Bí ẩn: một linh mục ‘xuất hiện rồi biến mất’ để xức dầu cho một nạn nhân ở Missouri.

Bí ẩn: một linh mục ‘xuất hiện rồi biến mất’ để xức dầu cho một nạn nhân ở Missouri.

Têrêsa Thu Lan
8/8/2013
LTS: Bản tin dưới đây được nhiều báo chí như New York Daily News và các cơ quan truyền thông ở Hoa Kỳ đăng tải. Vietcatholic xin minh xác chỉ trình bày sự kiện theo báo chí tường thuật, không dám xác quyết đó là phép lạ như các cơ quan truyền thông ở Hoa Kỳ nói.

Phép lạ có thể xảy ra giữa ban ngày không? ít ra đó là kết luận cuả những anh ‘lính cứu hoả’ và hệ thống truyền thông ở Missouri.

Một tai nạn đã xảy ra hôm Chuá Nhật vừa qua vào lúc 9 giờ sáng trên con đường MO-19 gần thị xã Center, tiểu bang Missouri (Bắc St Louis). Chiếc xe Mercedes do cô Katie Lentz lái đã bị một chiếc xe do anh Aaron Smith đang say rượu vượt đường ranh ở giữa và đâm thẳng vào đầu xe. Chiếc Mercedes bẹp dúm lại, lật nghiêng qua một bên, cầm giữ cô Lentz kẹt cứng giữa tay lái và ghế xe.

Đội cứu hoả khẩn cấp đã bỏ ra gần 45 phút để cưa chiếc xe mà giải thoát cho cô Lentz, nhưng các máy cưa cuả họ đều thay phiên nhau gẫy răng vì vỏ cuả chiếc xe chắc quá, nhất là đã co dúm vào nhau cho nên trở thành bền chặt hơn.

Những nhân viên y tá có mặt lúc đó cho biết sức khoẻ cuả cô đang suy xụp nhanh chóng cho nên mọi người quyết định phải lật chiếc xe đứng lên và tiếp tục tìm cách phá chiếc xe ra.

Sau 1 giờ thất bại thì cô Lentz nức nở yêu cầu mọi người đọc kinh cầu nguyện lớn tiếng cho cô. Ngay lúc đó một vị linh mục bỗng dưng xuất hiện.

“Ông ta đến và tới gần bệnh nhân, và xướng kinh”, một nhân viên cứu hoả tên là Reed nói. “Đó là một linh mục Công Giáo có mang theo dầu thánh. Cô Lentz (nạn nhân) có vẻ bình tĩnh trở lại, và cả chúng tôi nữa. Tôi không chắc chắn ông ta đã cầu nguyện như thế nào, nhưng chính tôi và những người bạn cứu hỏa khác, đã nghe rất rõ ràng rằng chúng tôi nên giữ bình tĩnh, và rằng các máy móc của chúng tôi bây giờ sẽ hoạt động tốt và rằng chúng tôi sẽ đem cô ấy ra khỏi chiếc xe đó. “

“Một xe cuả sở Cứu Hỏa Hannibal xuất hiện ngay sau đó với các thiết bị mới và đã có thể giải thoát cô Lentz. Sau đó cô ta được chở đi bằng trực thăng an toàn. Lúc đó chúng tôi, ít nhất là một chục người, quay lại để cảm ơn vị linh mục, nhưng ông ta đã biến mất khỏi tầm nhìn cuả mọi người. Con đường cao tốc đã bị chặn một phần tư dặm (0.8km) trong một giờ rưỡi, không có ai là người lạ ở xung quanh và không có một chiếc xe hơi nào đậu gần đó.”

Gia đình và bạn bè cuả cô Lentz đều ngạc nhiên. “Anh chàng này đến từ đâu vậy?” Anh Travis Wiseman, bạn cuả cô Lentz tự hỏi. “Chúng tôi đang tìm kiếm vị linh mục này và cho đến nay, chưa ai biết ông ta là ai.”

Tờ báo TheBlaze đã liên lạc với nhiều nhà thờ Công Giáo quanh vùng để tìm hiểu thêm. Linh mục Louis Dorn của nhà thờ Thánh Giuse gần đó tỏ ra bối rối giống như mọi người khác.

Cha Dorn nói rằng có ba nhà thờ trong khu vực (Thánh Giuse, Thánh Clement và St Williams), nhưng không có vị linh mục nào phù hợp với lời mô tả về người bí ẩn đó cả.

“Những gì tôi nghe là cha ấy có nước da xám, cao 5’7″ (1m7), nặng dưới 200 pounds (90kg), đeo kính gọng đen, ” Cha Dorn nói thêm rằng nhiều nhân viên cứu hỏa và những người khác cho biết là vị linh mục đó “nói một giọng lơ lớ như người ngoại quốc “.

Cũng vậy, đài KHQA-TV tường thuật rằng một người phụ nữ đã giúp tại hiện trường tên là Wanda Burr-White mô tả thêm rằng ông ta có mái tóc đen và rằng cô ta không chắc chắn về quốc tịch của ngài. Chồng cuả cô, cũng nhìn thấy vị linh mục, nói thêm rằng ngài đeo kính gọng đen và trông giống như tài tử Matthau, nổi tiếng với các vai diễn trong “The Odd Couple” và “Grumpy Old Men”.

Khi được hỏi liệu vị linh mục (hoặc một cá nhân giả dạng là linh mục) đã tạo ra sự lạ lùng cho việc cứu hộ, có thể là một “thiên thần” như một số người tin chăng, Cha Dorn không chắc chắn như thế, nhưng ngài đã chỉ ra một số yếu tố lạ lùng.

“Nếu đó là một linh mục bằng xương bằng thịt, thì có một vài điều làm cho chúng ta bỡ ngỡ,” Cha Dorn nói. “Nếu con đường đã bị chặn lại một phần tư dặm (0.8km) ở cả hai hướng, thì đó sẽ là một chuyến đi dài lắm. Làm thế nào mà ông ta trốn chạy xa như thế mà không có ai nhìn thấy? Đó là một khu vực khá bằng phẳng. ”

Phó tế Dan Joyce, giám đốc thông tin cuả giáo phận Công Giáo của Jefferson County, nói với TheBlaze rằng chưa có linh mục nào nhận mình là người đã giúp đỡ nạn nhân cuả vụ tai nạn Katie Lentz.

“Chúng tôi có nhiều linh mục quốc tế đang phục vụ tại giáo phận, các ngài đến từ những nơi như Nigeria, Philippines và Ấn Độ – và khá đông linh mục ngoại quốc trong vòng bán kính 1.500 dặm,” thầy Joyce cho biết. “Chúng tôi đã quan sát lộ trình để xem có mối quan hệ nào với một số các giáo xứ xung quanh không, và chúng tôi thực sự không tìm ra một linh mục nào trong giáo phận của chúng tôi có thể đi qua đó trong một buổi sáng Chúa Nhật”.

Điều đó không có nghĩa là có một sự siêu nhiên nào đó xảy ra – hoàn toàn có thể là một linh mục nào đó ở một nơi khác đã du lịch qua đây.

“Cảm giác của chúng tôi là rõ ràng có một cái gì đó đã xảy ra. Vì có nhiều nhân chứng, ” Thầy Joyce nói. ” Và có việc cử hành bí tích xức dầu thánh.”

Cho dù đó là một linh mục hay là một thiên thần, thì ngài luôn là một thiên thần cho tất cả những người có mặt và cho gia đình cô Katie Lentz.

“Chúng tôi muốn tìm thấy ngài và có thể cảm ơn “, anh Reed nói. “Là một nhân viên cấp cứu, bạn không biết những gì bạn sẽ gặp. Chúng tôi có rất nhiều máy móc, và chúng tôi được đào tạo chuyên môn cao. Nhưng trong trường hợp này, cảm giác của tôi thì sự việc đã xảy ra tuyệt đối nhờ ở đức tin và kết quả thì đúng là một phép lạ. ”

Cô Kathie Lentz đã được giải phẫu để gắn lại nhiều xương gãy và sẽ còn phải giải phẩu thêm, nhưng gia đình cho biết tinh thần cuả cô rất mạnh mẽ, không hề bị dao động. “Cả hai chân của cô hư hại nặng,” cô Amanda Wiseman, một người bạn, cho biết. “Cổ tay bị hỏng, một số xương sườn bị gãy, vì vậy cô ấy sẽ phải đương đầu với rất nhiều đoạn xương gãy.”

Theo mẹ của cô Katie thì tình trạng của cô đang ở cấp nguy kịch. “Trong đoạn đường gian khổ mà Katie phải trải qua, lời thỉnh cầu quan trọng nhất của cô là xin mọi người cầu nguyện và cầu nguyện lớn tiếng,” bà nói. “Chúng tôi muốn không gì hơn là đưa đến cho cô những lời cầu nguyện ấy.”

BÉ GEMMA DI GIORGI MÙ ĐƯỢC PADRE PIO CHỮA LÀNH

BÉ GEMMA DI GIORGI MÙ
ĐƯỢC PADRE PIO CHỮA LÀNH

Trích Ephata  số 572

Một trong những phép lạ chữa lành lớn lao mà Cha Thánh Pio thực hiện và làm cho giới Y Khoa bàn luận. Đó là sự kiện một em gái mù, không có tròng mắt mà khi cha chữa lành thì bé có thể thấy được. Trong những trường hợp ấy, người được chữa lành sống một cuộc sống hoàn toàn bình thường. Theo như khoa học lượng giá thì họ vẫn còn là những bệnh nhân.

Bệnh nhân ấy tên là Gemma di Giorgi. Bé Gemma di Giorgi được sinh vào ngày Lễ Giáng Sinh năm 1939, tại thành phố Ribera. Ngay sau khi sinh thì mẹ của bé biết ngay rằng đôi mắt của em bé khác hẳn những đôi mắt của các trẻ em khác. Sự thật là bé Gemma bị mù.

Mẹ em đưa con đến một bác sĩ nhưng bác sĩ không thể chữa cho bé lành được. Rồi bé được đưa đến với hai bác sĩ chuyên môn ở vùng Palermo. Họ đều xác nhận là bé không có tròng mắt nên không thể chữa trị được lành. Trường hợp của bé không thể mổ được.

Cha mẹ bé bèn đưa con đến bàn thờ Đức Mẹ Maria ở Nhà Thờ để cầu nguyện cho bé vì chắc chắn là bé cần một phép lạ chữa lành. Một thân nhân là Nữ Tu khuyên gia đình nên đưa bé đến gặp Padre Pio. Đó là một tia hy vọng cho gia đình bé. Bà nội của Gemma xin vị Nữ Tu viết thư cho cha Pio thay cho bé Gemma.

Khi vị Nữ Tu trở lại Tu Viện thì bà viết ngay một lá thư cho Padre Pio để xin ngài cầu nguyện cho bé Gemma. Một đêm kia, vị Nữ Tu thấy ngài trong một giấc mơ. Padre Pio hỏi vị Nữ Tu: “Bé Gemma ở đâu mà có nhiều người cầu nguyện cho bé quá vậy ?”

Trong giấc mơ, vị Nữ Tu giới thiệu bé Gemma với Padre Pio và ngài làm dấu Thánh Giá trên đôi mắt của bé. Ngày hôm sau, bị Nữ Tu nhận được một lá thư của Padre Pio. Ngài viết: “Con thân mến, hãy tin tưởng là cha sẽ cầu nguyện cho bé Gemma. Cha gửi cho con lời chúc lành của cha.”

Vị Nữ Tu kinh ngạc vì thấy có sự trùng hợp giữa giấc mơ và lá thư mà bà vừa nhận được. Bà vội vàng viết thư cho gia đình bé và khuyến khích họ hãy đưa bé Gemma đến gặp gỡ Padre Pio. Thế là bà nội dắt cháu bé đến gặp cha Pio vào năm 1947.

Lúc ấy bé Gemma được 7 tuổi. Khi ấy, hai bà cháu đến vùng San Giovanni Rotondo để gặp Padre Pio xin cầu nguyện và mong mỏi có một phép lạ xẩy ra. Trên chuyến đi từ Sicily đến San Giovanni Rotondo, đôi mắt của Gemma bắt đầu được chữa lành. Khi đi đến nửa đường thì Gemma bắt đầu thấy biển và tầu bè. Bé kể lại những gì mà bé thấy cho bà nội nghe.

Bà nội bé và những người bạn đồng hành đều ngạc nhiên và bắt đầu cầu nguyện. Lúc ấy, chuyến đi từ Sicily đến Nhà Dòng rất là lâu và khó khăn. Trong lúc bà nội bé Gemma nhận ra phép lạ xẩy đến thì bà vẫn còn ý tưởng phải đến gặp Padre Pio để xin ngài cầu bầu cho.

Tại San Giovanni Rotondo, Padre Pio gọi bé Gemma bằng tên trước khi đứa bé đến gặp ngài. Ngài giải tội cho bé và dù cho bé không nói gì đến sự mù lòa của mình nhưng ngài đụng chạm đôi mắt của bé với đôi tay mang dấu thương thánh của ngài. Ngài làm dấu Thánh Giá trên mắt của bé. Vào cuối buổi xưng tội của bé, cha chúc lành cho bé và nói: “Con hãy trở nên tốt lành và thánh thiện.”

Bà nội bé bực bội vì bé Gemma quên không xin cha Padre Pio ban ơn chữa lành cho lúc bé xưng tội. Thế là bé Gemma bực và bắt đầu khóc. Bà nội bé đến xưng tội với cha và nói với cha như sau: “Con xin ơn lành cho cháu bé Gemma và bé Gemma đang khóc bởi vì bé đã quên không xin cha ban ơn chữa lành cho bé”. Sau đó bà kể lại: “Tôi không thể quên được giọng nói dịu dàng của cha khi cha hỏi: “Này con, con có Đức Tin không ? Đứa trẻ không cần phải khóc mà con cũng không cần khóc, vì con có biết là nó đã được nhìn thấy rồi không ?”

Rồi Padre Pio kể về biển và chiếc tầu mà Gemma đã nhìn thấy khi còn đi trên cuộc hành trình. Chúa đã dùng cha Pio để lấy đi bóng tối đang che mắt bé Gemma. Trong cùng một ngày hôm ấy, Padre Pio cho bé Gemma rước lễ lần đầu và ngài lại làm dấu Thánh Giá trên đôi mắt của bé.

Khi bé Gemma trở về Sicily thì gia đình đưa bé đi bác sĩ chuyên môn để khám mắt. Bác sĩ thử nghiệm cho Gemma, và bé đã nhìn thấy mọi sự trước mắt mình. Bé có thể đếm những ngón tay của bác sĩ từ phía xa. Mặc dù bé Gemma không có tròng mắt nhưng bé có thể nhìn thấy mọi sự. Bác sĩ tuyên bố rằng lẽ ra mắt Gemma không bao giờ có thể nhìn được. Giới Y khoa không thể giải thích được. Sau đó có rất nhiều bác sĩ muốn khám mắt cho Gemma.

Đó là một phép lạ chữa lành làm cho báo chí nước Ý xôn xao trong mùa hè năm 1947. Mắt của Gemma ngày một tốt nên bé có thể đi học và học đọc, học viết. Bé có thể sống một cuộc sống bình thường. Bà Clarice Bruno, tác giả cuốn sách: “Roads to Padre Pio” tạm dịch là Những Con Đường đến với Padre Pio, đã gặp gỡ Gemma vào tháng 5 năm 1967. Bà Clarice nói rằng dù cho đôi mắt của Gemma không giống như những đôi mắt khác nhưng cô ấy vẫn nhìn thấy mọi sự.

Bà Clarice nói với Gemma rằng bà đang muốn viết một cuốn sách về Padre Pio và muốn đăng cảm nghiệm về phép lạ mà Gemma nhận được. Gemma xin phép cha Padre Pio và ngài cho phép. Vì thời tiết nóng và có gió nhiều nên Gemma đeo kính mát. Cha Pio đưa bàn tay qua lại trên mắt cô và nói: “Tại sao con phải đeo kiếng ? Con nhìn thấy mọi sự mà !”

Cha John Schug, tác giả của cuốn “A Padre Pio Profile” tạm dịch là Tiểu Sử của Padre Pio đã gặp Gemma và phỏng vấn cô. Ông chia sẻ: “Cô ấy giống như một người mù. Đôi mắt không có tròng thế mà cô ấy nhìn thấy được. Tôi thấy cô ấy vói tay lấy cuốn sổ điện thoại, lấy một số điện thoại và gọi cho số ấy. Các bác sĩ không thể giải thích trường hợp bệnh tình của Gemma di Giorgi.”

Điều kết luận là: trong khi Gemma và bà nội đến San Giovanni Rotondo để xin ơn chữa lành thì ơn lành đã đến với họ qua lời cầu bầu của Padre Pio trước khi mà họ đến được vùng ấy. Thiên Chúa trong sự huyền diệu của Ngài, muốn điều này xẩy ra. Từ đó, cô Gemma đã đi khắp thế giới để kể về cảm nghiệm chữa lành của cô.

KIM HÀ, theo Spiritdaily.net

NÔNG TRẠI KOINONIA

NÔNG TRẠI KOINONIA

Br. Huynhquảng

Clarence Jordan (1912 – 1969) có hai bằng tiến sĩ, một về nông nghiệp và một về Kinh Thánh. Ông là người có nhiều tài năng và kiến thức sâu rộng, ông có thể kiếm tiền và tìm một địa vị trong xã hội một cách dễ dàng, tuy nhiên ông đã chọn phục vụ người nghèo.

Vào thập niên 1940, Clarence Jordan thành lập nông trại Koinonia tại Americus, Georgia. Trong nông trại này, nhiều nông dân da trắng lẫn da màu đều được tạo công ăn việc làm và đều được ông phục vụ như nhau. Vì ý tưởng này, dĩ nhiên vào thời điểm ấy, ông bị chống đối kịt liệt, đặc biệt từ những người cùng niềm tin tôn giáo với ông. Trong vòng 14 năm, rất nhiều người dân trong thành phố đã cố gắng ngăn chặn kế hoạch của ông, kể cả loại trừ ông và quấy rầy những người nghèo thuộc nông trại Koinonia. Cuối cùng vào năm 1954, quá mệt mõi vời Clarence Jordan, Ku Klux Klan (KKK) – một tổ chức phân biệt người gia màu và chống chính sách nhập cư tại Mỹ, đã quyết định loại bỏ ông Jordan. Vào một đêm tối, với vũ khí và đuốc, KKK đã đốt tất cả các căn nhà trong nông trại Koinonia và đuổi tất cả dân làng đi hết, chỉ trừ căn nhà của ông Clarence Jordan. Trong hoãng loạn đêm đen, ông Clarence cũng đã  nhận ra những giọng nói quen thuộc, trong đó có một số người cùng thuộc cộng đoàn tôn giáo với ông.

