì cho đời sống của tôi?” Được thu hút bởi chứng từ về lòng sốt sắng và tính chất sâu xa về Phúc Âm của Dòng Em Hèn Mọn, những thày dòng đã đến Balê vào năm 1219. Gioan đã gõ cửa đan viện Phanxicô của thành phố này, và xin được chấp nhận vào đại gia đình của thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô.
Nhiều năm sau, ngài đã cắt nghĩa cho biết những lý do về việc chọn lựa này của ngài: Ngài đã nhận thấy hoạt động của Chúa Kitô nơi Thánh Phanxicô cũng như nơi phong trào do thánh nhân khởi xướng. Ngài đã viết như thế trong một bức thư ngỏ cùng một thày dòng khác: “Tôi tuyên xưng trước mặt Chúa lý do khiến tôi yêu chuộng hơn đời sống của Chân Phước Phanxicô đó là đời sống này giống như nguồn gốc và sự phát triển của Giáo Hội. Giáo Hội bắt dầu với những con người đánh cá bình dân, và đã trở nên phong phú hơn lập tức với những vị tiến sĩ rất thông giỏi và khôn ngoan; tôn giáo của Chân Phước Phanxicô không được thiết lập bởi sự khôn ngoan của con người, mà là bởi Chúa Kitô” (Epistula de tribus quaestionibus ad magistrum innominatum, in Opere di San Bonaventura. Intoduzione generale, Rome, 1990, p. 29).
Bởi thế, vào khỏang năm 1243, Gioan đã được mặc áo dòng Phanxicô bằng len thô sơ và lấy tên là Bonaventura. Ngài liền được lệnh học hành và lui tới với phân khoa thần học ở Đại Học Paris, theo đuổi một chương trình bao gồm các môn học rất khó. Ngài đã chiếm được các tước hiệu khác nhau cần có theo nghề hàn lâm, những tước hiệu “cử nhân thánh kinh” và “bachelor’s in sentences.” Bởi thế, Thánh Bonaventura đã học hỏi sâu xa về Thánh Kinh, các Câu Nói của Peter Lombard, cuốn cẩm nang về thần học thời bấy giờ, và những tác giả quan trọng nhất về thần học, và trong việc giao tiếp với các vị giáo sư và sinh viên đến Paris từ khắp Âu Châu, ngài đã trưởng thành tâm tưởng của ngài và cảm quan thiêng liêng rất sáng giá là những gì trong giòng thời gian của những năm sau đó, đã cho thấy nơi các tác phẩm và bài giảng của ngài, làm cho ngài trở thành một trong những thần học gia quan trọng nhất của lịch sử Giáo Hội. Cần phải nhắc lại danh xưng của luận án the licentia ubique docendi, như bấy giờ gọi như thế, được ngài biện hộ để có thể hợp lệ giảng dạy khoa thần học. Luận án của ngài mang tên “Những Vấn Đề về Kiến Thức của Chúa Kitô.” Lập luận này cho thấy vai trò chính yếu của Chúa Kitô bao giờ cũng được thấy nơi đời sống và việc giảng dạy của Thánh Bonaventura. Thật vậy, chúng ta có thể nói rằng tất cả tư tưởng của ngài đều sâu xa qui về Chúa Kitô nhân trung.
