15 câu châm ngôn tuyệt diệu.

15 câu châm ngôn tuyệt diệu.

 CHAM NGON

 

 

 

 

 

 

 

 

Tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại

  1. Thuốc tốt trên đời này, mỗi một loại thuốc chỉ có thể chữa một loại bệnh; còn thuốc tốt của tâm linh, trí tuệ và từ bi thì có thể chữa trị tất cả mọi đau khổ.
  1. Con người vẫn hay than phiền không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn, nhưng kỳ thực, trước giờ nó vẫn ở sâu trong lòng, bạn không cần phải tìm kiếm. Chỉ cần bạn có thể giữ tâm bất động, không“vì dục vọng mà cực khổ, bận rộn suốt cả ngày”  thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sự tồn tại của nó.
  1. Khi trong lòng bạn ngập tràn sự yên vui, thì đi đến đâu cũng đều là hoan hỷ tự tại; khi trong tâm tràn đầy trí huệ thì một cành hoa, cọng cỏ cũng khiến bạn thấy được chân lý.
  1. Thế giới mà bạn đang nhìn thấy, chỉ là phản ứng của nội tâm. Trong lúc tâm trạng cởi mở, nhìn thấy ai cũng là bạn bè thân thiết; còn khi đang buồn bực, đi đâu cũng chỉ thấy những khuôn mặt đáng ghét.
  1. Mọi người đều cho rằng giàu có và nổi tiếng đồng nghĩa với vui vẻ. Nhưng thực ra, nếu trong lòng bạn ngập tràn niềm vui, bạn vốn dĩ không cần danh lợi. Còn nếu trong lòng bạn không có niềm vui, hiển nhiên là có sở hữu giàu có và nổi tiếng của cả thế giới cũng không có ý nghĩa gì. Nếu bạn chỉ biết suốt ngày bận rộn mong kiếm được nhiều tiền hơn và bảo vệ sự giàu có mà bạn sở hữu, thì thật ra đối với bạn mà nói, chúng đã không có lợi ích thực sự nào nữa rồi.
  1. Nếu bạn nhìn cuộc đời bằng đôi mắt phán xét, thế giới này sẽ chỉ toàn những người có  khiếm khuyết; nhìn bằng đôi mắt kiêu ngạo, thế giới này sẽ chỉ toàn những người thấp hèn và ngu ngốc; nhìn bằng đôi mắt trí tuệ, bạn sẽ phát hiện ra rằng mỗi người bạn gặp phải,  đều có những điểm đáng để bạn học hỏi và tôn trọng.
  1. Người có trí tuệ, khi ở một mình sẽ quản thúc tốt tâm của mình và coi đó là cơ hội tốt để tự kiểm điểm bản thân. Còn khi tiếp xúc với người khác, họ sẽ quản tốt cái miệng của mình và coi đó là cơ hội để khiêm tốn học hỏi.
  1. Kẻ tự biết mình là ngốc thì không phải kẻ ngốc, còn kẻ tự cho mình là thông minh thực ra lại là kẻ ngốc trong số những kẻ ngốc.
  1. Mỗi một người bạn gặp hàng ngày đều là thầy của bạn: Người thông thái dạy đạo lý từ bi, người ngang ngược dạy bạn đạo lý nhẫn nhục.
  1. Tất cả mọi người, tất cả mọi sự vật trên thế gian này đều là có sự liên quan, tương hỗ với nhau. Trong lúc cho đi, thật ra là bạn đang làm lợi ích cho chính mình. Vũ trụ, vạn vật đều là nhất thể. Khi bạn làm hại mặt đất, dòng sông và các sinh linh sống trên đó, thật ra là bạn đang làm hại chính mình.
  1. Nếu như bạn muốn thường xuyên vui vẻ, đừng đem niềm vui đặt vào những thứ phù phiếm bề ngoài. Hãy xem sự giàu có của bạn, nhà và xe của bạn đều là mượn của người khác, lợi dụng chúng thật tốt, nhưng không được si mê chúng. Chỉ cần làm được như vậy bạn sẽ hưởng thụ được một cuộc đời đơn giản nhưng vui vẻ.
  1. Tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại.
  1. Nếu như vấn đề có thể giải quyết, bạn không cần phải lo nghĩ. Nếu vấn đề không cách nào giải quyết, bạn có lo nghĩ mấy cũng không giúp ích được gì.
  1. Mọi người đều thích có thể sống tự chủ, nhưng nếu như bạn nghe người khác nói câu gì đó khó chịu liền nổi nóng, thì bạn chính là đang giao quyền tự chủ cho người khác, rồi dần dần, ngoài bản thân bạn ra, mọi người đều trở thành chủ nhân của tâm bạn. Nếu bạn muốn có thể sống tự do tự tại, thì bạn nên đi học cách làm chủ tâm của mình trước.
  1. Tâm là nguồn gốc của sự an vui và cũng là nguồn gốc của sự đau khổ. Thân – khẩu – ý do một cái tâm chứa đầy hận thù và tham vọng gây ra thì chỉ mang đến đau khổ; ngược lại, những hành động, suy nghĩ, lời nói mà xuất phát từ một cái tâm thiện lành thì điều mang lại chính là phúc lạc.