Sáng hôm sau, các phóng viên đến hiện trường để tìm hiểu sự việc. Họ gặp ông Clarence Jordan đang cuốc đất và trồng lại những cây cối đã bị tàn phá tối hôm qua. Các nhà báo hỏi chuyện, “Tôi nghe một thảm cảnh xảy đến với nông trại của ông, chuyện đầu đuôi ra sao?” Ông Clarence vẫn tiếp tục cuốc đất và trồng cây trong thinh lặng. Các nhà báo vẩn cố tìm cách lôi kéo ông Clarence vào cuộc với giọng dễu cợt, “Tiến sĩ Jordan, ông có hai bằng tiến sĩ và ông đã phí 14 năm trên nông trại này. Bây giờ không còn gì nữa. Ông nghĩ là ông đã thành công hay sao?” Ông Clarence ngừng lại, nhìn những nhà báo với giọng cương quyết ông đáp: “Thưa các ông, thành công như thập giá vậy! Tôi không nghĩ là các ông hiểu chúng tôi. Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì trung tín. Chúng tôi sẽ tiếp tục ở đây!” Từ ngày ấy trở đi, ông Clarence và những cộng sự của ông đã xây dựng lại nông trại Koinonia và nó vẫn phát triển cho đến ngày nay.[1]

* * *

“Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì sự trung tín.” Một lời khẳng định chắc chắn nhắm tới cho một mục đích rõ ràng: Trung tín với lý tưởng của mình. Đó có thể là thách đố cho những ai dấn thân đời mình cho lý tưởng phục vụ con người và xã hội.

Thông thường khi ta dấn thân cho một lý tưởng phục vụ, ta được thúc đẩy từ những hoàn cảnh thực tế – có thể ta là nạn nhân, hoặc có thể ta cảm nhận được lý tưởng dấn thân của ta có giá trị cho con người. Chính vì lẽ đó, thời gian đầu luôn làm cho ta phấn khởi bởi những thành quả mà ta đạt được; hay ít ra ta cũng thấy ý nghĩa của những hy sinh của ta. Nhưng theo thời gian năm tháng, những nỗ lực hay thành quả của ta – dù nó vẫn có đó, nhưng không còn mới mẽ như xưa, nên đôi khi ta cũng không nhận ra được thành quả nữa. Chỉ tiếc rằng, ta ít khi nhận ra điều này. Đáng buồn hơn, khi ta không “tạo” thêm thành quả mới thì ta dễ rơi vào suy  nghĩ tiêu cực là ta “vô dụng.”  Thực tế, căn nhà đã xây xong là một thành quả, dù sau 20 năm nó cũng là một thành quả. Không phải suy nghĩ như thế để an ủi chính mình, nhưng đó là thực tế thành quả của chính ta, của công sức của ta, của nỗ lực của ta. Căn nhà tôi xây dù có cũ đi, không có nghĩa rằng nó không phải là thành quả của tôi!

Lý tưởng phục vụ con người cũng như thế. Năm tháng và giới hạn về thể lý, hoàn cảnh của con người sẽ ảnh hưởng đến lý tưởng và sáng kiến phục vụ của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là mình vô dụng. Điều quan trọng là sự trung tín với lý tưởng bao lâu có thể. Hoàn cảnh và thể lý có thể không cho phép ta thực hiện những hoài bão như dự tính, nhưng sự trung tín với lý tưởng đã là một nỗ lực thành công rất lớn rồi. Hơn ai hết, Mẹ Têrêsa Calcutta đã thấm thía thế nào là thành công khi xung quanh mẹ vẫn là những người bất hạnh không được chăm sóc đầy đủ. Tiếng kêu của Mẹ vẫn không được những người quyền thế và giàu sang hưởng ứng. Sự dấn thân của mẹ vẫn bị nhiều người phê bình lên án. Vâng, giữa những sự không thành công ấy, Mẹ vẫn khẳng định: “Tôi không được Chúa gọi vì sự thành công, nhưng vì sự trung tín.”[2]

Thưa bạn, khi chân bạn mõi, gối bạn chùn, mắt mờ, và trí óc tăm tối, bạn chỉ hướng đến một điểm thôi, để có thể nói rằng: Tôi được gọi không vì thành công, nhưng vì sự trung tín.

Br. Huynhquảng

Lời Chứng Của Ngọc Quyên, Một Người Bạn Trẻ Ngoại Đạo

Lời Chứng Của Ngọc Quyên, Một Người Bạn Trẻ Ngoại Đạo

Ngọc Quyên là người không có đạo, nhưng thứ Bảy tuần nào cũng đến nhà thờ để sinh hoạt trong phong trào Thiếu Nhì Thánh Thể. Một hôm, Ngọc Quyên được bạn bè dẫn vào tham dự khóa Canh Tân Đặc Sủng mới được tổ chức trong cộng đoàn và ơn Chúa đã thấm nhập vào từ từ trong Ngọc Quyên. Khi vào sinh hoạt và cầu nguyện, Ngọc Quyên thấy người ta làm gì thì mình cũng cứ làm theo như vậy, nhưng không ngờ Chúa không có chê Ngọc Quyên là người ngoại đạo mà Ngài đã đến đụng chạm tới trái tim của Ngọc Quyên. Có lúc, tự nhiên Ngọc Quyên đang cầu nguyện với mọi người rồi tự động òa lên khóc. Lúc đó Ngọc Quyên đâu có muốn khóc đâu, nhưng không biết tại sao mình lại khóc hoài mà không nín được. Có lẽ một phần được Chúa đụng chạm mạnh, một phần cảm nhận được tình Chúa dạt dào.

Từ ngày đó, Ngọc Quyên mới biết là Chúa tồn tại thật sự trong cuộc sống chứ không có ở đâu xa cả. Đến tối hôm thứ Bảy lúc lên được đặt tay đón nhận Chúa Thánh Thần, Ngọc Quyên nhận thấy vào đêm đó hầu như mọi người đều được nghỉ ngơi trong Chúa Thánh Thần. Cha linh hướng cũng không ngoại lệ nghĩa là cha cũng được nghỉ ngơi trong Chúa Thánh Thần, nhưng không biết tại sao lúc nhìn thấy Cha nằm trên thềm nhà và mọi người thì đứng chung quanh để cầu nguyện cho cha, thì ngay lúc đó Ngọc Quyên liền khóc và trong đầu cứ nghĩ không biết cha có bị chết không nữa. Rồi khoảng một ít phút thì cha ngồi dậy bình an, tự nhiên trong lòng Ngọc Quyên cảm thấy thật là vui. Nhìn thấy cha như thế, Ngọc Quyên muốn chạy lại ôm lấy cha, nhưng lại không dám. Càng nghĩ tới chuyện đó, Ngọc Quyên càng không hiểu được, tại vì lúc trước nhiều lần gặp cha ở nhà thờ Ngọc Quyên thấy sờ sợ và càng không dám đến nói chuyện với cha. Vậy mà không biết từ khi nào mình lại mến cha đến như vậy.

Từ sau khóa Thánh Linh, Ngọc Quyên bắt đầu đọc kinh ở nhà, tập trò chuyện với Chúa và còn rất thích đi lễ nữa. Làm như lúc trước không đi lễ cho nên bây giờ đi bù mới chịu thôi. Chúa thật là huyền diệu quá! Ngày qua ngày, Chúa đã không ngừng đụng chạm tới trái tim của Ngọc Quyên và một ngày gần đây khi cầu nguyện ở trên Cung Thánh, Chúa đã thanh tẩy tâm hồn cho Ngọc Quyên. Cảm giác đó thật là ấm áp lắm.

Cảm tạ Chúa! Tình yêu Chúa thật là bao la quá! Con mong sao có thể được rửa tội ngay lập tức, để có thể chính thức là con cái của Người.

Lạy Chúa tin tưởng nơi Ngài. Mỗi ngày con ước mong biết bao được ở trong vòng tay yêu dấu của Chúa. Con xin Chúa hãy làm cho đức tin của con mỗi ngày một lớn hơn, mãi mãi luôn yêu mến Chúa là Chúa của con mà thôi.

Ngọc Quyên – 9/2003

Sau lũ lụt, phép lạ thứ 69 tại Lộ Đức vừa được công nhận

Sau lũ lụt, phép lạ thư 69 tại Lộ Đức vừa được công nhận

22-07-2013

VietCatholic News – Paris 21/07 – Ngày 19/07/2013, ông Joël Luzenko, thành viện văn phòng truyền thông đền thánh Lộ Đức, Pháp vừa cho báo chí biết: Ngày 20/06/2013, Đức Cha Gioavanni Giudici, giáo mục Giáo phận Pavie (Lombardie, Ý) đã chính thức công nhận phép lạ thứ 69 tại linh địa Lộ Đức.

Bà Danila Castelli sinh ngày 16/01/1946 bị bệnh biến chứng tăng huyết áp. Từ năm 1982, các hình chụp siêu âm cho thấy bà bị khối u tạo ra hóc môn catécholamine trong niệu sinh dục. Bà đã chịu nhiều phẫu thuật nhưng không đều có kết quả.

Bác sĩ Alessandro de Franciscis, chủ tịch văn phòng Y chứng cho biết mỗi ngày bà Castelli chịu nhiều đợt kịch phát lên đến 28/15. Tháng 5/1989, nhân chuyến hành hương tại Lộ Đức, bà tắm nước suối Lộ Đức và được khỏi bệnh. Hiện nay, bà đã hoạt động bình thường.

Từ 1989 đến 2010, Văn phòng Y chứng họp 5 phiên khoáng đại, đi đến kết luận là bà Caselli hoàn toàn bình phục nhờ hành hương Lộ Đức vào năm 1989. Hội chứng bình phục của bà hoàn toàn không có liên hệ gì đến trị liệu y khoa. Phép lạ này không thể giải thích được về mặt y học.

Sau đó, Văn phòng Y chứng đã chuyển toàn bộ hồ sơ cho Ủy ban Y khoa Quốc tế Lộ Đức. Ủy ban gồm 20 bác sĩ y khoa. Sau khi xem xét hồ sơ, Ủy ban đã kết luận là các kỹ thuật y khoa hiện nay không giải thích được việc bình phục này.

Sau cùng, giám mục Pavie, giáo phận nơi bà Danila Castelle cư trú tại Bereguardo đã công bố phép lạ kỳ diệu mà việc lành bệnh là một dấu chỉ.

Từ năm 1858, có hơn 7 ngàn người được hoàn hoàn bình phục mà không giải thích được nhờ đến cầu xin tại hang đá Massabielle (Lộ Đức). Tháng 10/2012, nữ tu Luigina Traverso người Ý cũng đã được lành chứng đau cột sống.

Lê Đình Thông

CÔNG HIỆU CỦA NƯỚC THÁNH

CÔNG HIU CA NƯỚC THÁNH

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyt

Cách đây gn 450 năm – tháng 6 năm 1562 – thánh n Têrêxa Đc Chúa GIÊSU, hay còn gi là Têrêxa thành Avila (1515-1582), hoàn tt cun ”T Thut”, viết theo lnh Cha Gii Ti. Nơi chương 31, thánh n đc bit nói v công hiu ca Nước Thánh – Nước Phép – đi vi ma qu, trong kinh nghim chính cuc đi thánh n.
+++
M
t ngày, khi tôi nhà nguyn, tên qu hin ra đng bên trái dưới hình dng trông tht ghê tm. Đc bit khi nhìn cái ming hn nói, thì ôi thôi, trông tht kinh khiếp. Người ta có cm tưởng mt ngn la ln phát ra t thân th cháy rc ca hn. Bng mt ging nghe tht hãi hùng, hn nói vi tôi rng tôi được cu khi tay hn, nhưng ri thế nào hn cũng bt tôi tr li.

Tôi s hãi vô cùng, lin giơ tay làm du Thánh Giá. Tên qu biến mt, nhưng tr li ngay sau đó. Hn biến đi ri tr li, đến hai ln như thế. Thú tht tôi không biết phi làm thế nào đ đui tên qu đi. Trong nhà nguyn có Nước Thánh, tôi lin ly Nước Thánh và ry vào ch tên qu đng. Ln này thì hn biến đi và không tr li na!
M
t ln khác, trong vòng 5 tiếng đng h liên tc, ma qu hành h tôi bng đ mi cách: đau đn th xác và bn lon tâm hn. Cơn hành h mnh đến ni tôi tưởng mình không th chu đng lâu hơn. Các n tu hin din, cũng kinh hãi và không biết phi làm gì. Phn tôi, tôi không biết phi làm thế nào đ chng c vi ma qu.

Thường thì khi nào b đau đn th xác quá đ, tôi vn c gng cu nguyn, van xin THIÊN CHÚA ban cho tôi s nhn nhc, và nếu là Thánh Ý Chúa, thì Chúa có th đ cho tôi chu đau kh như thế đến tn thế. Nhưng ln này, cơn đau đn mnh đến ni làm tê lit c nhng ý hướng tt lành.

May mn thay, Chúa t cho tôi biết: cơn hành h này do ma qu gây ra, bi vì ngay lúc đó, tôi thy mt đa bé da đen trông tht ghê tm đng bên cnh tôi. Thng nh lm-bm gin d như tuyt vng, b đánh mt vt mà nó tưởng đã nm chc.

Khi trông thy thng nh đen đi xu xí, tôi bng bt cười và không còn s hãi gì. Tuy thế, ma qu vn tiếp tc hành h thân xác tôi bng nhng cú đm đá d dn. Tôi không dám xin các n tu có mt mang Nước Thánh đến vì s các ch không hiu lý do, ri đâm ra hoang mang vô ích.

Tôi có kinh nghim là ch nguyên Nước Thánh thôi, đ đ đui ma qu chy trn và không bao gi dám tr li. Ma qu cũng s Thánh Giá và trn mt, nhưng tr li sau đó.
Công hi
u ca Nước Thánh qu tht ln lao!

Phn tôi, nim an i mà tâm hn cm nhn mi khi tôi dùng Nước Thánh thì tht là đc bit và đáng k. Tôi không biết din t thế nào, nhưng mà, mi khi tôi s dng Nước Thánh, thì y như là tôi được gii khát, được cm thy ngt ngào và an i trong tâm hn. Điu này không phi do trí tưởng tượng bày v ra, vì công hiu này không phi ch xy ra mt ln, nhưng xy ra thường xuyên, khiến tôi phi đc bit chú ý. Ging như th mt người b nóng nc, b khát nước mà được ung mt ly nước tht mát, thì cm thy mình đ khát vy.

Đi vi tôi, tôi nhn thy:
Tt c nhng gì Hi Thánh truyn dy thì tht là ln lao. Tht là thích thú khi thy rng li Linh Mc đc khi làm phép nước, qu đã đem li sc mnh ln lao, vì có mt s khác bit vô cùng rng ln gia Nước được làm phép và nước không được làm phép!

Do đó, vì thy các cơn đau đn vn không gim bt chút nào, tôi lin xin các n tu có mt mang Nước Thánh đến cho tôi. Các ch đi ly và ry trên người tôi, nhưng vn không có kết qu.

Thy thế, tôi lin ly Nước Thánh và ry chính nơi tên qu đng, tc khc tên qu chy trn ngay và mi ni đau đn cũng biến mt.

Tôi rút ra kết lun như thế này: Du mt linh hn và mt thân xác không thuc v ma qu, nhưng ma qu vn xin được phép ca Chúa đ làm kh chúng ta.

Vy nếu chúng ta không thuc v chúng, mà chúng hành h chúng ta như thế, thì th hi, khi chúng ta lt vào tay chúng, chúng s hành h chúng ta đến mc đ nào na? Ý tưởng này khiến tôi nht quyết không bao gi đ mình rơi vào vòng tay ca mt tên hèn-h, bn-tin, bn-thu và đáng kinh-tm là ma qu!!!
… By gi Đc Chúa GIÊSU được Thn Khí dn vào hoang đa, đ chu ma qu cám d. Người ăn chay ròng rã bn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thy đói. By gi tên cám d đến gn Người và nói: ”Nếu Ông là Con THIÊN CHÚA, thì truyn cho nhng hòn đá này hóa ra bánh đi!” Nhưng Người đáp: ”Đã có li chép rng: Người ta sng không ch nh cơm bánh, nhưng còn nh mi li ming THIÊN CHÚA phán ra”. Qu li đem Người lên mt ngn núi rt cao và ch cho Người thy tt c các nước thế gian, và vinh hoa li lc ca các nước y, và bo rng: ”Tôi s cho Ông tt c nhng th y, nếu Ông sp mình bái ly tôi”. Đc Chúa GIÊSU lin nói: ”Satan kia, xéo đi! Vì đã có li chép rng: Ngươi phi bái ly THIÊN CHÚA ca ngươi và phi th phượng mt mình Người mà thôi”. Thế ri qu b Người mà đi, và có các s thn tiến đến hu h Người (Matthêô 4,1-11).
(”THÉRÈSE D’AVILA”, Oeuvres Complètes, Desclée de Brouwer, 1989, trang 220-222)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Anh chị Thụ Mai gởi

MỌI NẺO ĐƯỜNG CON NGƯỜI ĐI, THIÊN CHÚA ĐỀU THẤY RÕ!

MỌI NẺO ĐƯỜNG CON NGƯỜI ĐI, THIÊN CHÚA ĐỀU THẤY RÕ!

Đài Vatican



… Tối Thứ Bảy Tuần Thánh Đêm Vọng Phục Sinh 30-3-2013 tại nhà thờ Sainte Barbe Anzin thuộc Tổng Giáo Phận Cambrai ở miền Bắc nước Pháp, có 4 tân tòng lãnh bí tích Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Xin trích chứng từ của 1 nam và 1 nữ trong số 4 tân tòng này.

Anh Christophe 28 tuổi.
Tôi chào đời trong môi trường sống đạo hẳn hoi nhưng lại không được rửa tội sau khi sinh ra, vì lý do gia đình. Ý tưởng Rửa Tội thường xuyên xuất hiện trong tâm trí tôi và mỗi lúc một rõ rệt hơn, đôi khi trở thành quyết liệt như vấn đề sinh tử. Để có thể tiến bước trên con đường của một tín hữu Công Giáo thì trước tiên tôi phải lãnh bí tích Rửa Tội và điều này trở thành một nhu cầu thực tiễn cấp thiết. Tôi cảm thấy ước nguyện sâu xa muốn đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ.

Hành trình tân tòng của tôi khởi đầu với Hervé Desprez. Tôi chuẩn bị lãnh phép rửa từ tháng 6 năm 2012. Sau đó tôi gia nhập nhóm có 2 tân tòng khác là Allison và Guillaume cùng với Thierry là người chuẩn bị lãnh phép Thêm Sức.

Lộ trình của nhóm tân tòng chúng tôi rất trang trọng. Người này có thể học hỏi từ người kia. Tôi sống lộ trình này với việc song song đi nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật. ”Tôi sống Thánh Lễ của tôi”. Mỗi khi có những bàn tay đặt trên chúng tôi vào những dịp cử hành khác nhau đều khiến cho tôi xúc động.

Tôi khởi đầu đọc Kinh Thánh. Tôi rất thích đọc Sách Châm Ngôn. Tôi vừa đọc xong Diễm Tình Ca. Không có đoạn nào hay hơn đoạn nào bởi lễ mỗi một sách thánh đều mang đến một sứ điệp riêng. Tôi tham dự các buổi cầu nguyện Taizé diễn ra vào mỗi tối thứ tư tuần thứ hai tại Saint Géry. Tôi rất thích các bài thánh ca có tích cách suy niệm.

Sự kiện tôi xin lãnh bí tích Rửa Tội cho phép tôi nhận ra đâu là ý nghĩa đích thật của cuộc sống. Vật chất không thật sự hữu ích.

Ngày hôm nay Đức Tin giúp tôi tiến bước và chọn đúng hướng đi. Đức Tin tháp tùng tôi. Tôi muốn sống trọn vẹn trong Sự Thật.