Trong những năm ở Paris đã xẩy ra một cuộc tranh luận dữ dội chống lại Anh Em Hèn Mọn Dòng Thánh Phanxicô Assisi và Anh Em Thuyết Giảng Dòng Thánh Đaminh Guzmán. Cuộc tranh cãi về quyền giảng dạy của các thày dòng này ở đại học và những ngờ vực thậm chí liên quan tới tính chất chân thực nơi đời sống tận hiến của các vị. Thật sự thì những thay đổi mang lại bởi các Dòng Hành Khất này nơi đường lối hiểu biết đời sống tu trì rất ư là mới mẻ tới độ không phải hết mọi người đều hiểu được họ. Ngoài ra, như đôi khi xẩy ra nơi những con người tu trì thành tín, là những động lực xuất phát từ tình trạng yếu đuối của con người, chẳng hạn như thèm muốn và ghen tương. Thánh Bonaventura, mặc dù bị bủa vây bởi sự chống đối từ thành phần giáo sư đại học, đã bắt đầu giảng dạy với tư cách là khoa trưởng thần học của các thày Dòng Phanxcicô, và để đáp lại những ai đang phê bình chỉ trích các Hội Dòng Hành Khất, ngài đã viết một bản văn tựa đề là “Sự Trọn Lành Phúc Âm.” Trong bản viết này, ngài cho thấy làm thế nào các Dòng Tu Hành Khất, nhất là Dòng Anh Em Hèn Mọn, khi thực hành các lời khấn khó nghèo, thanh tịnh và vâng phục, là theo đuổi các lời khuyên của chính Phúc Âm. Ngoài những trường hợp lịch sử ấy, việc giảng dạy của Thánh Bonaventura nơi tác phẩm này của ngài cũng như trong đời sống của ngài bao giờ cũng là những gì hợp thời: Giáo Hội trở thành rạng ngời và tuyệt vời nhờ lòng trung thành với ơn gọi nơi những con người nam nữ của Giáo Hội là thành phần chẳng những mang ra thực hành các chỉ thị của phúc âm, mà còn là thành phần, nhờ ơn Chúa, được kêu gọi để tuân giữ lời khuyên nữa, nhờ đó làm chứng, qua lối sống nghèo nàn, thanh tịnh và tuân phục của mình, rằng Phúc Âm là nguồn vui và trọn lành.
Cuộc xung khắc này chìm xuống, ít là qua một thời gian, và, nhờ việc can thiệp riêng của Đức Giáo Hoàng Alexander IV, vào năm 1257, Thánh Bonaventura đã được chính thức công nhận là tiến sĩ và là giáo sư của Đại Học Paris. Cho dù là thế, ngài đã từ nhiệm vị thế vinh dự này, vì cùng năm ấy, Đại Công Nghị của dòng ngài đã tuyển bầu ngài làm bề trên tổng quyền.
Ngài đã thi hành công việc này 17 năm trời một cách khôn ngoan và tận tâm, thăm viếng các tỉnh dòng, viết thư cho an hem dòng, có những lúc nghiêm nghị can thiệp vào việc loại trừ những thứ lạm dụng. Khi Thánh Banaventura bắt đầu phục vụ thì Dòng Anh Em Hèn Mọn đã phát triển một cách phi thường: Bấy giờ đã có 30 ngàn tu sĩ trải rộng khắp phía Tây, với sự hiện diện truyền giáo ở Bắc Phi, Trung Đông và cả Bắc Kinh. Cần củng cố việc lan rộng này và nhất là cống hiến cho nó mối hiệp nhất về hoạt động và tinh thần, hoàn toàn trung thành với đặc sủng của Thánh Phanxicô. Thật vậy, trong số thành phần môn đệ của Vị Thánh thành Assisi này có những hình thức khác nhau nơi việc dẫn giải sứ điệp của thánh nhân và thực sự có nguy cơ xẩy ra tình trạng phân ly nội bộ. Để tránh mối nguy hiểm này, vào năm 1260, Đại Công Nghị của nhà dòng ở Narbonne đã chấp nhận và phê chuẩn một bản văn do Thánh Bonaventura soạn thảo, một bản văn thống nhất các qui tắc chi phối đời sống hằng ngày của Anh Em Dòng Hèn Mọn. Tuy nhiên, Thánh Bonaventura đã trực giác thấy rằng những bố trí về pháp lý, mặc dù được tác động một cách khôn ngoan và dung hợp, cũng không đủ để bảo đảm mối hiệp thông về tinh thần và tâm can. Cần phải chia sẻ cùng lý tưởng và cùng động lực sống. Đó là lý do vị bề trên Bonaventura muốn trình bày đặc sủng chân thực của Thánh Phanxicô, đời sống của thánh nhân và giáo huấn của thánh nhân. Bởi vậy ngài đã hết sức nhiệt thành thu góp các văn kiện liên quan đến Con Người Nghèo này và chăm chú lắng nghe những hồi niệm của những ai trực tiếp biết thánh Phanxicô. Từ đó mới có được một tiểu sử, theo lịch sử rất vững vàng, về Vị Thánh Assisi, với nhan đề là Legenda Maior, cũng được viết một cách rất cô đọng xúc tích và bởi thế được gọi là Truyền Thuyết – Legend. Chữ Latinh, ngược lại với Ý ngữ, (và Anh ngữ, legend), không có nghĩa là hoa trái của việc tưởng tượng, trái lại, Legenda nghĩa là một bản văn có thế giá, “được đọc” một cách chính thức. Thật vậy, Đại Công Nghị của Dòng Anh Em Hèn Mọn năm 1263, diễn ra ở Pisa, đã công nhận nơi cuốn tiểu sử do Thánh Bonaventura thực hiện là chân dung trung thực nhất về vị sáng lập và vì thế cuốn này trở nên cuốn tiểu sứ chính thức của vị thánh sáng lập dòng.