Châu Yến biên dịch .

THỜI ĐẠI BỊP

From facebook:  Tran Dat shared Hung Le‘s post.
Image may contain: 2 people, text
Hung Le

THỜI ĐẠI BỊP

——

Lịch sử Việt Nam đã và đang tồn tại một thời đại như vậy, điều mà chúng ta gọi là: Thời Đại Bịp. Mới hay rằng, thế gian này chuyện ngược đời đến mấy cũng có thể xẩy ra, sự thể đã 70 năm nay rồi. Có thể nói, dân ta đã chịu đựng nổi bất công nhiều như sao trên trời, dân tộc ta phải hứng chịu một cơn đại hồng thủy phá hủy văn hóa ngàn năm.

Nhà nước hiện nay nói rằng, họ đang xây dựng sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thực tế thì như thế nào?

Họ (nhà nước) lấy của dân 10 đồng, rồi lại chia cho dân 2 đồng. Sau đó hệ thống truyền thông làm rùm beng lên, cho đó là công lao trời biển của đảng. Người dân cho dù nhìn thấy bất công, có phát hiện ra trò bịp thì cũng đành phải im lặng. Đảng sẽ giành một thái độ trìu mến cho những người biết sợ và phục tùng, và đàn áp bất cứ ai dám phản đối. Lâu dần xã hội hình thành một thói quen ứng xử: Nếu người dân chịu để cho đảng bóc lột và lừa dối thì mới được đảng tôn trọng.

Theo họ lý luận, đảng là người đầy tớ trung thành, nhân dân là chủ, nhưng người chủ đó phải chấp nhận các nguyên tắc sau: Đảng nói gì, dân cũng không được cãi lại, đó mới là một công dân tốt. Khi nhà nước ban hành các chủ trương chính sách, dân chỉ việc ngoan ngoãn làm theo, không phản đối và thắc mắc, có như vậy mới không phải là “phản động”. Trung ương bao giờ cũng đúng, chỉ có cấp dưới làm sai và ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa tốt, vì vậy mà đảng không bao giờ phải chịu trách nhiệm. Đảng còn nói rằng, mọi việc người dân không cần phải quan tâm, đã có đảng và nhà nước lo tất cả.

Người dân cúi đầu sợ hãi mà tuân thủ các nguyên tắc do đảng đặt ra, kết quả là dân tình khốn khổ, mất hết nhân quyền, nước mất nhà tan.

Với một sự vô lý to lớn như vậy, đảng biết rằng sẽ có ngày người dân nổi lên để mà đòi tự do đa đảng. Nhằm ngăn chặn quy luật tất yếu đó, đảng tung ra luận điệu “đảng nào cũng giống nhau mà thôi, rồi cũng tham nhũng cả. Thôi thì cứ để cho đảng Cộng Sản lãnh đạo mãi mãi cho khỏe chuyện. Vả lại, đa đảng thì lộn xộn và phức tạp lắm, khủng bố suốt ngày”. Để minh chứng cho nhận định trên, đảng cho chiếu trên truyền hình nhà nước tin tức khủng bố ở các nước dân chủ, để người dân xem đó thấy sợ mà không dám đòi tự do nữa.

Trong thời đại bịp này, báo chí, truyền hình, phát thanh tư nhân không có, tất cả đều là của nhà nước. Vì vậy mà tiếng nói của người dân vô cùng nhỏ bé, có muốn phản đối cũng không thắng nổi truyền thông của chế độ. Với một hệ thống truyền thông độc quyền hùng hậu như vậy, bao giờ đảng cũng đúng, cũng tốt và vĩ đại, chỉ có nhân dân là có tội. Đảng nắm phần cán dao, nhân dân thì nắm phần lưỡi dao, vì vậy không thể nào mà xoay chuyển tình thế được.

Tình cảnh đó khiến người ta luôn phải sống trong dối trá và bưng bít. Một xã hội không biết đến sự thật thì cũng giống như con người ta bịt mắt cho kẻ khác dắt đi. Dân tộc Việt Nam đã bị đảng Cộng Sản bịt mắt và dẫn dắt theo ý muốn của họ. Người dân không được biết gì khác ngoài những điều mà đảng cho phép biết, những điều mà đảng tuyên truyền.