Chị Allison, 34 tuổi.
Tôi luôn luôn ước muốn lãnh bí tích Rửa Tội. Tôi không được rửa tội ngay từ lúc chào đời mặc dầu tôi sinh ra trong một gia đình Công Giáo.

Yếu tố kích động khơi mào vào dịp chuẩn bị phép rửa cho đứa con trai thứ năm của tôi là Etan vào tháng 6 năm 2011. Thân phụ của 4 đứa con đầu là kẻ vô thần nên không cho phép tôi đặt vấn đề với anh về chuyện giáo dục con cái trong Đức Tin.

Và thế là tôi đặt vấn đề gia nhập nhóm dự tòng vào dịp chuẩn bị lễ rửa tội cho Etan. Chính khi đó tôi cảm nhận tiếng gọi tìm hiểu biết hơn về Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tôi khởi đầu công cuộc học hỏi giáo lý vào tháng 10 năm 2011. Cứ ba tuần một lần chúng tôi quy tụ để học hỏi.

Người chồng tương lai của tôi – anh Thierry – Ba của Etan và Mailyne, cũng chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức với chúng tôi, diễn ra vào thứ bảy ngày 15-6 tại nhà thờ Préseau.

Hành trình tân tòng củng cố niềm ước ao của tôi muốn trở thành tín hữu Công Giáo. Lộ trình này thật tuyệt vời, xét vì sau cùng rồi thì tôi có thể nói về Đức Tin của tôi với người bạn đời mà tôi chọn làm chồng. Anh đọc cho tôi nghe các đoạn Kinh Thánh rồi giải thích cho tôi hiểu, bởi lẽ anh từng học giáo lý trong thời niên thiếu và đã xưng tội cùng rước lễ lần đầu.

Trước ngày được rửa tội, Đức Tin của tôi tăng trưởng. Tôi hiểu Đức Tin rõ hơn và thật cảm kích vì sắp được rửa tội!

Cha đỡ đầu cho tôi là người được Cha Mẹ tôi chọn ngay từ ngày tôi còn bé xíu, mặc dù lúc đó chưa phải là người đỡ đầu rửa tội của tôi. Trong khi mẹ đỡ đầu thì chính tôi chọn lấy. Đây là người bạn gái tốt nhất của tôi và Đức Tin của bạn hiền cũng hướng dẫn tôi nữa.

… Có lời rằng: ”Hãy mở đường khai lối, và san cho bằng phẳng, dẹp bỏ mọi chướng ngại trên đường nẻo dân Ta. Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh, Người phán như sau: Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát. Vì Ta chẳng trách cứ luôn luôn, không giận hờn mãi mãi, kẻo hơi thở mọi sinh linh chính Ta làm ra, trước mặt Ta, sẽ phải lụi tàn. Vì tội nó ham lợi mà Ta giận dữ, Ta đã đánh nó, đã ẩn mặt trong cơn giận dữ, nhưng nó vẫn ngỗ nghịch, theo con đường nó muốn. Những nẻo đường nó đi, Ta đều thấy cả, nhưng Ta sẽ chữa nó cho lành, sẽ dẫn nó đi và cho nó đầy tràn an ủi; còn những kẻ khóc thương nó, Ta sẽ làm cho môi miệng chúng hoan ca: ”Bình an! Bình an cho khắp xa gần! THIÊN CHÚA phán: Ta sẽ chữa lành cho nó” (Isaia 57,14-19).

(”Église de Cambrai”, quinzaine diocésaine, No 7, 11 Avril 2013, stjeananzin.cathocambrai.com)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

Lm. Mai Đức Vinh

6/18/2013   nguồn: Vietcatholic.net

Trong bài giảng trên núi, cũng gọi là Tám Mối Phúc Thật hay Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố với những người vây quanh Ngài rằng: ‘Phúc cho anh chị em là những kẻ bị người ta nói xấu, vu khống và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao’ (Mt 5,11-12). Đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, cách riêng, đời sống và cuộc tử đạo của các tiền nhân, chứng nhân Tin Mừng, trên Quê Hương chúng ta vào thời điểm 1583-1886, chúng ta thấy lời chúc phúc của Chúa trên đây đã ứng nghiệm thật rõ nét: các ngài bị hiểu lầm và vu oan đủ điều, bị hành hạ và giết chết đủ dạng thức vì danh Chúa. Chúa rất trân trọng lòng hy sinh chịu oan ức và đau khổ, cũng như cái chết đắt giá của các Thánh Tử Đạo… Và Chúa không để các ngài bị thua thiệt, Chúa đã ân thưởng các ngài nhãn tiền ngay tại thế qua những dấu lạ thật diệu huyền.

Từ điều suy nghĩ trên đây, tôi lần đọc lại những lời dạy của tổ tiên được trao truyền lại cho người Việt Nam qua những câu ca dao tục ngữ, những truyện cổ tích, và những lời hay ý đẹp của cổ nhân, tôi sung sướng nhận ra những tia sáng tương hợp. Quả vậy, tuy không mang chất liệu siêu nhiên, nhiều câu ca dao tục ngữ, nhiều câu truyện cổ tích và nhiều lời hay ý đẹp của cổ nhân là những dấu chứng hùng hồn về phong thái của các Đấng Tử Đạo: Vì Chúa, vì Đức Tin Công Giáo, nhưng cũng vì những xác tín tôn giáo và luân lý cổ truyền, vì những đức tính bao gồm trong tam cương ‘Thiên Địa, Quân Thần, Phụ Mẫu’ và ngũ thường ‘Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín’ mà các thánh tiền nhân đã bình thản chấp nhận và can tràng chịu đựng mọi vu khống, mọi hành hạ, mọi án tử… đồng thời hân hoan được Trời thương nâng đỡ, ban sức mạnh và cho nhiều dấu lạ làm vinh danh Thiên Chúa và dân tộc… Tóm lại, các Thánh Tử Đạo không chỉ làm chứng về tình yêu dâng lên cho Thiên Chúa, nhưng còn biểu dương các tinh túy tôn giáo, luân lý và văn hóa của dân tộc.

Từ những gợi ý trên đây, tôi sẽ trình bày năm điểm trong bài viết mang tên là ‘Thiên Đạo chí công’ nghĩa là ‘Đạo Trời thật công bằng’: 1) Những lời dạy của tổ tiên. 2) Những hiểu lầm đáng tiếc 3) Những vu oan ác nghiệt. 4) Những hành nhục và tử nhục. 5) Những dấu lạ ân thưởng.

I. NHỮNG LỜI DẠY CỦA TỔ TIÊN

1. Trong ca dao tục ngữ

• Ai cũng biết: ‘Trời không đóng cửa đuổi ai’, ‘Trời nào có phụ ai đâu’, ‘Trời sinh Trời chẳng phụ nào’, ‘Khi nên Trời giúp công cho’. ‘Ở hiền gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho’. ‘Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong’. ‘Thiên đạo hảo hoàn’.

• Bởi vì ‘Thiên đạo chí công’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt’. ‘Cứ trong nghĩa lý luân thường, làm người phải giữ kỷ cương mới mầu; Đừng cậy khoẻ chớ cậy giàu, Trời kia còn ở trên đầu còn kinh’. ‘Đạo trời báo phục chẳng lâu, hễ là thiện ác đáo đầu chẳng sai’.

• Cho nên khi gặp gian nan, không thất vọng, không thù oán, nhưng xác tín ngửa mặt lên mà ‘van trời’, ‘vái trời’, ‘có trời biết’, ‘xin trời xét’, ‘xin trời phù hộ’, ‘mong trời biết cho’, ‘vì trời đã định’, ‘xin theo ý trời’… ‘Cóc kêu ba tiếng thấu trời, huống lọ lời cầu của người hiếu trung’…

2. Trong những câu chuyện cổ:

• Sự tích dưa hấu: Anh Mai An Tiêm, vì tin vào thuyết luân hồi, nên tuyên bố rằng ‘mọi vật trong nhà đều là tiền thân của tôi cả’. Nghe vậy, Hùng Vương và các cận thần phản đối cho là vô ơn với Trời và với Vua, nên bắt đi đầy cả gia đình. Tại đảo đi đày, thấy vợ buồn bã, thất vọng vì bị vu oan, nên lâm kiếp đầy ải, Mai An Tiêm đã nói an ủi: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Trời luôn có mắt, cứ phấn chấn lên, đừng sợ’… Rồi khi trồng được dưa hấu thơm ngon, Mai An Tiêm ôm lấy vợ mà nói: “Trời nuôi sống và thưởng công chúng ta thật” (1).

• Truyện tấm cám: Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Tấm bị Cám và dì ghẻ lường gạt và đày đọa đủ điều… Nhưng Tấm luôn được Trời phù hộ… Cấu trúc của câu truyện đầy nét thần thoại, tuy nhiên làm nổi bật ý nghĩa: Người đơn thành bao giờ cũng được Trời giúp đỡ, chở che và cho mọi may mắn. Đúng là ‘ở hiền gặp lành’ (2).

• Truyện Quán Tử. Quán Tử là chàng trai nghèo, sống độc thân… nhưng rất hiếu thảo với cha mẹ và tổ tiên, lại nhân hậu đối với mọi người, kể cả loài vật… Nhờ đó mà luôn được đền bù, tránh được mọi rủi ro và được ân thưởng bội hậu. Quả là ‘những người nhân đức, Trời dành phúc cho’ (3).

• Truyện bốn người bạn: Ất, Bính, Đinh, Giáp là bạn thân lâu năm. Nhưng Giáp đã làm nhiều truyện động trời phản bội Ất: cướp vợ của Ất, giết vợ của mình rồi vu khống cho Ất, vu oan cho Ất muốn cướp vợ của Giáp… Vì thế, Ất bị bắt và bị tòa án xử tử. Bính và Đinh biết rõ tính trung thực của Ất, đã đến xin Giáp là người bạn giàu có nhất, cứu nguy cho Ất. Giáp từ chối thẳng thừng và còn vu oan thêm cho Ất… May, vừa lúc đao phủ giơ gươm chém đầu Ất, thì cô đầy tớ của Giáp, cô biết rõ câu chuyện, đã chạy ra xin đao phủ ngưng tay, và cô kể cho mọi người hiện diện biết rõ sự thật của câu chuyện… Nhờ đó Ất được tha, tìm lại được vợ. Còn Giáp phải mất nhiều tiền mua chuộc quan tòa, nên cũng được tha. Nhưng lúc Giáp từ tòa án ra về, bị sét đánh chết. Khi người ta khiêng xác của Giáp đi chôn, một con cọp không biết từ đâu nhảy tới và công mất xác của Giáp… Mọi người bảo nhau: ‘Thiên bất dong gian’ (4).

• Truyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính là vợ của Thiện Sĩ. Hai vợ chồng luôn tâm đồng ý hợp. Thế nhưng một hôm Thiện Sĩ đang ngủ ngon, Thị Kính thấy chồng có một cái râu độc, nàng muốn cắt cái râu độc ấy đi. Vừa cầm kéo lên, Thiện Sĩ giật mình dậy hô lớn lên rằng: ‘Nàng cầm kéo muốn giết tôi’. Mẹ chồng nghe vậy cũng ùa vào kết án Thị Kính… Thị Kính bị hành hạ đủ điều và sau cùng bị đuổi ra khỏi nhà… Từ đó, mỗi khi có những vụ oan ức lớn, người ta thường nói: ‘oan như oan Thị Kính’. Vì thế mới có câu ca dao: ‘Chỉ Trời mới thấu tâm can, trước bao oan nghiệt chỉ than với Trời’ (5).

• Trong truyện Kim Vân Kiều: Vào thế kỷ XVIII, ông Nguyễn Du (1765-1820) tác giả của cuốn ‘Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) không ngại viết lên những trường hợp người ta bịa đặt điều ác cho nhau, vu oan cho nhau để thỏa mãn dục vọng tham lam hay trả thù, trả oán. Đây, ông Nguyễn Du nói đến một trường hợp điển hình của một lời vu cáo:

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rời khung dệt, tan tành gối mai.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây,

Sạch-sành-sanh vét cho đầy túi tham!

Điều đâu ai buộc, ai làm?

Này ai dan-dập, giật giàm bỗng dưng?

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ!

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.

Không những chỉ có đoàn tham quan ô lại đến phá phách nhà Vương-Ông trong dịp oan ức này mà có thể ở mọi thời, lúc nào cũng có vô số người sung vào đoàn ruồi xanh như thế! (6).

3. Những lời khuyên của tiền nhân.

• ‘Muốn giữ được lương tâm, nuôi được linh tính, cần phải chịu khổ, chịu phiền thì con người mới thuần thục’ (Lưu Trực Trai).

• ‘Lửa bốc cao, nước chảy xuống thấp, thế mà lửa bao giờ cũng thua nước’ (Văn Trung Tử).

• ‘Lấy oán báo oán thì oán chồng chất, lấy đức báo oán thì oán tiêu tan’ (Phật Thích Ca).

• ‘Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng gặp trường hợp cần, thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng’ (Khuyết danh).

• ‘Cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người’ (Cổ ngữ).

• ‘Vật trong thiên hạ chẳng gì mềm bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng, mạnh không sức nào địch nổi’ (Hoài Nam Tử).

• ‘Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch cũng to lớn bấy nhiêu. Có mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu’ (Minh Tâm Bửu Giám).

• Người biết ‘đạo’ tất không khoe, người biết ‘nghĩa’ tất không tham, người biết ‘đức’ tất không thích tiếng tăm lừng lẫy (Trương Cửu Thành).

II. NHỮNG HIỂU LẦM ĐÁNG TIẾC

1. Bầu khí hiểu lầm.

Những cuộc bách hại ác nghiệt đối với đạo Công Giáo từ 1583 đến 1838 bắt đầu từ những hiểu lầm. Tôi trích lại đây một đoạn trong cuốn ‘Lịch Sử Đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, tác giả Hồng Lam ghi rằng: ‘Người Việt Nam ta xưa nay vốn tính tình hòa nhã, trung hậu, không hề có ác cảm với người ngoại quốc, như các giáo sĩ và với người Tây phương đầu tiên đã công nhận. Vì thế mà giáo sĩ mới vào nước ta, đều được dân chúng tỏ vẻ hoan nghênh. Cả đến vua quan trong nước vào thời bấy giờ cũng có ý muốn thân thiện với người ngoại quốc, để bắt chước việc buôn bán trong nước, và có khi cũng để lợi dụng sức mạnh và sự tài giỏi của người vào công việc của mình’. Nhưng tiếc thay, về sau, chỉ vì nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc mà gây nên những mối nghi kỵ giữa người ngoài và người Việt Nam ta, rồi giữa đồng bào Công Giáo với đồng bào lương. Hồi đó các giáo sĩ và các nhà buôn Tây phương thường bị coi là những kẻ do thám, hoặc những người dọn đường cho các nước thực dân Âu châu có ý dòm ngó nước ta. Đạo Thiên Chúa bị coi lầm là một tà đạo có thể làm hại đến thuần phong mỹ tục và những tập quán cổ truyền trong nước. Còn những kẻ theo đạo thì bị coi là đi ngược với luân thường đạo lý, có thể làm đảo lộn trật tự cựu truyền, và lay chuyển cả nền tảng luân lý, và có thể đẩy nước nhà đến sự suy vong. Một ít việc bất ngờ xảy ra, và một số người ghen ghét, đố kỵ hoặc cạnh tranh về vấn đề tôn giáo lại càng giúp cho mối ngờ vực đó tăng thêm’ (7). May thay, giữa bầu khí ngột ngạt vì hiểu lầm như vậy, cũng nổi lên những vì sao muốn xóa tan những vòm mây hiểu lầm. Đó là những vua chúa hay quan quyền ngỏ lời bênh vực hay ca tụng đạo Thiên Chúa, như vua Gia Long (DMAH 2, tr.7), tướng Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26) (8), chí sĩ Phan Đình Phùng với khẩu hiệu ‘Lương Giáo thông hành’ (DMAH 3,339)… Nhưng đặc biệt là bản tấu của quan thượng Nguyện Đăng Giai dâng lên vua Tự Đức. Ông nhận xét: “Cách thức của đạo này (Công Giáo) chinh phục lòng người như sau: trước hết họ chinh phục một người, đàn ông cũng như đàn bà, rồi trở thành một gia đình, một xóm đạo. Họ nuôi ăn những người đói kém, cho quần áo những người bị lạnh lẽo, giúp đỡ những người bất hạnh, an ủi những người sầu khổ, họ tụ họp đông để tiễn đưa những người quá cố. Họ không phân biệt quốc gia mà coi mọi người như một, như thân thuộc vậy… Như thế thì làm sao khuyên nhủ họ theo đường lối của chúng ta được? Các sách vở của họ tuy không viết bằng chữ đẹp như của chúng ta, nhưng không chứa đựng những điều gì sai trái nguy hại cho loài người. Các lời giảng dạy của họ chỉ có một mục đích là làm cho con người trở nên đức hạnh và làm ích cho người khác. Họ sống bằng lòng với tình trạng, đóng thuế rất sòng phẳng, không có trộm cướp hay làm loạn. Sáng chiều họ đọc kinh, cố gắng trở nên tốt hơn, hầu được hạnh phúc trên trời… Tôi nghĩ cứ để người Công Giáo sống an bình. Nếu đây là tà đạo, thì ‘sự thật khó hủy diệt còn cái dối trá tự nó sẽ tiêu tan. Chúng ta hãy thực hành đạo chúng ta một cách rầm rộ, để người ta sẽ thấy đạo lý giả trá xấu xa tan biến đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời’ (DMAH 3, tr.59-61).

2. Đạo Hoa Lang:

Theo cuốn ‘Để tìm hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII, thì ‘Vào lúc đầu, giáo sĩ chưa biết tiếng, người thông dịch mới hiểu lờ mờ và nói bập bẹ vài ba tiếng Bồ, vì thế việc diễn giảng gặp rất nhiều khó khăn. Người ta cũng chưa biết phải gọi đạo mới này là đạo gì. Thế là người ta đã gọi đạo do người Bồ đưa tới là đạo người Bồ. Gaspar Louis viết: “Thực ra họ cũng nhận đức tin, nhưng chỉ tin theo cách đại khái rằng đạo người Bồ tốt hơn đạo của họ”. Borri kể lại câu chuyện nực cười, khi người ta hỏi xem có muốn theo đạo Kitô không, thì người ta đã nói: “Con nhỏ muốn vào lòng Hoa Lang chăng?” với ý nghĩa là ‘muốn vào đạo Hoa Lang’ tức là đạo người Bồ. Về sau, nhiều người căn cứ vào đó mà hiểu lầm đạo Thiên Chúa là ‘đạo quái gở’, là ‘đạo tà’, là ‘đạo ngoại quốc’. Khi thông thạo tiếng Việt, và nhờ có chữ quốc ngữ, các thừa sai mới cắt nghĩa được cho người ta hiểu: không phải ‘đạo Hoa Lang’ hay ‘đạo của người Bồ’, nhưng là ‘Đạo chung của mọi người, tức là đạo Công Giáo’. Cha A. de Rhodes, trong cuốn ‘Phép Giảng tám ngày’, ngài để nguyên chữ la tinh ‘Ecclesia catholica apostolica’ (9). Thời Chúa Trịnh Sâm, nhiều tín hữu bị khắc trên trán ba chữ ‘Hoa Lang Đạo’ (10). Để đánh tan sự hiểu lầm này, thày giảng Inhaxiô đã thưa cùng chúa Thượng Vương: ‘Kính thưa chúa thượng, đạo hạ thần theo không phải là đạo Bồ Đào Nha, nhưng là đạo của Chúa Trời Đất’ (DMAH 1, tr.37).