Hình ảnh về Thánh Phanxicô ra sao khi được xuất phát từ con tim và ngòi bút của người con và là thừa kế viên Bonaventura của mình? Điểm thiết yếu: Thánh Phanxicô là một Chúa Kitô khác, một con người say mê tìm kiếm Chúa Kitô. Theo tình yêu thúc đẩy việc noi gương bắt chước, thánh nhân hoàn toàn nên giống Người. Thánh Bonaventura vạch ra lý tưởng sống này cho tất cả mọi thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô. Lý tưởng này, có giá trị cho hết mọi Kitô hữu, hôm qua, hôm nay và mãi mãi, cũng được ấn định như là một chương trình cho Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba bởi vị tiền nhiệm của tôi là Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II. Chương trình này, ngài viết trong tông thư “Tertio Millennio Ineunte,” được qui về “Chính Chúa Kitô, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước để sống trong Người sự sống Ba Ngôi, và với Người, biến đổi lịch sử cho tới tầm vóc viên trọn của nó trong Giêrusalem thiên đình” (số 29).
Vào năm 1273, đời sống của Thánh Bonaventura lại xẩy ra một đổi thay. Đức Giáo Hoàng Gregory X muốn tấn phong ngài làm giám mục và tuyển ngài làm hồng y. Vị Giáo Hoàng này cũng yêu cầu ngài sửa soạn cho một biến cố rất quan trọng của giáo hội, đó là Công Đồng Chung Lyon Lần Thứ Hai, một công đồng nhắm mục tiêu tái thiết lập mối hiệp thông giữa Giáo Hội Latinh và Giáo Hội Hy Lạp. Ngài đã dấn thân cho công việc này một cách chuyên cần, thế nhưng ngài đã không thấy được lúc kết thúc của cuộc thượng nghị về đại kết này, vì ngài chết trong khi công đồng đang diễn tiến. Một công chứng viên vô danh của giáo hoàng đã sáng tác một bản tán dương Thánh Bonaventura, một bản tán dương cống hiến cho chúng ta bức chân dung tóm gọn về vị đại thánh này và là một thần học gia tuyệt vời này: “Một con người tốt lành, niềm nở, đạo hạnh và nhân ái, đầy nhân đức, được Thiên Chúa và loài người yêu thương… Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho ngài ân sủng như thế, để tất cả những ai thấy ngài đều được xâm chiếm bởi một thứ tình yêu mà tâm can không thể nào giấu diếm” (cf. J.G. Bougerol, Bonaventura, in A. Vauchez (vv.aa), Storia dei Santi e della santita cristiana. Vol. VI. L’epoca del rinnovamento evangelico, Milan, 1991, p. 91).
Chúng ta hãy tiếp tục di sản của vị thánh này, vị tiến sĩ của Hội Thánh, vị nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của cuộc đời chúng ta bằng những lời này” Trên trái đất… chúng ta có thể chiêm ngưỡng cái vĩ đại bao la thần linh bằng lý luận và ngợi khen; ở quê hương trên trời, trái lại, qua việc hưởng kiến, bấy giờ chúng ta sẽ được làm cho nên như Thiên Chúa, và nhờ được ngất ngây – chúng ta sẽ hoan hưởng niềm vui của Thiên Chúa” (La conoscenza di Cristo, q. 6, conclusione, in Opere di San Bonaventura. Opuscoli Teologici /1, Rome, 1993, p. 187).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 3/3/2010
From: Langthangchieutim