Quay lại 70 năm về trước, đó là câu chuyện của những tầng lớp người thấp nhất vùng lên cướp chính quyền và sau đó lãnh đạo toàn bộ xã hội. Một nhà nước “vô sản” được dựng nên, và những người trí thức, bác học, nhà khoa học, kỹ sư, luật sư, giáo viên….phải phục tùng tuyệt đối những người Công Nhân và Nông Dân. Đó là một mô hình nhà nước hoang tưởng và ngược đời nhất mà nhân loại từng được chứng kiến, nó hoàn toàn đi ngược lại quy luật tự nhiên. Đó là một chế độ độc tài toàn trị, là kẻ thù không đội trời chung của các giá trị tự do, dân chủ. Là nơi mà con người bị đày đọa và trói buộc một cách có hệ thống nhất, nơi mà cái phí lý trở nên có lý. Và rồi những người công nhân và nông dân cũng bị lừa, bị chính chế độ đại diện cho họ phản bội, bị bóc lột và đàn áp hơn xưa.Từ đó mới dẫn đến một thời đại bịp như ngày hôm nay.

Đảng không bao giờ nhận lỗi, mà luôn có những đối tượng chịu trách nhiệm thay, đó là: Các thế lực thù địch, thiên tai, nhận thức yếu kém của người dân, đế quốc Mỹ, bệnh dịch…

Lừa dối nhân dân, biến sai thành đúng, biến trắng thành đen, cho nên nó thật xứng với danh xưng: Thời Đại Bịp.

Không có bất cứ luận điệu nào có thể biện minh cho một chế độ độc tài toàn trị, vì sự tồn tại của nó đã là một tội ác tày trời. Bởi nó tồn tại bằng cách lừa bịp, đàn áp, tham nhũng, và cướp đi các quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Minh Văn.

CPJ kêu gọi Việt Nam trả tự do cho các nhà báo

CPJ kêu gọi Việt Nam trả tự do cho các nhà báo

RFA
2017-01-27
Truyền hình Việt Nam đưa tin vụ bắt blogger Mẹ Nấm hôm 10/10/2016.

Truyền hình Việt Nam đưa tin vụ bắt blogger Mẹ Nấm hôm 10/10/2016.

ANTV

Tổ chức Bảo Vệ Ký Giả CPJ hôm qua công bố chiến dịch thường niên về tự do báo chí 2017, nêu tên 10 nhà báo trên thế giới đang bị cầm tù, trong đó có blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đang bị chính phủ Việt Nam giam giữ vì tội tuyên truyền chống phá nhà nước.

Giám đốc CPJ, bà Courney Radsch, nói rằng những nhà  báo được nêu tên đang bị giam giữ theo các  điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia hoặc luật chống khủng bố trong lúc họ thực sự  chỉ là những phóng viên chứ không phải những kẻ khủng bố.

Bà nói CPJ khẩn cấp kêu gọi chính phủ các nước phải trả tự do cho các nhà báo đang bị giam giữ, đồng thời cải tổ luật dẫn đến việc lạm dụng quyền hành để tùy tiện bắt giữ những người làm báo không đồng quan điểm với nhà nước.

Trong danh sách 10 ký giả đang ngồi tù mà CPJ nêu ra có tên blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm, bị bắt hồi tháng Mười 2016, bị khởi tố tội tuyên truyền chống phá nhà nước, vi phạm Điều 88 Bộ Luật Hình Sự.

Trả lời đài Á Châu Tự Do, ông Steven Butler, điều hợp viên chương trình của Tổ Chức Bảo Vệ Ký Giả, cho biết:

Mục đích chính của CPJ là nhắc đến những nhà báo trên thế giới đang bị cầm tù vì không muốn tên tuổi những người này bị chìm vào quên lãng, cũng đồng thời muốn tăng cường áp lực để nhà cầm quyền trả tự do cho họ.

Về blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, ông Steven Butler nói :

Cô nổi tiếng nhanh chóng trong vai trò một blogger từ nhiều năm qua, từ khi bắt đầu viết năm 2008. Đại diện CPJ tại Đông Nam Á, ông Shawn Crispin, từng đến Việt Nam với cô hai năm về trước, từng nghe cô tường thuật và cung cấp tài liệu về phương cách cô sử dụng để làm sao khỏi bị bắt bớ vì những hoạt động có tính cách xã hội của cô cũng như khi cô tìm cách đi và đưa những tin tức đáng chú ý lên mạng cho mọi người cùng biết.