3. Không thờ cúng Tổ Tiên:

Đây là một hiểu lầm lớn nhất, tai hại nhất, đánh vào con tim và tâm não của người Việt Nam hơn cả. Câu ‘đi đạo Thiên Chúa là bỏ cha bỏ mẹ’ đã phổ biến từ đó. Không phải chỉ là một sự hiểu lầm của giới bình dân, nhưng cả của giới trí thức và quan quyền, vua chúa. Nhất là sau khi công bố Hiến chế Ex quo sungulari providentia (1742) của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV, cấm mọi hình thức tôn kính người đã mất (11). Hầu hết trong các sắc lệnh cấm đạo đều ‘coi việc không thờ kính tổ tiên là lý do chính yếu’. Chẳng hạn vua Nguyễn Nhạc đã tuyên bố năm 1785 rằng: “Trẫm muốn tiêu diệt đạo Âu Châu, vì nó đã lan tràn trong nước. Đó là giáo phái không thờ kính tổ tiên…” (DMAH 1, tr. 211). Nguyễn Ánh tức vua Gia Long, tuy rất thiện cảm với đạo Thiên Chúa, nhưng không theo đạo, vì đạo cấm thờ kính Tổ Tiên (DMAH 3, tr.3-4). Mở đầu sắc lệnh cấm đạo năm 1833, vua Minh Mệnh tuyên bố: “Ta, Hoàng Đế Minh Mệnh, truyền lệnh cấm các người Tây Phương đến truyền đạo Giatô, vì chúng… không thờ kính Tổ Tiên…” (DMAH 3, tr.34). Rồi đại diện cho giới Nho Sĩ và phong trào Văn Thân, ông Nguyễn Đình Chiểu đã chửi xéo người Thiên Chúa giáo bằng câu thơ:

Thà mù mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Quả thật, từ các vua chúa, quan quyền và đa số dân chúng chưa hiểu được rằng ‘Hiếu thảo là giới răn thứ IV trong 10 điều răn của Thiên Chúa truyền dạy, cũng như cách thức bề ngoài tuy khác nhưng cốt lõi vẫn là một. Đạo hiếu hay cách thế tôn kính đối với người quá cố mà đạo Công Giáo dạy người tín hữu phải giữ, phải sống còn nghiêm túc và sâu xa hơn… đức hiếu thảo cổ truyền và việc thờ kính Tổ Tiên hiện có’. Sự hiểu lầm này cũng có một phần đáng tiếc về phía các linh mục truyền giáo Phanxicô, Đaminh và Thừa Sai Ba Lê thiếu sự phân biệt nghi thức với niềm tin và vội coi mọi lễ nghi cúng bái là dị đoan, trái tín lý. Hầu hết các vị tử đạo đều bị chất vấn ‘tại sao các ngươi lại bất kính tổ tiên, đó là một tội nặng’. Chúng ta hãy nghe linh mục Laurensô Nguyễn Văn Hưởng trả lời: ‘Thưa quan, nói rằng bên đạo chúng tôi không thờ kính tổ tiên là điều vu khống và bỏ vạ. Người lương lấy cơm, cá thịt, trái cây mà cúng ông bà cha mẹ đã qua đời, còn chúng tôi không dùng những thức ăn mà cúng, vì biết ông bà cha mẹ đã chết rồi, thì không ai ăn được nữa, không còn hưởng nhờ các thức ăn đó. Nhưng chúng tôi nhớ đến ông bà cha mẹ tối sáng. Hằng ngày cầu xin cho các ngài được hạnh phúc trên thiên đàng. Hơn nữa, chúng tôi tuân giữ các lời ông bà cha mẹ răn dạy hầu giữ luật luân lý và làm vinh danh cho các ngài’ (DMAH 3 tr. 114).

4. Một số quan điểm về tôn giáo và phong tục.

Người ta ác cảm với đạo Thiên Chúa vì cho rằng đạo mới này đảo lộn trật tự xã hội và vi phạm tục lệ quốc gia:

• ‘Trời-Phật’ Vì xưa kia Việt Nam nội thuộc nước Tàu nên chịu ảnh hưởng cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Đến thời Việt Nam độc lập, thì theo sử chép, vua Đinh Tiên Hoàng là người làm cho đạo Phật lớn mạnh và trở thành như ‘quốc giáo’, đặc biệt về sau vào các triều nhà Lý, nhà Trần. Từ đó người Việt Nam quen miệng kêu ‘Trời Phật’ muốn đồng hóa Phật với Trời hay đặt Phật ngang với Trời. Đến khi đạo Thiên Chúa được rao giảng ở Việt Nam thì quan điểm tôn giáo như trên thay đổi: Trời là Thượng Đế, Tạo Hóa là Thiên Chúa tối cao, duy nhất. Phật không phải là Trời, không thể đồng hàng với Trời, không được coi là Thượng Đế hay Thiên Chúa. Điểm này làm cho nhiều vua quan, nhiều chức sắc Phật giáo và nhiều người dân hiểu lầm và sinh ghét đạo Thiên Chúa.

• ‘Trời-Đất’. Trong thời Bắc thuộc, tức thời nhà Hán đô hộ nước Việt Nam, hai quan thái thú Tích Quang và Sĩ Nhiếp đã du nhập đạo Nho vào nước ta. Đạo Nho phát triển mạnh và đã tạo nên cho nước ta ‘một giới trí thức’ trong đó có vua chúa, quan quyền và nho sĩ. Thời nhà Lê, Nho giáo được coi như quốc giáo. Vì thế quan niệm Trời-Đất (Thiên-Địa, Dương-Âm) được đề cao: Mặc dầu Trời là đấng tối cao chỉ huy mọi vật trong vũ trụ, mọi vật đều có một cha mẹ chung sinh ra là Trời và Đất. Trời sinh ra các ‘loài đực’, đất sinh ra các ‘loài cái’. Đang khi đó đạo Thiên Chúa dạy: Trời hay Thượng Đế duy nhất dựng nên hết mọi vật, kể cả Đất (trong Nho giáo) cũng do Thượng Đế hay ông Trời (trong Nho giáo) dựng nên. Đây là điểm làm cho giới trí thức thời xưa hiểu lầm và chống đối đạo Thiên Chúa.

• ‘Quân-thần, Phụ-tử’: Theo Nho giáo, vua có quyền tuyệt đối trên quần thần và dân chúng. Cũng vậy người cha có quyền tuyệt đối trên con cái, như lời ghi của sử gia Trần Trọng Kim: “… Con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy, thì mang tội nặng, đáng chém giết” (12). Đạo Thiên Chúa thay đổi quan niệm: chỉ mình Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên mọi người, mọi vật. Tuy nhiên, Ngài kính trọng tự do lương tâm của mỗi người.

• + ‘Đa thê’: Phong tục Việt Nam cho phép người đàn ông cưới nhiều vợ, tục đa thê. Đạo Thiên Chúa dạy ‘chỉ một vợ một chồng’. Chính Nguyễn Ánh đã nói với Đức Cha La Mothe: ‘Đạo của Đức Cha là một đạo tốt lành, nhưng nghiêm khắc quá, ai mà có thể giữ được? Tôi không thể nào chỉ cưới một vợ’ (DMAH 2, tr.5).

• ‘Nộp tiền cúng tế’. Khi chưa có những làng Công Giáo thuần nhất, mà còn tình trạng người Công Giáo thiểu số trong một làng, thì vấn đề đặt ra là người Công Giáo có buộc phải góp tiền tổ chức các lễ cúng tế theo phong tục quốc gia nữa hay không? Hai Đức Cha Labarette và La Mothe đã xin với Nguyễn Ánh miễn chuẩn cho người Công Giáo khỏi giữ nhiệm vụ này. Nguyễn Ánh để cho các quan cứu xét. Các quan từ chối và để quyền đó cho các hương chức, vì đây là tục lệ quốc gia (DMAH 2, tr.5).

III. NHỮNG VU OAN ÁC NGHIỆT

Những hiểu lầm đáng tiếc chúng ta vừa nêu lên nhiều khi đã biến thành hay tạo nên những vu oan ác nghiệt. Chẳng hạn:

1. Móc mắt’: Khi thấy Nguyễn Ánh bao dung đạo Thiên Chúa và còn trao hoàng tử Cảnh cho Đức Cha Bá Đa Lộc huấn luyện, nhiều quan trong triều tức giận và muốn bày cớ vu khống đạo Thiên Chúa. Vậy, có một quan lại tố cáo rằng: các thừa sai lấy mắt người chết làm hạt ngọc rồi nhét bông vào mắt thay thế. Vị quan còn nói: ông thấy trong nhà thờ có nhiều hạt ngọc như thế. Nghe vậy, Nguyễn Ánh nói: “Nếu quả có thật như vậy, thì người Công Giáo sẽ bị trừng phạt; ngược lại, nhà ngươi sẽ bị chém đầu”. Ông quan thú nhận là chỉ nghe như thế. Nguyễn Ánh bèn ra lệnh chém đầu vị quan vu cáo này. Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Cha Bá Đa Lộc, ông quan được khoan hồng (DMAH 2,3-4). Thế nhưng, trong đầu óc các quan vẫn còn coi điều vu khống quái ác trên đây là thật. Bằng chứng là năm 1826, Bộ Lễ đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mạng xin trừ diệt đạo Giatô, trong đó có câu: “…Những người rao giảng khuyến dụ dân theo đường hư hỏng, những người móc mắt người ốm, nếu bị bắt sẽ bị phạt theo trọng tội” (DMAH 2, tr.22). Đến năm 1835, ngay lúc sắp xử lăng trì cha Giuse Marchand Du, quan còn hỏi cha: “Vì lý do gì bên đạo móc mắt người chết?’. – Cha trả lời vắn gọn: “Không bao giờ tôi thấy như vậy” (DMAH 2, tr.82). Mãi tới năm 1856, trong phiên tòa xử cha Laurensô Nguyễn Văn Hưởng (bị trảm quyết 27.4.1856), quan đầu tỉnh Hà Nội còn hỏi cha: “Tại sao khi người ta đau ốm, các đạo trưởng đến khoét mắt đem về làm thuốc cho người ta mến và theo đạo? Cha Hưởng thưa: “Bẩm quan lớn, điều ấy không đúng. Bên Phật giáo họ ghét đạo nên bỏ vạ chúng tôi như vậy. Những người kẻ liệt thì cũng một nửa còn sống, nếu khoét mắt thì họ mù làm sao còn xem được nữa. Vì khi còn khỏe, người ta hay dùng ngũ quan mà phạm tội, nên khi họ ốm đau, chúng tôi đến xức dầu thánh nơi con mắt và chân tay để trừ tội và ma quỷ chứ không làm sự gì khác” (DMAH 3, tr.113-114).

2. Từ vu cáo móc mắt đến các vu cáo quái đản khác.

• Năm 1836 các quan đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mệnh và vu cáo đạo Công Giáo như sau: “Các thừa sai dùng bánh nhiệm mầu để mê hoặc dân chúng và làm cho họ cố chấp giữ đạo. Các thừa sai còn lấy mắt người chết pha lẫn vào hương để làm thuốc chữa bệnh. Trong khi cử hành hôn phối, đạo trưởng bắt làm những điều đồi bại” (DMAH 2,86).

• Năm 1837 Quan tổng Hào nói với thầy giảng Phanxicô Xaviê Cần (bị xử giảo 1837) như sau: “Ta nghe nói các linh mục thường móc mắt đàn bà ốm yếu bỏ vào chum nước có chó ngao, rồi lấy nước làm bùa mê rảy trên dân chúng, có thật vậy không?” – Thầy Cần thưa: “Thưa quan, đó là điều bịa đặt vu khống hoàn toàn. Các đạo trưởng rất thành thật và không bao giờ nói dối” (DMAH 2, tr.102).

• Năm 1838, Dưới thời Tây Sơn, tổng đốc Lê Văn Đức đã hạch hỏi thày giảng Phaolô Mĩ: “Tại sao đã có lệnh vua cấm theo đạo mà ngươi còn theo? Trong đạo có những chuyện móc mắt, làm bùa mê, rồi các đạo trưởng thông gian với phụ nữ…”. – Thầy Mĩ trả lời: “Thưa quan lớn, chúng tôi xả thân cầu đạo, nếu có khoét mắt người nào thì anh em con cái họ để chúng tôi sống chăng? Nếu trong đạo chúng tôi có chuyện đồi tệ như quan tố cáo, thì chúng tôi dạy bảo ai được. Mà nếu chúng tôi đi tu, lại ăn ở thể ấy thì vợ chồng người ta để chúng tôi đến nhà mình nữa chăng? (DMAH 2, tr.273).

• Hơn thế, chính vua Minh Mệnh, trong sắc lệnh ra ngày 29.7.1839, còn mạt sát đạo Công Giáo: “Đạo này không tuân giữ luật nước, đầy rẫy sự giả dối, rao giảng những điều phi lý như thiên đàng, nước thánh… các đạo trưởng móc mắt người chết và dụ dỗ đàn bà con gái…” (DMAH 2, tr.289).

3. Vấn đề chính trị.

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Thiên Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào’, triều đình làm sao khỏi nghi ngờ và nghi kỵ? Xưa cũng như nay, nhiều kẻ thù của Giáo Hội vẫn cố tìm cách ghép buộc ‘công trình truyền giáo với việc nước Pháp thôn tính đất nước Việt Nam dưới chiêu bài đòi tự do buôn bán và tự do tôn giáo’ (DMAH 3, tr.124). Tôi nghĩ họ cần có cái nhìn đứng đắn của ông Toan Ánh. Ông viết: “Nhiều người thường quan niệm sai lầm rằng đạo Thiên Chúa cùng tới Việt Nam với thực dân Pháp. Sự thật, đâu có phải. Đạo Thiên Chúa đã truyền sang Việt Nam từ lâu, trước hồi Pháp thuộc, từ đầu thế kỷ XIV, nhưng sự truyền giáo đã gặp khó khăn, nên sự phát triển không được mạnh mẽ lắm. Thực dân Pháp tới Việt Nam, mục đích của họ cốt để thôn tính đất nước, nô lệ hóa nhân dân, còn công việc khai thông đạo giáo, đó là công việc của các tu sĩ truyền giáo… Và tình thương đã quảng bá đạo Chúa… Tóm lại, Thiên Chúa giáo đã tới Việt Nam trước thực dân và trải nhiều thế kỷ đã lan rộng để ngày nay trở nên một tôn giáo quan trọng tại Việt Nam” (13).

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào Việt Nam’, triều đình và giới Nho sĩ đã nghi ngờ các thừa sai và khối Công Giáo, nhất là khi ‘dã tâm của người Pháp muốn thôn tính nước Việt Nam mỗi ngày một hiển hiện’. Tuy nhiên, đọc lại các sắc lệnh, các chỉ dụ cấm đạo của các chúa, các vua cũng như các kiến nghị của các quan triều thần, chúng tôi không thấy một lý do chính trị nào được nêu lên, ngoại trừ khẩu hiệu ‘bình tây sát tà’ của phong trào Văn Thân: ý đồ của họ là cho rằng ‘Nước Việt Nam bị Pháp thôn tính là vì đạo Công Giáo’; ‘Đạo Công Giáo là tả đạo, cần tàn sát và tiêu diệt’. Và họ đã dấy quân thi hành, gây nên bao nhiêu tang tóc trong thời gian 1864-1883 (14). Trước cảnh ‘nước mất nhà tan’ này, chính vua Tự Đức đã ca tụng lòng trung thành của người Công Giáo và công nhận người Công Giáo đã bị vu oan (15) Sau đây là hai vụ vu oan chính trị đáng chú ý:

• Vụ cha Giuse Marchand Du bị nghi là có liên hệ với giặc Lê Văn Khôi. Năm 1833, dân tình chán ghét vua Minh Mệnh, nhiều cuộc nổi loạn bùng nổ. Đáng quan tâm nhất là tại tỉnh Gia Định, Lê Văn Khôi nổi loạn vì uất ức trước thái độ của quan lớn đối với Lê Văn Duyệt. Kể từ tháng 7.1833, giặc Lê Văn Khôi chiếm trọn vùng Nam Kỳ và ông nghĩ rằng: nếu có một thừa sai tây phương ở trong thành thì sẽ nắm phần thắng. Nên ông cho quân đi bắt cha Du lúc ấy đang ở xứ Mặc Bắc. Khi quan Đội Miêng cho lính ập tới, cha Du trả lời: “Tôi chỉ lo giảng đạo mà thôi, việc chiến tranh tôi không biết chi. Nếu Chúa sai tôi đi đánh giặc thì một mình tôi một tỉnh, tôi cũng không sợ”. Đội Miêng bảo: “Trong Thành có đông người Công Giáo lắm. Nếu cha không đi ông Khôi sẽ chém đầu những người Công Giáo”. Vì thế, cha Du để họ bắt dẫn đi… Về sau, cha Du bị bắt và ra trước tòa các quan triều đình. Các quan hỏi cha: “Người ta thấy cha ở trong thành, vậy cha có làm gì giúp giặc không?”. – Cha Du trả lời: “Tôi chỉ giảng đạo và biết có việc giảng đạo mà thôi”. Lần khác các quan lại hỏi: “Ông có giúp Khôi làm giặc không?”. – Cha Du thưa: “Không. Ông Khôi cho quân đi bắt tôi đem về Sàigòn. Việc chiến tranh tôi không biết gì, tôi chỉ giảng đạo, cầu nguyện và làm lễ thôi”. – “Có phải ông đã giúp tên Khôi viết thơ xin quân Xiêm và giáo dân Đồng Nai đến giúp y không?”. – “Ông Khôi ép tôi viết thơ song tôi không chịu và nói cho ông biết, đạo cấm làm chuyện chính trị. Tôi cũng nói: thà chết chứ tôi không làm như thế được. Ông Khôi còn đem mấy thơ đến xin tôi ký vào. Tôi không chịu và xé thơ trước mặt ông”. Sau cùng các quan làm án tâu lên vua Minh Mệnh, xin ‘xử bá đao về hai tội: Là đạo trưởng, không chịu đạp ảnh Thánh Giá, và có dính líu với nghịch tặc’. Vua Minh Mệnh chấp thuận và cho đi xử bá đao ngày 30.11.1835. Đầu cha Du bỏ vào thùng đem rêu rao khắp nơi, sau cùng đem về Huế, bỏ vào cối xay nát ra và bỏ xuống biển (DMAH 2, tr. 73-84).

• Vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng: Thánh Hồ Đình Hy là một quan chức được vua Tự Đức tín nhiệm, trao cho nhiều công tác và thăng quan tiến chức đều, đến tước thái bộc và làm quan tam phẩm. Vì thế nhiều quan triều ghen ghét, tìm cách hãm hại quan Hồ Đình Hy. Vậy, nhân vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha ở ngoài khơi cửa Hàn, lăm le xâm chiếm Đà Nẵng. Các quan triều xấu bụng đã làm đơn dâng lên vua Tự Đức buộc tội quan Thái Bộc là liên lạc với người Pháp, họ xin vua bóc chức quan Hồ Đình Hy và trừng trị xứng đáng. Trong bản án còn nêu lên hai tội: cả gan tin theo tà đạo, lại liên lạc với nhiều đạo trưởng và còn nhờ linh mục Oai cho con đi học ở Singapore. Mặc dầu đã bị tra khảo nhiều lần, Hồ Đình Hy vẫn một mực chối không có liên lạc gì với quân Pháp. Vua Tự Đức tin theo những lời vu khống ác độc của các quan triều, đã y án: quan thái Bộc Hồ Đình Hy bị trảm quyết ngày 22.5.1857 (DMAH 3, tr.150-160).

• Văn Thân vu khống và bày trò gian ác để gây thù oán giữa dân lương với đạo Công Giáo (DMAH 3, tr.331-332):

+ Văn Thân đồn thổi: ‘Đức Cha Sohier đã mang về 400 cân thuốc độc để triệt hại các vua và các quan hầu đem người Công Giáo lên làm vua. Lúc đó, dân lương nào không theo đạo sẽ giết hết’.

+ Đức Cha Theurel địa phận Tây Bắc cho biết: ‘Văn Thân vu cáo người Công Giáo bỏ thuốc độc vào các giếng nước’.

+ Đức Cha Cezon địa phận Trung cho biết: ‘Văn Thân thuê người đi bỏ thuốc độc vào các ao hồ và giếng nước và nếu bị bắt thì nói rằng ‘người Công Giáo thuê’. Đã có 100 người bị bắt và khai rằng ‘Văn Thân đã thuê họ’.

+ Đức Cha Gauthier địa phận Vinh báo động: ‘Văn Thân giả mạo một lá thư mang tên ngài, ra lệnh cho hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý phải cử năm người đi đốt phá và bỏ thuốc độc vào giếng của các làng bên cạnh… Kết quả là hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý bị chính Văn Thân đến đốt cháy’.

+ Văn Thân còn phao lên rằng ‘các thày lang Công Giáo làm thuốc độc bán cho dân. Vì thế một ông lang Công Giáo đã buộc phải uống một lúc hết các thuốc ông bán… Kết quả, ông bị chết vì thuốc hành’.

4. Những vụ khác do các sư sãi, thày phù thủy vu khống và xúi dân khiếu nại:

• Năm 1625, hai nhà sư đã kiện lên chúa Sãi rằng: người Công Giáo bỏ bê tổ tiên và tục lệ quốc gia. Vịn vào đó, chúa Sãi ra lệnh ‘không ai, dù là Công Giáo, được bỏ bê các lễ lạy trong làng’ (DMAH 1, tr.12).

• Năm 1627, các thày cúng và sư sãi lại tố cáo với Trịnh Tráng: các lễ nghi bên đạo là một phù phép giết người, và xin chúa Trịnh canh chừng kẻo các thừa sai phù thủy giết hết các nhân tài và tướng giỏi để chuẩn bị nổi loạn dễ dàng. Họ cũng vu khống là các thừa sai liên lạc với nhà Mạc và chúa Nguyễn trong Nam. Đặc biệt cha Đắc Lộ là một phù thủy cao tay. Vì thế chúa Trịnh ra lệnh cấm dân chúng không được liên lạc với các đạo trưởng tây phương và không được theo đạo Giatô giả dối… (DMAH 1, tr.107-108).

• Năm 1663 các sư sãi lại vu khống và khiếu nại lên chúa Trịnh: người Công Giáo phá chùa, bẻ tượng… Sự hiện diện của đạo Công Giáo là nguyên cớ gây nên tai ương mưa lụt, hạn hán… Nghe vậy, vua Cảnh Trị ra lệnh cho các quan đi các làng, thấy có ảnh đạo phải tịch thu và bắt dân Công Giáo phải tuân giữ các tục lễ cúng bái của làng xã và của quốc gia (DMAH 1, tr. 122-123).

• Năm 1698 các thày phù thủy và sư sãi lại xúi dân làng Thương Lo làm đơn tố cáo lên chúa Minh Vương: Người Công Giáo bẻ gãy tượng phật, phá chùa và lấy các đồ thờ. Minh Vương cho người đi điều tra thì, chùa không hư hại gì và tượng Phật đã gãy tay từ hai chục năm trước (DMAH 1, tr.70-71).

IV. NHỮNG HÀNH NHỤC VÀ TỬ NHỤC

Hệ quả của những hiểu lầm và vu cáo như trên là các cuộc bắt đạo cứ từ từ bùng nổ, các chúa, các vua, các quan chức đều nuôi lòng ghen ghét, hoài nghi, và tìm mọi lý do, mọi hoàn cảnh khả dĩ để tiêu diệt đạo Công Giáo, nhất là thời vua Minh Mệnh, Tự Đức và phong trào Văn Thân. Trong nước dần dần thành hai khối ‘một bên là lương dân, quan quyền và vua chúa, một bên là dân Công Giáo với các thừa sai và thày giảng’. Một bên có quyền, có quân, một bên chỉ có niềm tin để chịu đựng mọi thua thiệt, mọi đàn áp, mọi hành nhục và tử nhục với tinh thần hiền lành, kiên nhẫn, can tràng… vẫn một lòng kính vua chúa, quan quyền, thương cha mẹ, yêu đồng bào… nhưng thờ Chúa là trên hết…. Thánh Philippê Phan Văn Minh đã diễn bầu khí bách hại đó như sau:

Lừng lẫy oai hùng tiếng đã rân,

Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.

Thánh đường chốn chốn đều tiêu triệt,

Giáo hữu người người chịu khổ tân.

Linh mục giảo lưu, hình giảm khốc,

Cận thần trảm quyết, lính đồ thân.

Há rằng vương đế làm nhân chánh,

Sao nỡ phiền hà hại chúng nhân.

(Bắt đạo thơ)

Như trên chúng ta thấy, hơn ba trăm năm đạo Công Giáo, hay các linh mục, thày giảng và giáo dân nam nữ, già trẻ, đều sống trong bầu khí ‘nghi ngờ, vu oan và bách hại’. Ít có thời gian được ‘tương đối bình an’. Tuy có một vài tiếng nói của vua chúa hay quan quyền bênh vực khen lao đạo Công Giáo, vì quyền lợi hay vì thời cơ, đều èo ẹt như một tia sáng nhỏ giữa đêm khuya mịt mù. Ai bảo vua Gia Long hay Nguyễn Ánh là người bênh vực đạo? (xem DMAH 2, tr.3-6). Ai bảo tiếng nói của quan triều Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26), hay Nguyễn Đăng Giai (DMAH 3, tr.59) được lắng nghe và xoay chiều tình thế có lợi cho đạo Công Giáo?…

Mọi người Công Giáo sống trong ‘bản án tập thể’ là theo đạo ngoại quốc, đạo ‘hoa lang’, đạo ‘Bồ Đào Nha’; mang trên má hai cụm từ ‘hoa lang đạo’ hay ‘tả đạo’; bị coi như những người khờ dại, đần độn, để người ta quyến dũ và mê hoặc, ‘bỏ đạo quốc gia đi theo đạo Giatô dạy điều giả dối, điên rồ và phi lý…’. Khiếu nại cùng ai, khi nhà bị cướp, bị đốt, bị chiếm? Nuối tiếc chi được khi bó buộc ra khỏi nhà, đi sống ‘phân sáp’ hay lưu đày… Đúng như lời thánh Phaolô nói: “đành chịu mọi thua thiệt để được Chúa Giêsu!”. Nếu là linh mục hay thày giảng, các ngài phải ẩn tránh, lén lút, trốn hết nhà này qua nhà khác, tránh mọi dòm ngó của quan quyền, lính tráng hay ‘những người dân ghét đạo’. Nhiều khi phải trốn ẩn dưới hầm, ngoài đồng, trong rừng…

Khi bị bắt, lập tức mang gông, ngồi cũi, dẫn bộ về nộp cho quan huyện, quan tỉnh… để vào tù đợi ngày ra xử. Nhiều trường hợp các quan đòi tiền mua chuộc. Ngày ra tòa trước mặt các quan là ngày bị hỏi cung, bị dụ dỗ, bị nguyền rủa, bị buộc tội, bị những trận đòn 50, 100, 150 roi, tuỳ theo là roi mây, roi trượng, roi đuôi trâu, roi móc thịt… Bị đánh nhừ tử, và trở lại tù… Sau hai, ba lần hỏi cung và tra tấn, các quan lập biên bản, tức làm bản án, nộp lên hoàng đế. Khi hoàng đế ‘y án’, các quan sẽ thi hành bản án. Có nhiều loại án, hoặc đánh đòn và nộp tiền phạt rồi tha về đặc biệt đối với thường dân và phụ nữ; có khi bị bỏ chết đói trong tù; có khi thả vào chuồng voi cho voi giẫm chết, có khi bị lưu đày xa quê hương và làm công dịch, có khi bị lưu đày hay phát vãng đến tận miền xa xôi, nước độc…. Hầu hết các vị tử đạo, nhất là các giám mục, linh mục, thày giảng, quan chức hành chánh, sĩ quan hay binh lính thuộc quân đội và các chức sắc trong họ đạo, đều bị xử tử. Xử tử bằng hình thức xử giảo, chém đầu, xử trảm, lăng trì, bá đao, xử tử bêu đầu ba ngày, xử tử ném xác xuống sông sâu hoặc biển khơi, có trường hợp còn bỏ đói, chôn sống hay thiêu sống!

Có lẽ tử đạo đau đớn nhất và nhục nhã nhất là trường hợp của thánh linh mục Giuse Marchand Du: Ngài bị xử bá đao ngày 30.11.1835 tại họ Thọ Đúc (Huế). Ngài bị trói vào thập tự, miệng ngậm đầy đá sỏi và khóa lại bằng tre, để khi chịu đau kêu không ra tiếng. Vào giờ xử, lý hình tháo cha Du ra khỏi thập tự, trói vào cọc. Hai tên lý hình một người cầm kìm, một người cầm dao để xẻo ra từng miếng thịt. Hai tên lý hình khác đứng bên đếm từng miếng thịt lắt ra và ghi vào sổ. Sau hồi trống lệnh, lý hình xẻo trán cha Du trước để da phủ xuống che kín mắt của cha, sau đó lấy kìm lôi hai vú ném xuống đất. Lần lượt lý hình lấy kìm bấm và lôi thịt ra từ hai bên mông, cắt đứt ném xuống đất. Lúc ấy cha Du không còn sức nữa, gục đầu xuống và linh hồn về với Chúa. Thấy cha đã chết, tên lý hình cầm đao sắc, kéo đầu lên và chém đứt cổ, bỏ đầu vào thúng vôi. Lý hình xô xác cha xuống đất và tiếp tục cắt thân thể cha ra thành trăm mảnh, hết bổ dọc đến bổ ngang như bổ xẻ một khúc cây. Vì cha Du sống khắc khổ, chịu hành hạ nhiều nên không còn máu chảy ra. Khi xong xuôi tất cả, lý hình gom các miếng thịt vụn lại bỏ vào mấy thúng rồi đem nộp cho quan để vất xuống sông. Còn đầu bỏ vào thùng đem bêu khắp nơi trên đất nước. Đầu cha Du tới Hà Nội ngày 02.01.1836. Sau cùng đầu cha Du được đưa về Huế bỏ vào cối xay nát ra và ném xuống biển. Không ai giữ được một di tích nào của cha Du (DMAH 2, tr.84).

Đọc lại cái chết tử đạo của tiền nhân, đặc biệt cái chết đau thương của cha Du, ai lại không thấy hữu tình, hữu lý, những lời Thánh Thi của Kinh Chiều lễ các Thánh Tử Đạo:

Muôn thử thách, vì Chúa đâu xá kể,

Không hé một lời oán trách thở than,

Chẳng xôn xao, lòng thơ thới yên hàn,

Trước sau vẫn hiền hòa luôn kiên nhẫn.

Hay lời thơ của thánh linh mục Phlippê Phan Văn Minh:

Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ,

Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời

V. NHỮNG DẤU LẠ ÂN THƯỞNG

‘Phúc cho anh chị em, là những kẻ bị người ta gièm pha, vu khống đủ điều và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng phấn khởi, vì phần thưởng dành cho anh chị em thật lớn lao’ (Mt5, 11-12). Vâng, các thánh Tử Đạo tiền nhân của chúng ta đã thấu hiểu lời chúc phúc của Chúa Giêsu hơn ai hết. Các ngài cũng nằm lòng những lời dạy của tổ tiên chúng ta nêu lên ở trên (số I). Lời chúc phúc của Chúa Giêsu và những lời dạy của tổ tiên đã ăn sâu vào xương tủy máu huyết của các ngài, nên các ngài can tràng chấp nhận mọi hy sinh vì đức tin, mặc ai gièm pha, nghi kỵ, vu khống và bách hại. Những trận đòn nhừ tử, những cái chết đau thương không làm các ngài suy giảm đức hiền hoà và nhẫn nhục. Các ngài ý thức rõ các ngài chết cho ai, chết vì ai. Tất cả vì Chúa, vì quê hương, vì dân tộc, vì đồng lúa của Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội Việt Nam, vì phần rỗi của mình và của đồng bào… Các Thánh Tử đạo là những người bỏ mọi sự đi theo Chúa đến tận cùng. Các ngài đáng được Chúa thưởng bội hậu trên thiên đàng, và ngay ở trần thế. Phần thưởng bội hậu của các thánh trên trời, chúng ta chỉ biết hân hoan chúc mừng theo lời Chúa dạy ‘thật bội hậu, thật lớn lao’, và theo mức độ cảm nghiệm hạn chế của chúng ta hay như lời Giáo Hội thường hát:

Thật khôn tả, nguồn vinh quang vô tận,

Chúa dành cho bậc tử đạo anh hùng:

Áo huy hoàng thắm đỏ máu tôi trung,

Đây rực rỡ mũ triều thiên chiến thắng…

(Thánh thi kinh chiều 2 lễ Tử Đạo)

Còn những phần thưởng Thiên Chúa ban cho các thánh Tử Đạo tại Việt Nam ngay ở trần gian, thì ngoài đời sống gương mẫu, ngoài tinh thần can đảm chịu đựng mọi gian lao vì đức tin, và dũng lực chấp nhận cái chết đau thương vì danh Chúa mà chúng ta có thể nhận ra nơi mỗi vị, chúng ta cũng có thể dựa vào những điều lịch sử ghi lại để nêu lên như những dấu chứng tiêu biểu về ‘phần thưởng bội hậu’ mà Thiên Chúa dành để cho các tôi trung của Chúa. Quả vậy, đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, đọc truyện mỗi vị tử đạo, đã được phong thánh hay chưa, là người bản xứ hay người ngoại quốc, chắc chắn không ai dám phủ nhận: ‘những dấu chứng về phần thưởng bội hậu ngay ở trần gian, thật phong phú dưới nhiều dạng thức’. Chúng ta không thể nêu lên hết, dưới đây chỉ là những dấu chứng độc đáo nơi một số vị tử đạo mà thôi:

1. Năm 1663: Ông Alexi Đậu là con trai của một thương gia Nhật, và bà mẹ, người Việt Nam Công Giáo. Bà bị voi dày chết vì đạo. Khi đi ra Pháp trường với người bạn tên là Toma Nhuệ, ông mặc áo lụa trắng mới, bình tĩnh vui vẻ lạ thường. Khi lý hình chém đầu ông Toma, ông Alexi Đậu còn nói vui vẻ: “Bạn tôi đã đi hết đoạn đường và đoạt chiến thắng. Bây giờ đến lượt tôi đi theo”. Rồi ông đưa đầu cho lý hình và hỏi xem đã đúng cách chưa. Khi lý hình đã chém đứt cổ và tung đầu lên, người ta còn nhìn thấy vẻ mặt tươi vui suốt hai ngày liền. Hơn thế, ông Alexi Đậu còn hiện ra với người lính đã chém đầu mình, trong đoàn ngũ các thánh hân hoan, và cám ơn người lính đã giúp mình đạt được ước nguyện (DMAH 1, tr.51).

2. Năm 1658, thời chúa Trịnh Tráng, ông Phanxicô là người Công Giáo tử đạo đầu tiên của Giáo Hội miền Bắc. Ông đã đổ máu ra để làm cho công việc truyền giáo của các thừa sai trổ sinh nhiều kết quả phong phú. Đặc biệt Chúa đã làm nhiều phép lạ thưởng công ngài và các thừa sai không thể kể hết. Sách vở còn ghi: Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám. Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một cô gái tỉnh nghệ an đã cứu người mẹ hấp hối hồi tỉnh và khoẻ lại bình thường. Một người khác đi trong rừng, gặp một cụ già nằm liệt sắp chết, đã cầu khấn với ông Phanxicô, rồi lấy nước làm phép cho cụ già uống, cụ liền khoẻ lại và trở về nhà (DMAH 1, tr.110).

3. Năm 1723, thời chúa Trịnh, cha Bucharelli bị bắt với 9 giáo dân. Cả 10 người bị giam trong chuồng voi. Ngày 11.10, các ngài bị dẫn ra pháp trường. Cha Bucharelli khích lệ giáo dân: “Chỉ còn ít giờ nữa, chúng ta sẽ được tự do, thoát khỏi đời sống trần thế khổ cực này, Thiên Chúa sẽ dắt đưa chúng ta lên trời”. Đoàn người anh hùng bước ra pháp trường cách vui vẻ giữa tiếng kêu của xiềng xích và tiếng cầu kinh. Lương dân, quân lính và lý hình rất bỡ ngỡ về thái độ bình tĩnh vui tươi của các ngài. Tới Đồng Mơ, nơi hành quyết, cha Bucharelli quì xuống đất, cất lời cầu nguyện sốt sắng, 9 giáo dân cũng làm theo: hai tay đưa ra sau, nghển cổ lên cho lý hình làm việc bổn phận. Từng cái đầu một rơi xuống, máu nóng tuôn chảy chan hòa tưới đỏ khu đất. Trời tối sụp lại. Các lý hình vội vã đi về, để lại cho dân chúng tự do thấm máu và tôn kính các anh hùng tử đạo. Những người lương dân chứng kiến vụ việc, nói với nhau: “Đạo Công Giáo là một đạo thánh, không sớm thì muộn, Trời sẽ báo oán cho những người thánh này” (DMAH 1, tr. 158).

4. Năm 1745, thời chúa Trịnh Doanh, cha Tế và cha Đậu dòng Đaminh, bị lính dùng gươm chém đầu ngày 22.1.1745. Dân chúng chen nhau thấm máu đào của hai cha. Tối hôm ấy, xác hai cha được tắm rửa và an táng tại xứ Kẻ Bùi. Nhưng hai xứ Trung Linh và Trung Lễ đòi quyền được chôn cất xác của hai cha. Vì thế, một tuần sau, Đức Giám Mục cho phép đào xác hai cha lên để đưa về Trung Linh mai táng trong nhà thờ. Lạ thay, xác các ngài không bốc mùi thối, nhưng mọi người đều ngửi thấy một hương thơm lạ lùng thoát ra… (DMAH 1, tr.179). Chứng kiến cái chết của cha Tế và cha Đậu, một tên lý hình đã thốt lên: “Rồi đây đói kém và thiên tai sẽ đổ xuống trên chúng ta. Tại sao cứ phải giết các đạo trưởng không hề trộm cắp giết người? Chúng ta đều biết rõ họ là đấng thánh”. Lòng tôn kính các đấng anh hùng tử đạo đã lôi kéo nhiều người đến mộ các ngài để cầu nguyện… Nhiều người đã được ơn lạ. Như trường hợp sau đây mà ông Giuse Can đã thề là chuyện có thật: “Thầy già Khiêm đã kể lại cho tôi nghe truyện lý hình Chân Nhuệ đã bắt cha Đậu trước đây, bị đau ốm lâu dài. Sau khi nghe biết cha Đậu đã chết vì đạo thánh, thì ông ta hối cải cầu xin với cha Đậu phù hộ, ông ta được khỏi bệnh cách lạ lùng. Ông ta đã từ bỏ thần phật đã theo đạo do cha Đậu rao giảng trước đây”. Một trường hợp khác được kể lại là người giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người Công Giáo đến thăm, lặng lẽ nhúng miếng vải đã được thấm máu đào của cha Đậu vào ly nước rồi cho bệnh nhân uống mà không nói gì cả. Bệnh nhân vừa uống hết ly nước thì khoẻ mạnh lại. Ông từ giã chùa và sau xin trở lại đạo (DMAH 1, tr.188-189).

5. Năm 1798, cha Gioan Đạt, người Thanh Hóa, bị trảm quyết và được Chúa cho nhiều dấu lạ xảy ra nhờ lời cha Đạt bầu cử. Nghe vậy, Đức Cha Monger coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài, đã ra lệnh tìm nhân chứng tường thuật lại cuộc tử đạo của cha Đạt. Có ba bài tường thuật đầy đủ. Một bài của y sĩ Huyền Trang, một bài của thày Tăng cùng bị giam với cha, và một bài của thày Benoit Huy. Ngoài ra có nhiều nhân chứng kể lại những phép lạ Chúa ban cho cha Đạt làm, như trường hợp sau đây: Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể lại “Cháu trai của tôi bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Tôi liền đi đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa”. Một người khác cũng làm chứng “Tất cả nhà tôi đều tin chắc rằng cậu Đam được chữa khỏi là do lời bầu cử của cha Đạt” (DMAH 1, tr.244).

6. Năm 1833, thời vua Minh Mệnh, cha Phêrô Tùy bị xử trảm tại Thanh Trì (Hà Nội). Ngay khi đến nơi hành quyết, trời bỗng nhiên u tối vì mây đen bao phủ. Những người lý hình nói với nhau: “Ông này có phải là một vị thần không mà trời bỗng dưng ra tối tăm làm vậy?” Thày Bernard Thu làm chứng về đời sống và cuộc tử đạo của cha Tùy như sau: “Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Tuy nhiên, riêng tôi, tôi tin chắc chắn rằng nhiều lần khi tôi chữa trị cho các bệnh nhân nan y, tôi thường cầu khấn với cha Tùy, chính ngài đã chữa họ lành. Tôi cũng biết chắc một sự kiện khác là đang khi lương dân không làm sao ngăn chặn được sâu phá hoại mùa màng, tôi liền chạy đến cầu nguyện với cha Tùy và rảy nước thánh trên ruộng lúa. Lời cầu nguyện của tôi được chấp nhận. Mọi người sửng sốt thấy ruộng của họ bị sâu phá hoại còn ruộng của tôi thì trổ bông. Tôi cho họ biết lý do và họ ca ngợi Đấng Tử Đạo… Mấy năm sau người ta cải táng và đem xác cha về Pháp. Khi mở mộ ra, người ta ngửi thấy mùi thơm tho dịu ngọt tỏa ra và nước trong bao quanh xác ngài. Nhiều bệnh nhân uống nước này và được khỏi bệnh lập tức. Một số người khác giữ nước này để khi đau sẽ dùng tới” (DMAH 2, tr.50-51).

7. Năm 1837, cha Tân bị xử lăng trì tại Sơn Tây. Khi tiếng chiêng nổi dậy, năm người lý hình tiến ra, chặt đầu cha Tân và phân thây làm bốn miếng. Họ vất ra xa từng miếng một, trừ miếng bụng, họ mổ ra lấy gan của ngài chia nhau mà ăn. Vì họ nghĩ rằng: ‘ăn gan của người chết vì đạo, họ sẽ được thừa hưởng lòng can đảm’. Khi cuộc xử đã bế mạc, một y sĩ Công Giáo, hai người lính và hai chị nữ tu ở lại lượm nhặt các phần thân thể của cha Tân đem về chôn ở làng Chiêu Ẩn. Qua năm 1838, giáo dân xứ Bách Lộc mới cải táng đưa xác cha Tân về chôn trong nhà kho của nhà dòng Mến Thánh Giá. Từ đó giáo dân quen đến viếng và gọi là nhà mồ. Người ta kể rằng: dân chúng tranh nhau thấm máu cha Tân, vì họ nghĩ: ‘Máu bên đạo thiêng lắm, đem về nhà thì quỷ không dám quấy phá nữa’. Người ta còn thuật lại hai phép lạ đã xảy ra do lời cha Tân bàu cử. Một lần có quan quân lùng bắt, nhà dòng mang đồ đạo chạy lên rừng trốn, đêm về nhà thì thấy nhà sáng trưng như có người thắp đèn. Lần khác, có đám nhà cháy, các bà chạy đến cầu nguyện tại mồ cha Tân, lập tức đám cháy ngưng lại, lửa lụi xuống (DMAH 2, tr. 97-98).

8. Năm 1838, cha Phêrô Nguyễn Văn Tự bị trảm quyết tại Nam Định. Khi lý hình vung gươm chém đầu lìa khỏi cổ và tung lên ba lần cho mọi người thấy như tục lệ vốn có, thì dân chúng, Công Giáo và bên lương, chen nhau thấm máu của cha Tự. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người dấy máu của đấng Tử Đạo. Nhiều phép lạ đã xảy ra, chứng tỏ Thiên Chúa muốn cho mọi người ta hiểu của lễ hy sinh mà cha Tự đã dâng lên cho Thiên Chúa, đẹp lòng Ngài biết bao nhiêu. Vừa khi cha được dẫn tới nơi xử, thì trời bỗng dưng tối sầm lại và có ba tràng sấm vang dội. Rồi khi đầu cha rơi khỏi xác, một đoàn chim sẻ từ đâu bay tới đậu chung quanh như để chào đón linh hồn thánh thiện của cha. Một người Công Giáo lấy khăn tay thấm máu cha, lạ lùng thay, ông thấy ba hình in trên vải: một hình cha Tự, một hình tên đao phủ và một hình bối cảnh của pháp trường. Một em bé ngoại đạo mắc bệnh đau bao tử đã lâu năm, người ta cho em uống một ly nước có hòa thêm máu của cha, tự nhiên em được khỏi bệnh hẳn. Cậu Thanh con quan Tuần đã lấy được một miếng vải của cha thánh, nhiều người muốn mua lại, nhưng cậu không bán. Cậu quen nói: ‘Từ khi tôi có miếng vải này, tôi hết bị ma quỷ quấy nhiễu’. Theo lời thày giảng Tín, một tên lính ăn xôi cúng, bị quỷ nhập, thầy lấy nước thánh rảy lên, nó chỉ cười. Ông Loan nhớ ra mình còn giữ được cái kiếm lý hình đã chém cha Tự. Ông ta lấy ngay thanh kiếm ép vào cổ người bị quỷ ám, lập tức anh ta được lành. (DMAH 2, tr.229-230).

9. Năm 1838, y sĩ Giuse Lương Hoàng Cảnh bị xử trảm tại Bắc Ninh. Tới nơi xử, người ta tháo gông của cụ ra, bắt cụ quỳ cúi đầu xuống. Một hồi chiêng vang dội, lý hình chém đầu cụ rơi khỏi cổ. Lương dân xô nhau thấm máu và xâu xé tấm áo cụ mang trên mình, đến nỗi quan và lính không sao cản ngăn nổi. Sau đó người ta chôn tạm xác cụ ở bên sườn đồi. Hai người lương đã ăn cắp xác cụ Cảnh và đòi người Công Giáo phải trả 36 quan tiền mới trả lại. Trên đường đi đến nghĩa trang, người ta bó buộc phải có đò mới qua sông được. Thế mà hôm nay, khi tới sông Câu, đò đã không có, nước lại dâng cao. Những người Công Giáo hộ tống xác cụ Cảnh quỳ xuống sốt sắng xin Chúa cho có đò hay phương thế nào để đưa xác cụ Cảnh qua sông. Lạ thay, nước xuống thật nhanh chưa từng có. Người ta có thể đi qua sông dễ dàng, đem được xác cụ Cảnh tới nơi họ muốn an táng cụ. Mọi người hân hoan cám ơn Chúa và coi đó như một phép lạ Chúa làm để ân thưởng người tôi trung của Ngài (DMAH 2, tr. 234).

10. Năm 1838, cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm bị xử giảo tại Đan Sa. Nếu trong bản án của cha Điểm quan tỉnh vu cáo là ‘ngài đã dùng phù phép kín đáo để dụ dỗ người ta theo đạo’, thì khi ngài vừa bị xử giảo, Thiên Chúa đã cho ngài làm nhiều phép lạ vinh danh Chúa. Khi cải táng cha Điểm về Hướng Phương có xảy ra một sự lạ: một cậu học sinh ăn cắp một miếng xương đốt ngón tay của cha Điểm đem về nhà chơi. Không bao lâu, cậu lên cơn đau bụng kinh khủng. Cha Tự biết chuyện, liền bảo cậu phải đem trả lại đốt xương. Cậu học trò vâng lời đem để trên mộ cha Điểm. Lập tức cơn đau bụng chấm dứt và không bao giờ trở lại nữa. Hai chuyện khác: một gia đình Công Giáo ở gần mộ của cha Điểm. Họ sợ khi có bắt đạo, họ sẽ bị liên lụy. Vì thế một đêm khuya, họ cả gan ra san bằng mộ của cha Điểm. Chỉ hai hôm sau, người chồng bị tai nạn chết cách đau thương. Người vợ hối hận, nhận tội và cầu nguyện xin cha Điểm thứ tha. Cũng tương tự, một nông phu dám dắt trâu đến ăn cỏ và đạp lên mộ của cha Điểm. Trâu của ông bỗng nhiên liệt hai cẳng sau. Ông sợ quá, vội khấn xin cùng cha Điểm, trâu của ông mới đặng khỏi (DMAH 2, tr. 268-269).

11. Năm 1839, ông Toma Nguyễn Đệ bị xử giảo tại Cổ Mễ. Sau khi quân lính buộc dây vào cổ ông Đệ và kéo cho chết nghẹt, dân chúng ùa vào thấm máu và lấy các di tích của ngài. Giữa nửa đêm, một người Công Giáo chạy vào vác xác thánh Đệ đưa về Kẻ Mốt. Ông kể lại câu chuyện xảy ra trong khi ông vác xác thánh như sau: “Tôi vác xác thánh vào lúc nửa đêm. Bất chợt xác ngài tỏa ra ánh sáng chỉ đường cho tôi phải đi về đâu. Khi tới bờ sông tôi rất lo lắng vì tôi biết chắc chắn không có đò vào giờ đó, thì làm sao tôi qua được bờ bên kia? Nhưng trái với ý nghĩ của tôi, lúc đó nước rút xuống rất thấp đến nỗi tôi có thể lội qua bờ bên kia cách dễ dàng. Hơn nữa, khi tôi đến làng Kẻ Mốt, tôi thấy cổng làng đã mở, dù cổng làng luôn đóng chặt vào lúc ban đêm. Tôi vác xác thánh vào nhà thờ và đặt trên bàn thờ. Lúc đó không có đèn sáng trong nhà thờ, nhưng có ánh sáng phát ra lạ lùng từ xác của vị thánh. Thật là một dấu lạ!” (DMAH 2, tr. 372).

12. Năm 1840, thày Toma Toán bị kết án ‘bỏ đói tới chết’. Khi quan biết thày Toma đã chết thật, quan truyền chôn xác thày cùng một chỗ quen chôn xác tù nhân. Ông Phêrô Dần và hai giáo dân khác đã đút tiền để lấy xác thày cho vào quan tài và chôn cất tử tế. Sắp sửa chôn thì có hai người đàn bà đã giúp thày trong tù, chạy đến xin được nom thấy mặt thày lần cuối cùng. Nắp quan tài được mở ra, mọi người kinh ngạc khi thấy mặt thày chiếu sáng với một vẻ đẹp siêu thoát. Họ liền cắt lấy một ít tóc của thày và chia nhau giữ làm kỷ niệm. Thày được chôn cất lại như cũ (DMAH 2, tr. 437).

13. Năm 1842, cha Phêrô Khanh bị xử trảm tại Hà Tĩnh. Người ta kể: hôm xử án cha Khanh trời nắng đẹp khắp nơi. Thế nhưng, lúc 10 giờ sáng, cha Khanh vừa quỳ xuống cầu nguyện trên pháp trường thì tự nhiên trời sập tối, rồi đến khi cha Khanh bị chặt đầu, thì trời lại đổ mưa thật lớn trong vòng ba phút. Người lương đi coi rất đông, thì thầm với nhau: ‘Tại sao trời nắng mọi chỗ, chỉ có nơi xử là mưa?’ Hoặc: ‘Xử cụ đạo có mưa làm vậy là sự lạ!’. Ngay khi cha bị chém đầu, đồng bào ùa vào thấm máu. Tính ra có tới 500 tờ giấy thấm máu cha Khanh. Dù là mùa hè, thân xác của cha Khanh vẫn thơm tho, không mùi hôi thối, nét mặt vẫn tươi tốt, máu chảy ra vẫn đỏ đến nỗi nhiều người tưởng cha Khanh chưa chết. Khi cha Nghiêm hỏi: “Tại sao xác cha Khanh vẫn mềm hè?”. Dân chúng thưa: “Bẩm vì xác thánh thì mềm!”. Xác cha Khanh được an táng trong nhà thờ họ đạo. Một số ơn lạ được ban xuống cho người kêu xin, nhất là việc được sinh con dễ dàng, nhờ lời bầu cử của cha Khanh (DMANH 3, tr. 37-38).

14. Năm 1857, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh bị xử chém tại Nam Định. Trong thời gian từ 1831 đến 1838, khi còn là thày giảng, nhiều lần thầy Phaolô được Đức Giám Mục sai đi Macao đón các thừa sai và lấy đồ về cho nhà chung. Lần cuối cùng đồ hàng bị cướp, thày Phaolô phải lưu lại Macao một năm để thưa kiện và lấy lại đồ đã bị cướp. Rồi trong một đêm Đức Mẹ đã hiện ra nói với thầy: “Phaolô, Phaolô, khi về Việt Nam, con sẽ phải chịu khổ vì đạo”. Thầy không tin, thày tưởng một mỹ nhân nào đến cám dỗ, nên thầy hỏi lại bằng tiếng latinh, tiếng việt, tiếng trung hoa. Hỏi tiếng nào, Đức Mẹ trả lời bằng tiếng ấy: “Ta là Đức Bà Maria”. Dầu vậy thầy Tịnh vẫn không tin cho tới khi bị bắt ở Thạch Tổ năm 1841 (DMAH 3, tr.131).

15. Năm 1858, cha Đaminh Mầu bị chém đầu tại Hưng Yên. Cha nổi tiếng về lòng yêu mến kinh Mân Côi, cha luôn đeo chuỗi Mân Côi bên ngoài cổ. Xác cha Mầu được giáo dân đem về an táng trong nhà thờ Mai Lĩnh tỉnh Hưng Yên. Trước tòa án điều tra năm 1864, nhiều người đã làm chứng được ơn lạ nhờ lời bầu cử của cha Mầu: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà Thượng Lạc, xứ Kẻ Điền quyết đáp mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch; bà Thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884; Ông Cai Thìn, người lương, cũng quả quyết mình được khỏi bị quỷ ám nhờ cầu khấn trên mộ cha Mầu (DMAH 3,tr.197).

16. Năm 1861, ba Đức Cha Vọng (Liêm), Đức Cha Tuấn và Đức Cha Vinh cùng bị trảm quyết một ngày tại Hải Dương. Bản án cấm không một ai được vào thấm máu các ngài. Nhưng khi hành quyết ba đấng xong, các quan đi về hết, dân chúng tự do ùa vào thấm máu của ba Đức Cha và họ được chứng kiến nhiều phép lạ, xảy ra ngay từ lúc hành quyết, như trời tối sập lại, hương thơm tỏa ra từ thân xác của các ngài, những đàn bướm trắng đến đậu trên xác các ngài. Riêng đầu của ba Đức Cha, sau ba ngày bị bêu nắng, đã được giáo dân bày mưu chiếm lại: Giáo dân đãi lính canh ăn một bữa cơm thật thịnh soạn. Trong lúc lính ăn vui vẻ, giáo dân lợi dụng trời đã nhá nhem tối, lấy ba củ chuối thế vào ba cái đầu bọc trong bao bố. Lính không ngờ, họ đem ba củ chuối ném xuống sông. Còn giáo dân, đứng đầu là ông tổng Oánh, lấy áo gói ba cái đầu của ba Đức Cha đem về an táng trong nhà thờ thánh Gioan ở Yên Dật. Các bà dòng xin cái áo quý đó để giữ làm kỷ niệm, nhưng ông tổng Oánh không chịu. Ông đã dùng chiếc áo này cứu được nhiều bệnh nhân nhờ phúc đức của các Đấng tử đạo: Ba đứa con ông lên đậu mùa, ông tổng Oánh lấy chiếc áo phủ lên chúng, cả ba đứa được khỏi bệnh. Ông cũng giữ được một tấm vải thấm máu Đức Cha Vọng: Hễ soi ra ánh sáng, người ta nhìn thấy cây thánh giá. Còn thân xác ba Đức Giám Mục, sau này, người Công Giáo đã chuộc về với giá 100 quan tiền. Đêm cải táng, nhiều luồng sáng tỏa ra từ thân xác các ngài, thật lạ lùng. Hơn thế, dù đã chôn hơn ba tháng rồi, khi đào lên, cả ba thân xác vẫn còn nguyên vẹn, tươi tốt và tỏa hương thơm ngào ngạt (DMAH 3, tr.290).

17. Thời gian 1883-1886, phong trào Văn Thân và Cần Vương nổi lên tàn sát đạo Công Giáo cách dã man nhất trong lịch sử, từ Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế… đổ vào miền Nam. Nhưng thiệt hại nhất là Bình Định: có 8 thừa sai, 7 linh mục, 270 nữ tu, 24.000 giáo dân bị giết chết. Ngoài ra toà giám mục, 2 chủng viện, 10 tu viện, 17 nhà mồ côi, đều bị tàn phá. Các họ đạo cũng chung số phận, chỉ có hai họ đạo thoát nạn. Chính trong cuộc tàn sát này, Đức Mẹ đã hiện ra cứu chữa dân làng Trà Kiệu (DMAH 3, tr. 336-338)

* * * * *

Đức Giáo Hoàng Gregoriô XVI (1834-1846) được nhiều sử gia như Goyau và Schmidlin tặng khen là ‘vị giáo hoàng truyền giáo của thế kỷ XIX’. Ngay khi vừa lên ngôi, ngài đã quan tâm đến những cuộc bắt đạo đẫm máu tại Việt Nam và Trung Hoa. Riêng với Giáo Hội non trẻ tại Việt Nam, đức Grêgoriô XVI đã phát động một chiến dịch có tầm mức hoàn vũ, xin mọi Kitô hữu cầu nguyện đặc biệt cho giáo dân được kiên trì trong mọi thử thách. Đồng thời, năm 1840, ngài viết thư yên ủi và khích lệ tinh thần can đảm sống đức tin, tuyên chứng đức tin và chết vì đức tin của các linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam. Ngài viết “Các con thân yêu, các con là những người đã can đảm không chối đạo, các con đừng bao giờ nản lòng vì những khốn khổ, hãy ngước mắt trông lên trời nơi dành cho những người chiến thắng đạt được triều thiên bất tử. Ngày gian khổ thì vắn vỏi, nhưng theo sau bao nhiêu an ủi và phần thưởng dồi dào và hạnh phúc trường sinh đang chờ đợi chúng con. Các con sẽ không phải chịu bắt bớ hành hạ tàn nhẫn mãi như vậy đâu. Sẽ có ngày, các con được lau sạch nước mắt, được thoát khỏi cơn bão táp khủng khiếp và sẽ được an bình phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Lời của Đức Thánh Cha Gregoriô XVI đã tóm tắt những gì chúng ta trình bày trong chương sách này. Ngài cũng mở ra cho chúng ta một viễn tượng tương lai ‘sau cơn giông trời lại sáng’, ‘sau gian lao thử thách sẽ có trời mới đất mới’ hay như lời Chúa chúc phúc: “Phúc cho anh chị em khi bị người ta gièm pha, vu khống, bắt bớ và giết hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Nói một cách khác sát với chủ đề của bài viết: tiếp theo những gièm pha, vu khống, hình nhục và chết nhục là những dấu lạ ân thưởng tại thế, báo hiệu ‘phần thưởng bội hậu trên trời’. Cũng có thể nói vắn gọn theo văn hóa Việt Nam: “Thiên Đạo chí công”, Đạo Trời thật công bằng!.

——————

(1) Nguyễn Đồng Chi, ‘Kho tàng truyện Cổ Tích’ 1, tr. 7-13.

(2) Nguyễn Đồng Chi, sd 4, tr. 211-223.

(3) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr.12-15.

(4) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 148-154

(5) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 105-110.

(6) Phạm Đình Tân, ‘Tâm Hồn Việt Nam’ (1988), bài ‘Nguyễn Du, thi sĩ đau khổ’, tr.54.

(7) Hồng Lam, ‘Lịch sử đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, 1944, Đại Việt xuất bản, Huế, tr.23-24. Đoạn này được Trịnh Việt Yên trưng lại trong cuốn ‘Máu Tử Đạo Trên Đất Việt Nam’. 1949, tr. 19-20. Có hai việc đáng tiếc to lớn và tai hại là ‘tranh dành vấn đề quyền hành và cãi nhau về vấn đề nghi lễ thờ cúng tổ tiên’ xem Phan Phát Huồn, ‘Việt Nam Giáo Sử’ I, tr. 188-200.

(8) Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng ba cuốn 1, 2, 3. Trong bài này tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH, 1, 2, 3, tr….). Chúng tôi trích dẫn hoặc dựa theo bộ sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn, chúng tôi yên tâm về nguồn liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã nghiên cứu và xử dụng.

(9) Nguyễn Khắc Xuyên, ‘Để Hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII’ C.A. 1994, tr. 52-54.

(10) Trịnh Việt Yên, sd, tr. 26.

(11) Đỗ Quang Chính sj, ‘Hòa mình vào xã hội Việt Nam’, nxb Tôn Giáo, 2008, tr.222. Cao Kỳ Hương, ‘Đạo Hiếu của người Công Giáo’, Hà Nội, 2010, tr. 42+48-54. Phan Phát Huồn, sd, tr. 196-200.

(12) Trần Trong Kim, ‘Việt Nam Sử Lược’, 2, tr.186. xem Phan Thiết, ‘Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt’ 1995, tr.345.

(13) Toan Ánh, ‘Tín Ngưỡng Việt Nam’ quyển hạ, tr. 17-18.

(14) Xem: Vũ Thành, sd 3, tr.330-339, Phan Phát Huồn, sd 2, tr.512-519. Chúng ta có thể đọc lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim: “Nước ta mà không chịu khai hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông nổi càn dở, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru?” (sd 2, tr.289).

(15) Phan Phát Huồn, sd 2, tr.513

Thánh Anê Lê Thị Thành

Mẹ gia đình (+1841)

MỪNG LINH MỤC FX. ĐINH TRỌNG TỰ

MỪNG LINH MỤC FX. ĐINH TRỌNG TỰ

NHÂN DỊP 45 NĂM LINH MỤC

14/5/1968 – 14/5-2013

 

 

 

 

Đi khắp thế gian không ai có thể kiếm được ngôi nhà xứ nào cũ kỹ chật hẹp
nhỏ bé như phòng của cha. Một căn phòng bằng gỗ đơn sơ mục nát, chẳng có
gì ngoài chiếc giường bé nhỏ, chuỗi môi khôi và cuốn sách kinh trên bàn.

Trọng kính cha sở kính mến của chúng con.

Trước hết, anh chị em chúng con xin hân hoan chúc mừng  45 năm Linh mục của cha!

Kính thưa cha,

Mỗi độ tiết trời sắp vào hạ, trăm hoa đua nở, cũng là thời gian Chúa thương ban cho mọi người chúng con quy tụ hành hương về bên Mẹ, mừng kính Mẹ, bởi Mẹ là cánh hoa tuyệt mỹ nhất trong vườn hoa ngát hương muôn sắc của Thiên Chúa.

Kính thưa cha,

Trong bầu khí linh thiêng của của đêm hành hương 13/5 hôm nay, cũng lại là dịp kỷ niệm 45 năm hồng ân linh mục của cha, một người cha kính yêu và rất mực từ nhân của chúng con, chúng con xin hết lòng cảm tạ ơn Chúa và xin chúc mừng cha.

Kính thưa cha,

Chúa đã gọi Cha đi tu 1 cách nhiệm mầu. Cụ cố thân mẫu của cha đã mất đi khi cha chỉ vừa tròn 4 tháng. Rồi cụ cố thân sinh của cha cũng mất khi cha được 8 tháng. Cậu bé Phanxico không biết mặt cha mẹ, được người bà con bồng ẵm, đi xin bú nhờ hàng xóm để sống qua ngày. Khi được 10 tuổi, cậu Phanxico đang mò cua bắt ốc ngoài ruộng, được Chúa đoái thương nhìn đến. Cha sở cho gọi về bảo đi vô nhà dòng, Cậu vui vẻ đáp lời, rồi từ bỏ giỏ cua, giỏ ốc, mặc 1 bộ quần áo chùng trắng và con đường đi tu đã bắt đầu từ đó.

(Từ đó, vâng từ đó, Chúa đã gọi con…)

Ngày 14-5 – 1968 thầy Phanxico Xavier Đinh Trọng Tự được Chúa thương ban cho hồng ân linh mục, rồi về làm giáo sư chủng viện vài năm. Sau đó làm hiệu trưởng trường trung học Đồng Tiến Cần thơ và làm Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ của giáo phận cho đến năm 1975.

Sau đó cuộc đời của cha đã đi trong18 năm những tháng ngày đen tối nhất. Cha sống cuộc đời vất vả và thiếu thốn, sức khỏe ngày càng yếu dần, thời gian này cha đã phải cắt đi 2/3 dạ dày.

Đến năm 1994 được phép trở về và coi sóc họ đạo chúng con. Một họ đạo truyền giáo hoang sơ nghèo khổ. Và cũng từ đó, chỉ bằng lời cầu nguyện và những cái bong bóng , cha đã làm cho nhiều người biết Chúa và họ đạo của chúng con bắt đầu thay da đổi thịt . Cũng từ đó số giáo dân ngày càng tăng.

Đến nay là đúng gần 20 năm, một chặng đường dài gần ¼ thế kỷ, Cha đã ở với chúng con gần như cả cuộc đời cha. Cha sống với chúng con, cầu nguyện cho chúng con,  hướng dẫn và dạy dỗ chúng con. Nhờ bàn tay của cha mà hồng ân Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống cho họ đạo chúng con muôn vàn ơn lành .

Cha đã xây dựng 2 giáo điểm truyền giáo thành 2 giáo xứ có nhà thờ, có tháp chuông, có đài Đức Mẹ, và cả nhà xứ cho 1 họ đạo, nhà các nữ tu cũng rất khang trang. Hiện nay cha đang chuẩn bị có 1 giáo điểm tại Cả Lan xa xôi nữa.

Cha đã xây nhà cho Chúa, cha đã mua đất cho Chúa, cha đã trao tặng tình thương cho con cái Chúa, giúp vô điện, vào nước, làm đường đi, xây nhà tình thương, làm cầu bắc qua sông, làm nhà vệ sinh, cho học bổng, tạo điều kiện cho chúng con học hành, Cha muốn cho mọi người được biết Chúa, được sung túc, được hạnh phúc, được đầy đủ… Cha đã mở phòng phát thuốc khám bệnh miễn phí, cho chúng con đi tham quan nhiều nơi, đặc biệt cha luôn thao thức khắc khoải muốn cho chúng con sống tốt hơn, yêu Chúa và yêu nhau nhiều hơn. Vì thế cha luôn cầu nguyện cho chúng con đêm ngày….

Dù tuổi cao sức yếu, nhưng cha vẫn không ngại vất vả sớm khuya, ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, làm việc ngoài đường và đi karaoke(*) xin nhờ người về giúp đỡ cho chúng con. Sáng sớm cha đi, ngủ ngồi trên xe, đêm tối cha về, ăn vội trái chuối, rồi chợp mắt, để rồi sáng mai có ai cần giúp đỡ là cha lại đi ngay. Vì thế người ta mới gọi cha là siêu, không phải là siêu nhân người sắt, nhưng là siêu mỏng. Nhưng đối với chúng con, cha là siêu tận tụy, siêu phục vụ, siêu khiêm nhường, siêu đạo đức, siêu thánh thiện và siêu hiền lành bác ái. Nhờ vào phước đức và sự tận tình hy sinh giúp đỡ của cha, chúng con mới có được cuộc sống như ngày hôm nay, và con em chúng con có rất nhiều người đã được học hành thành tài, nhờ vào sự giúp đỡ của cha. Thật hạnh phúc biết bao khi chúng con luôn được ở trong trái tim cha.

Với cha, tất cả là cho Chúa và cho chúng con, còn riêng đời sống cha, cha suốt ngày chỉ mặc duy nhất một bộ đồ pijama cũ kỹ, ai cho gì cũng không lấy, không muốn mặc đồ mới. Ăn cơm chỉ 1 chén duy nhất, vì bao tử còn đâu nữa mà ăn. Không cao lương mỹ vị, không mâm cao cỗ đầy, chỉ chén cơm trắng và chút thức ăn của ngày hôm qua hâm nóng lại. Sáng nào cha cũng thức dậy thật sớm, thắp nhang các tượng Đài Đức Mẹ, Thánh Giuse, Cha Diệp, rồi vào nhà thờ quỳ gối giang tay đọc kinh cầu nguyện thật sốt sắng cho các linh hồn và cho chúng con. Cha nói cha thích làm ôsin cho Đức Mẹ mỗi ngày. Hạnh phúc biết bao được làm con của cha và sống trong lời cầu nguyện của cha đêm ngày.

Riêng nhà cửa của cha, dù cha xây cho chúng con biết bao ngôi nhà, nhưng giờ đây nhà xứ của cha là nhỏ bé nhất họ đạo. Đi khắp thế gian không ai có thể kiếm được ngôi nhà xứ nào cũ kỹ chật hẹp nhỏ bé như phòng của cha. Một căn phòng bằng gỗ đơn sơ mục nát, chẳng có gì ngoài chiếc giường bé nhỏ, chuỗi môi khôi và cuốn sách kinh trên bàn. Phòng không máy lạnh, không tủ lạnh, không quạt máy, không máy giặt, không toillet, không tiện nghi, không chăn êm nệm ấm, phòng nhỏ bé bằng tôn cũ kỹ, nóng bức… Cuộc sống của cha là như vậy đó. Làm sao chúng con có thể lại không đau lòng với hoàn cảnh sống của cha.

Tất cả thời gian, tất cả tiền bạc, tất cả sức lực… cha dành hết cho Chúa và cho chúng con. Có đồng nào cha cũng không dám ăn, không dám mặc, cha tiết kiệm từng đồng xu để dành cho chúng con. Cha hao mòn đi mỗi ngày vì chúng con. Chúng con  thật xúc động và ghi ơn công đức của cha.

Ai đến xưng tội cha cũng sẵn sàng ngồi tòa bất cứ lúc nào, dù là lúc đang lu bu hay nghỉ trưa, cha mặc áo dòng vào, ra nhà thờ ngồi tòa giải tội. Cha tôn trọng họ đến thế là cùng.  Ai có oan trái bất đồng đến cha hòa giải, nói chuyện với cha một lúc sẽ cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng thanh thoát, bao ân oán thù ghét ghen nặng nề như tan biến hết. Vì thế cho nên có biết bao người gần xa thích về bên cha để nghe cha dạy dỗ khuyên răn và chỉ dẫn. Thật bình an thư thái khi được ngồi nói chuyện với cha.

Kính thưa cha,

Cha hết lòng mong ước chúng con yêu mến Chúa và đi nhà thờ. Vì là xứ truyền giáo và là những người bổn đạo mới, niềm tin của chúng con còn yếu kém. Chúng con hay ươn lời, làm biếng, giận dỗi nhau mà bỏ nhà thờ, bỏ Chúa. Cha đã hết sức đau khổ và nhiều lần nói rằng: “Các  con hãy tin yêu mến Chúa nhiều hơn, đừng bỏ CHúa, đừng giận dỗi, đừng sống bất hòa với nhau. Nếu các con muốn, cha sẽ quỳ xuống xin lỗi các con thay cho anh chị em. Miễn các con đừng bỏ Chúa”. Ôi những lời nói xuất phát tự tận đáy lòng cha, tận trong trái tim cha. Làm sao phận làm con mà nghe những lời ấy cho đành lòng.

Riêng với bề trên, cha hết lòng vâng phục và kính trọng. Đối với anh em linh mục, cha luôn xây dựng đoàn kết và hòa giải. Khi có ai yếu đuối lỗi lầm cha hết lòng cảm thông thương yêu nâng đỡ. Lời cầu nguyện của cha thật hữu hiệu cho những người đang gặp khó khăn. Không bao giờ và không ai có thể nghe được cha nói xấu về bất cứ ai một điều nào. Cái gì cũng tốt, tốt, rất tốt, tốt hết. Cha thật tốt lành.

Kính thưa cha, trong dịp lễ 45 năm mừng Hồng Ân Thánh Chức Linh mục của cha, chắc chắn rằng cha có nhiều lý do để cảm tạ Thiên Chúa, xin cho chúng con được hiệp ý tạ ơn với Cha. Và chúng con cũng có lý do để cảm tạ Thiên Chúa nữa:

– Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục thật thánh thiện, đạo đức.

–  Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục giầu lòng thương xót tất cả  mọi người, nhất là những ai neo đơn nghèo khổ.

– Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục sống khắc khổ, hy sinh sống nghèo nàn đến quên mình vì mọi người.

Cũng ngày này vào năm qua, tại nơi thánh đường này, Đức Giám Mục giáo phận Stephano Tri Bửu Thiên chủ sự thánh lễ đồng tế và trong bài giảng, ngài đã ca tụng Cha là Đức Gioan Phaolô III(*). Và tước hiệu của Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô III này là “Totus Tuus” Tất cả những gì của con đều là của mẹ. Cha đã nói là cha xin chọn Mẹ là Mẹ của cha. Cha đi đâu cũng đến trước tòa Mẹ và nói thưa Mẹ con đi, khi về cha cũng nói: chào Mẹ con mới về.

Kính thưa cha, dù có nói hoài, nói mãi cũng không hết được những hy sinh và nhân đức tốt lành của cha, Nhưng chúng con biết cha rất ghét những lời ca tụng cha, cha không muốn ai nói đến thành tích của Cha. Cha thường nói: tôi chỉ là ông già hai lúa siêu mỏng, chẳng làm được thành tích gì, mà có làm được gì cũng chính là Chúa và Mẹ Maria, thánh Cả Giuse làm trong tôi.

Hôm nay mừng lễ cha, là một cơ hội để chúng con nhìn lại. Thời gian đã 20 năm trôi qua chúng con được sống gần Cha, được cha chở che và yêu thương hướng dẫn dạy dỗ đi lên. Cha tốt lành là như thế đó, còn chúng con đã biết bao lần quên công ơn của cha, đã biết bao lần chúng con vô ơn bạc nghĩa với cha; chúng con đã lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, chúng con sống bất hòa, sống hận thù, sống chia rẽ, chúng con kiêu căng, muốn làm nổi, muốn cái tôi của mình to lên, muốn thống trị người khác, chúng con đã không làm đúng những gì cha  chỉ dạy. Chắc hẳn làm cha rất xót xa và đau lòng. Thì hôm nay đây, đứng trước cha, chúng con cúi đầu xin cha rộng lượng tha thứ và đừng bỏ rơi chúng con. Bởi vì ngoài cha, chúng con không biết trông cậy vào ai.

Từ đây, chúng con xin hứa, sẽ sống tốt hơn, sẽ nghe lời cha dạy, bằng cách tin kính mến Chúa nhiều hơn và yêu thương đoàn kết với nhau hơn, để cha bớt buồn, bớt khổ, để cha an tâm vui vẻ mà ăn thêm miếng cơm lấy sức và cho con đỡ nghẹn lòng.

Cuối cùng, chúng con xin kính chúc cha nhiều ơn Chúa, ơn Mẹ. Cha luôn mạnh khỏe, tràn đầy ân sủng và bình an,  để tiếp tục dấn thân trên con đường truyền giáo phục vụ Chúa và ở mãi với chúng con.

Toàn thể họ đạo chúng con xin cúi đầu cảm tạ và tri ân cha.

Chúng con xin kính dâng lên cha chút quà nhỏ thể hiện tấm lòng của chúng con. Xin cha vui nhận cho chúng con.

Ánh Minh Đăng

– Giáo xứ cha đang phụ trách là xứ truyền giáo Rạch Súc, giáo phận Cần Thơ
– (*) đi “karaoke” tức là đi ca thán, đi than vãn, đi hát ỉ ê cho người ta thương mà giúp đỡ giáo xứ truyền giáo nghèo.

– (*) Đức Gioan Phaolô III là danh hiệu Đức Giám Mục giáo phận Stephano Tri Bửu Thiên dành tặng ngài.

– Ngài là tuyên úy trước 1975, sau phải đi học tập 12 năm, và quản chế 18 năm… Ngài nổi tiếng về đạo đức, từ nhân, khiêm tốn, hy sinh quên mình và truyền giáo.

Người phụ nữ trẻ Africa bò 2.5 dặm trên đường đi dự lễ Chúa Nhật.

Người phụ nữ trẻ Africa bò 2.5 dặm trên đường đi dự lễ Chúa Nhật.

Hội các chị em hèn mọn của những người già bị bỏ rơi tại Chissano, nước Mô-Dăm-Bích đã đón về nhà của họ một phụ nữ 25 tuổi tên là Olivia. Chị tuy chưa được rửa tội vào lúc đó và không có đôi chân để đi, nhưng đã bò 2.5 dặm mỗi ngày Chúa Nhật để tới dự thánh lễ.

Theo cơ quan truyền thông ở Phi Châu, các nữ tu nói rằng, một ngày kia, họ nhìn thấy từ phương xa có cái gì di động ở trên mặt đất, và họ đã tới gần để nhìn xem. Trước sự vô cùng ngạc nhiên của họ, đó là một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật đang bò trên đường đi dự lễ.

Các nữ tu nói: Chúng tôi có thể nói chuyện với chị Olivia nhờ một người phụ nữ đi đường, và thông dịch qua  ngôn ngữ Bồ Đào Nha, người phụ nữ này nói với chúng tôi trong tiếng thổ âm địa phương. Mặc dù cát trên đường nóng cháy lòng bàn tay của chị vào thời gian nóng nhất trong năm (ở nước Châu Phi khi hậu sa mạc rất nóng), nhưng người phụ nữ này đã bò lết trên đường tới tham dự thánh lễ, chứng minh lòng trung thành và đức tin sắt son của chị.

(Chị Olivia bò đi lễ. Hình của cơ quan truyền thông Avân)

Người phụ nữ trẻ này đã nhận phép rửa tội nhờ một người dạy giáo lý thường xuyên tới viếng nhà của chị. Sau khi chị được rửa tội, một người ân nnhân của các nữ tu hèn mọn đã dâng tặng một chiếc xe lăn cho chị Olivia.

Lời  bàn:

Chúng ta đang sống trong năm đức tin, khi mà nền văn minh thời đại a-còng @ với các tiện nghi của xe hơi, điện tử, điện thoại thông minh, máy IPAD v.v… đã dần lối kéo con người rời xa Thiên Chúa. Thật cảm phục vẫn còn có những người như chị Olivia với niềm tin tuyệt đối vào cho Chúa và nhất là niềm tin vào Thánh Lễ. Chị không có đôi chân, nhưng trái tim đức tin của chị thật lớn lao dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể. Xin Chúa chúc lành cho chị.

Thu Linh (dịch)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lời chứng của Nick Vujicic

Lời chứng của Nick Vujicic

Đăng bởi lúc 3:57 Sáng 7/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (07.04.2013) – Facebook – Tôi tên là Nick Vujicic và tôi xin ca tụng Chúa vì Người đã dùng chứng tá của tôi để đánh động hàng ngàn con tim trên khắp thế giới !

Tôi được sinh ra không tay không chân, và về mặt y học các bác sĩ không thể giải thích “khuyết tật” bẩm sinh này. Như các bạn có thể hình dung, tôi đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức.

“Anh em thân mến, anh em hãy tuyệt đối hân hoan khi phải chịu thử thách tứ bề.” Xem nỗi khổ đau và sự tranh đấu của mình là niềm hân hoan tuyệt đối ư ? Vì cha mẹ tôi là người Kitô giáo, và cha tôi còn là mục sư trong hội thánh chúng tôi, nên cha mẹ tôi biết rất rõ câu trên.

Dù sao, vào ngày 4 tháng 12 năm 1982 tại Melbourne (Úc Châu), cha mẹ tôi không thể nào nghĩ đến ba từ “Ngợi khen Chúa !” được. Đứa con đầu lòng của hai vị được sinh ra không tay chân ! Hai vị không có thời gian và cũng không được báo trước để chuẩn bị đón nhận điều này.

Các bác sĩ cũng ngỡ ngàng và không thể nào giải thích nổi ! Cho đến bây giờ cũng chẳng có lý do nào về mặt y học để giải thích tại sao điều này lại xảy ra và bây giờ thì tôi lại có một em trai và một em gái được sinh ra bình thường như bao nhiêu trẻ em khác.

Cả hội thánh khóc thương cho số phận của tôi và cha mẹ tôi thì bị mất tinh thần hoàn toàn. Mọi người đều đặt câu hỏi: “Nếu Chúa thật sự là Thiên Chúa Tình Yêu, vậy tại sao Người lại có thể để cho một sự dữ như thế xảy ra, Người không nhằm vào bất cứ ai khác, mà lại là đúng vào người Kitô giáo nữa chứ ?”

Cha tôi nghĩ là tôi sẽ sống không được bao lâu, nhưng các kết quả xét nghiệm cho thấy tôi là một bé trai khỏe mạnh, chỉ có hơi thiếu tay chân mà thôi.

“Và chúng ta biết rằng trong mọi sự Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho những người yêu mến Người.” Câu này đi sâu vào lòng tôi và làm tôi xác tín rằng nếu những “sự dữ” như thế này xảy đến trong đời chúng ta thì

không bao giờ là do may rủi, tình cờ hay trùng hợp ngẫu nhiên mà ra.

Tôi hoàn toàn bình an khi biết là Chúa không bao giờ để xảy ra điều gì trong cuộc đời mình mà lại không có mục đích tốt cho nó. Tôi hoàn toàn phó mình cho Chúa ở tuổi 15 sau khi đọc phúc âm thánh Gioan đoạn 9. Đức

Giêsu nói lý do ngưòi đàn ông sinh ra bị mù từ lúc lọt lòng mẹ “là để vinh quang của Chúa được thể hiện qua ông ấy.“ Tôi thật sự tin là Chúa chữa lành cho tôi để tôi có thể trở thành một nhân chứng đắc lực cho Quyền năng tuyệt diệu của Người.

Sau đó, tôi được ban cho ơn khôn ngoan để hiểu rằng, khi chúng ta cầu xin một điều gì, nếu đó là ý Chúa, thì nó sẽ xảy ra vào thời điểm Ngài muốn. Nếu Chúa không muốn để điều đó xảy ra, thì tôi tin là Người có một dự định khác tốt đẹp hơn cho tôi.

Bây giờ tôi hiểu là vinh quang Người được thể hiện khi tôi như thế nào thì Người dùng tôi như thế ấy và theo những đường lối mà Người không thể dùng được nơi những người khác.

Năm 23 tuổi (2005) tôi tốt nghiệp bằng cử nhân Thương Mại, với chuyên môn là Kế hoạch Tài Chính và Kế Toán. Tôi cũng là một diễn giả nhiệt thành và tôi rất thích đi ra ngoài để chia sẻ câu chuyện và chứng tá của tôi

khi có dịp. Tôi đã đi nói chuyện nhiều để làm bạn với các sinh viên học sinh và động viên tinh thần họ qua những đề tài đang làm cho các thanh thiếu niên ngày nay ưu tư. Tôi cũng là diễn giả hay đến nói chuyện với các hội đoàn. Tôi có đam mê đến với giới trẻ và Iuôn sẵn sàng làm bất kỳ những gì Chúa muốn tôi làm, và Người đưa tôi đi đâu thì tôi cũng xin theo.

Tôi có nhiều ước mơ và cũng đề ra nhiều mục tiêu mà tôi phải đạt được trong cuộc đời. Tôi muốn trở nên người làm chứng tốt nhất theo khả năng mình cho Tình Yêu Chúa và lòng Trông Cậy.

Tôi muốn trở nên một diễn giả quốc tế có khả năng khích lệ mọi người và làm ích lợi cho cả người trong Kitô giáo lẫn người ngoài Kitô giáo. Tôi muốn được độc lập về tài chính vào năm 25 tuổi, nhờ vào đầu tư địa ốc. Tôi muốn chế biến một chiếc xe để tôi có thể tự lái được, và được phỏng vấn cũng như được chia sẻ câu chuyện của tôi trên chương trình “Oprah Winfrey Show”!

Một trong những ước mơ nữa của tôi là viết nhiều sách ăn khách nhất và tôi hy vọng viết xong quyển sách đầu tiên của tôi trước cuối năm nay. Sách sẽ có tựa đề là: “Không tay, không chân, không lo âu !”.

Tôi tin rằng nếu các bạn mong muốn và có đam mê làm một điều gì, và nếu đó là ý Chúa, thì các bạn sẽ thực hiện được điều này vào lúc thích hợp. Với bản chất con người, không vì lý do nào cả, chúng ta luôn đặt giới hạn cho mình. Tệ hơn nữa là chúng ta đặt giới hạn cả cho Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Chúng ta để Chúa vào một cái “hộp” rồi.

Xin Chúa ban phúc lành cho các bạn, Hiệp thông trong Chúa Kitô.

Nick Vujicic

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Tác giả: Hoàng Ngọc Tấn

nguồn:thanhlinh.net

Tôi còn nhớ năm 1979, lúc đó tôi đi học chuyên ngành để ra đi làm. Trong chương trình học có một môn học mà bài học mở đầu nó mang một tựa đề rất dài, mãi cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ từng chữ từng lời: “ Không phải Thượng đế tạo nên con người nhưng chính con người đã dựng nên Thượng đế: Thượng đế chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.” Để truyền đạt bài học này, người ta đã mời một người thầy của một trường lớn ở xa về. Bằng một kiến thức rộng, nhất là về khoa học, người thầy đó đã thuyết phục các học viên rằng không có thượng đế hiện hữu và thượng đế chỉ là sản phẩm trí tưởng tượng của con người.

Không biết bây giờ người ta đã thay đổi chương trình học hay chưa, nhưng những năm sau năm 1975 thì những ai từng học đại học và trung học nghề đều phải trải qua cái bài học này. Những người trẻ chuẩn bị đi vào đời đã được trang bị những kiến thức như vậy.  Lúc đó bản thân tôi cũng chưa có gì gọi là niềm tin; chỉ có một lòng tự ái nổi lên vì mình cũng là dân Công giáo, là Catholic vậy mà người ta bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái vũ trụ này; thế thì những truyền thống Công giáo mà mình đang thực thi đây là vô nghĩa sao? Và lúc đó thầm trách mình sao chưa đủ kiến thức để thấu đạt mọi vấn đề.

Đó là chuyện đã qua của ngày xưa.

Lúc đó sống ở môi trường tập thể. Sinh hoạt văn hóa những năm đó thật nghèo nàn, muốn tìm cái gì đó đáng đọc thì cũng chẳng có gì để mà đọc. Gia tài tình cờ may mắn có được quyển Tân Ước nho nhỏ mà truớc năm 1975 người Tin Lành thường hay phát không trong các bệnh viện. Thế rồi những lúc rảnh rỗi cũng cầm lên đọc, và đọc cũng chỉ để mà đọc. Đọc dần thuộc rất nhiều, nhận ra sự giống nhau và khác nhau giữa các quyển tin mừng, nhất là sự khác biệt của tin mừng thánh Gioan. Sau này mới được biết trong giáo hội đã có tư tưởng ví tin mừng thánh Gioan như cánh phượng hoàng bay vút trên cao. Có lẽ vì là người môn đệ được Chúa thương yêu nhiều nhất nên điều này đã góp phần để thánh nhân cảm nhận được cái sâu thẳm, cao vời mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và toát lên trong quyển tin mừng thứ tư tuyệt vời này. Và một ngày nọ trong lúc đọc đến tin mừng thánh Gioan đoạn 13:13 mà nguyên văn được dịch là: ” Các con gọi ta bằng Thầy bằng Chúa, các con nói phải vì ta chính thật là như vậy.”. Có thể đoạn tin mừng ấy đã đọc qua nhiều lần nhưng chỉ lần đó một cảm giác kỳ lạ tràn ngập tâm hồn mình, một sự giật mình để thốt lên trong lòng rằng: Vậy là Chúa có thật sao?; và cũng tự mình trả lời:”Phải rồi Chúa là có thật rồi.” Nếu ai từng đọc tin mừng của thánh Gioan; đọc một mạch từ đầu chương 13 đến cuối chương 17, tức là từ đầu đến cuối bữa tiệc ly sẽ luôn cảm nhận nơi những đoạn tin mừng này toát lên cái man mác của tâm tình biệt ly, cái vời vợi của bao nhiêu nổi niềm mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ cùng các môn đệ của Ngài-những người đã đi theo Chúa với một tấm lòng mà có thể chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Ngài. Một chí sĩ đã có câu rằng: “Con chim sắp chết hót tiếng bi thương. Con người sắp mất nói lời tâm huyết.” Một lát nữa đây Chúa Giêu Ngài sẽ một thân một mình bước vào cuộc thương khó, còn các môn đệ thì tan tác. Rồi đây các ông sẽ không còn được nhìn thấy Chúa thường ngày nữa. Thầy trò sẽ không còn cùng nhau rong ruổi trên những nẻo đường của đất Palestina để truyền giảng tin mừng nữa rồi. Bữa tiệc này là bữa tiệc sau cùng, bữa tiệc của biệt ly. Chính trong bối cảnh đó Chúa Giêsu đã khẳng định lại một điều quan trọng mà ơn của Chúa vào thời điểm đọc đoạn tin mừng đó đã tuôn đổ, khai sáng, đánh động để lòng mình cảm nhận ra một cách trọn vẹn rằng Chúa là có thật và để những năm tháng sau này khi đọc hoặc nghe đoạn tin mừng trên lòng lại bồi hồi, rưng rưng nhớ lại là từng có một thuở Chúa đã dùng đoạn tin mừng trên để cho mình sự nhận biết về Ngài.

Và những dòng này đã được viết ra:

“ Con muốn khóc vì tràn đầy vui sướng

Con muốn ca lên vang dậy cả núi đồi

Con thổn thức vì tin, yêu, hy vọng

Con xao xuyến tâm hồn vì Chúa đã thương con.”

Trong đời sống tập thể những năm tháng ấy, tôi cũng chứng kiến có người từng hung hăng trong vô tín, thành khẩn, lâm râm với nén nhang trên tay trước một chuyến xe đi xa mà có lần đã suýt chết. À thì ra trước cái may rủi mong manh của đời người, trước cái chết người ta cũng run sợ; cũng cảm nhận ra cái gì đó linh thiêng vượt trên giới hạn của con người.

Niềm tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là món quà cho không của Ngài dành cho con người. Niềm tin cũng là cả một tiến trình trải nghiệm, cảm nghiệm qua những biến cố, những sự kiện xẩy ra trong cuộc đời của mỗi người, rồi soi rọi nó dưới ánh sáng của tin mừng, của lời Chúa. Niềm tin cũng sẽ chỉ đến đối với những ai trải lòng mình ra một cách đơn sơ, chân thành để đón nhận.

Vậy thì trước những luận thuyết phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa cho rằng Ngài không tồn tại trong cái vũ trụ này bạn và tôi ta cùng cứ trải lòng mình ra để đón nhận, để tìm hiểu về cuộc đời của một con người mang tên là Giêsu cùng với những tư tưởng, giáo huấn của Ngài. Ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, sinh ra ở miền đất Palestina vào đầu công nguyên. Nhưng có một điều rất quan trọng, vô cùng quan trọng. Đó là Ngài không đơn thuần chỉ là con người. Ngài là con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã chịu nhiều nhục nhằn bất công mà đáng ra Ngài chẳng cần phải chịu. Chỉ vì tình thương đối với con người, những con người mà Ngài đã nhào nặn nên từ bụi đất đó, Ngài đã cam chịu chết để bạn và tôi cùng được cứu, cùng được có diễm phúc được làm con, làm bạn hữu với Ngài. Rồi từ trong cõi chết Ngài đã sống lại để những ai tin vào Ngài cũng có được niềm hy vọng sẽ sống lại trong quê hương của chính Ngài. Rồi trong suốt hai ngàn năm qua, Giáo hội mà Ngài đã gầy dựng nên ấy, Giáo hội đó có sự thánh thiện và cũng có khiếm khuyết, những khiếm khuyết mà những tư tưởng muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới này đã dùng nó để làm lung lạc niềm tin ngay cả đối với những người đã tin vào Ngài. Cũng trong suốt hai ngàn năm qua, đã có biết bao con người dành trọn cuôc đời mình dấn bước ra đi vun đắp niềm tin về Ngài nơi những người anh em đồng loại của mình.

Với sự trải lòng mình ra để đón nhận Đức Giêsu Ki-tô và tìm hiểu về cuộc đời của Ngài như vậy; qua thời gian, qua tiến trình được vun đắp, một niềm tin sẽ dần lớn lên trong tâm hồn của bạn và tôi. Rồi một ngày nào đó trong tương lai chúng ta lại nghe nói đâu đó trong cái thế giới này có ai đó đưa ra luận thuyết này, luận thuyết nọ bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái thế giới này đâu. Có thể khi đó bạn và tôi ta sẽ chỉ mỉm cười mà trong lòng mình tràn ngập bình an, mạnh mẻ tự nhủ rằng: “Điều mà người ta nói đó chẳng có nghĩa gì với tôi đâu, chẳng làm bận lòng, chẳng làm lung lạc được tôi đâu; bởi vì chính tôi đã gặp được Ngài rồi. Tôi đã gặp được Ngài trong những giây phút nguyện cầu; đã gặp được Ngài và nhận ra Ngài qua những biến cố, những sự kiện trong cuộc đời của chính bản thân tôi; rồi mai này tôi cũng mang một niềm tin, một niềm hy vọng sẽ gặp lại được Ngài ở buổi họp mặt sau cùng đầy vinh hiển và vĩnh cửu trong quê hương của chính Ngài.”

Khi Stephen Hawking nhà vật lý học nổi tiếng trình bày trong cuốn “ Sự thiết kế Vĩ đại” rằng vũ trụ này đã được hình thành dựa trên những quy luật, những định luật vật lý mà không cần có bàn tay của Thiên Chúa; người ta lại nhao nhao lên rằng: Đấy bác học Stephen Hawking lỗi lạc đã bảo là không có Thiên Chúa trong vũ trụ này đâu!

Có một em bé mà vào dịp lễ Giáng sinh, đứng bên cạnh hang đá Bêlem nhìn vào trong đó; nơi có máng cỏ, có Chúa Hài Đồng. Dưới cái nhìn của em bé đó thì Thiên Chúa Ngài cũng đơn sơ, thân thương, gần gủi qua hình hài trẻ thơ bé nhỏ như vậy. Rồi đứa bé đó thầm thì bên tai Chúa Hài đồng những ao ước của mình, những ao ước có lẽ cũng đơn sơ như chính tâm hồn của nó hiện giờ.

Và cũng có một cụ già; cụ chẳng biết gì về khoa học, chẳng biết gì về những triết thuyết phức tạp của con người. Từ mấy mươi năm nay cụ đã được truyền đạt và tiếp nhận rằng có một Chúa cứu thế Giêsu người Nazarét đã chết cho cụ và cho mọi người. Cũng từ mấy mươi năm nay cụ vẫn hằng liên lỉ nguyện cầu với đấng Cứu thế ấy. Giờ đây ở buổi xế chiều của thân phận con người, cụ vẫn mong, vẫn tin sẽ gặp được Đấng mà cụ vẫn tôn thờ.

Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, một Stephen Hawking lỗi lạc được ngưỡng mộ kia có thể lại không bằng cụ già hay em bé đây đã có cái nhìn đơn sơ về Thiên chúa nhưng tin cậy nơi Ngài. Niềm tin vào Thiên Chúa luôn gặp nhiều thách thức từ bên ngoài nhưng cũng chính điều này càng làm cho niềm tin ấy trở nên có giá trị và được chúc phúc.

Một niềm tin mà chính vì nó chúng ta đã hiện diện trong cái thế giới này, có mặt trong cuộc đời này như lời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng là Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trong “Nhật ký tâm hồn” của ngài: “Sống ở đời chỉ là để nhận biết, để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa mà thôi.” Và lời này cũng có thể trở nên là một trong nhiều câu trả lời mà Kytô giáo có thể dành cho khoa học, dành cho triết học về cái trăn trở ngàn đời của con người: Chúng ta là ai? -Chúng ta từ đâu tới?- Chúng ta sống để làm gì? -Chúng ta đi về đâu?.

Hoàng Ngọc Tấn