Được biết cùng ngày thứ Năm vào khi CPJ phát động chiến dịch Tự Do Báo Chí 2017 ở DC, đại diện CPJ đặc  trách Đông  Nam Á tại Bangkok, ông Shawn Crispin, cũng kêu gọi Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho hai nhà hoạt động trong nước là anh Nguyễn Văn Hóa và chi Trần Thị Nga. Anh Trần Văn Hóa bị bắt ngày 11 tháng Giêng 2017, bà Trần Thị Nga bị bắt khẩn cấp ngày 24 tháng Giêng. Cả hai bị cáo buộc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ làm hại quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, công dân, vi phạm Điều  258 Bộ Luật Hình Sự .

HRW yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay cho bà Trần Thị Nga

HRW yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay cho bà Trần Thị Nga

RFA
2017-01-27
Truyền hình Việt nam đưa tin vụ bắt bà Trần Thị Nga hôm 21/1/2017

Truyền hình Việt nam đưa tin vụ bắt bà Trần Thị Nga hôm 21/1/2017

Screen shot
Việt Nam phải trả tự do ngay tức khắc cho nhà hoạt động nhân quyền Trần Thị Nga, xóa bỏ mọi cáo buộc về động cơ chính trị liên quan đến việc làm của bà.

Đó là lời kêu gọi mới nhất được Human Rights Watch, Giám Sát Nhân Quyền đưa ra hôm nay qua một văn bản có nội dung nhấn mạnh đến đợt bắt giữ mới các nhà hoạt động và các blogger ở Việt Nam trong thời gian qua.

Ngoài bà Trần Thị Nga, bị bắt ngày 21 tháng 1 năm 2017 và bị cáo buộc tội tuyên truyền chống chính phủ bằng cách truy cập mạng Internet đưa một số video, clip, bài viết có nội dung chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Giám Sát Nhân Quyền còn nêu tên những nhà hoạt động khác cũng bị bắt giữ trong tháng 1 năm 2017 này như cựu tù nhân chính trị Nguyễn Văn Oai, bị bắt ngày 19, nhà hoạt nhân quyền Nguyễn Văn Hóa, bị bắt ngày 11, ông  Nguyễn Danh Dũng, bị bắt hồi tháng Mười Hai 2016 vì liên quan đến Thiên An TV là một kênh trên YouTube có nội dung phê phán chính phủ.

Human Rights Watch cũng nhắc đến tên blogger Hồ Hải, tức bác sĩ Hồ Hải, hai nhà hoạt động Lưu Văn Vịnh và Nguyễn Văn Đức Độ, bị bắt hồi tháng Mười Một 2016, và blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt hồi tháng Mười 2016.

Ông Brad Adams, giám đốc phân ban Á Châu của Human Rights Wath, chỉ trích chuyện Việt Nam coi việc truy cập Internet và đăng tải quan điểm có ý phê phán là một tội hình sự là một điều khôi hài. Ông nói các nhà tài trợ và đối  tác thương mại quốc tế cần nói thẳng và rõ ràng rằng họ sẽ xem lại quan hệ đối với Việt Nam nếu chính phủ nước này tiếp tục bỏ tù những tiếng nói ôn hòa.

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

Image may contain: 2 people, people standing

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

————————–——
Hồi tưởng lại khoảng thời gian khi đôi mắt vừa mất đi ánh sáng, linh mục Phêrô Phạm Văn Dương, dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời chỉ nhẹ tênh: “Quãng đó mình cũng bí thật, không đi lại, không ra ngoài được, làm gì cũng không xong. Người bạn duy nhất chính là chiếc radio… Nhưng mình vượt qua rất nhanh vì nghĩ không có nhiều thì giờ nên không thể dừng lại quá lâu. Trong bóng tối vẫn phải tiếp tục bước đi”.
Đường dài gian nan– Ơn gọi đến với cha Dương bắt đầu từ năm 2001, lúc cha còn là sinh viên và tình nguyện sang Nga phục vụ cho giáo xứ có cộng đoàn người Việt. Giáo xứ này do các linh mục dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời coi sóc nằm ở Mátxcơva. Làm việc trong môi trường mới thuộc miền ôn đới, người tu sĩ trẻ không hay mình đã bị một loại virus cực hiếm âm thầm tấn công vào mô thần kinh mắt, khiến thị giác lúc mờ lúc tỏ. Tuy nhiên lúc ấy do chủ quan, cha nghĩ chắc không sao nên vẫn cứ hăng say làm việc.Tháng 5.2002, cha chuyển sang Pháp để tiếp tục hành trình ơn gọi. Thời gian này, vị tu sĩ nhận được chẩn đoán chính xác của các bác sĩ tại bệnh viện và bắt đầu điều trị mắt. Vừa đi học, cha vừa phải huy động sức mạnh tinh thần để chữa bệnh. Ba lần được mổ mắt không thành công, cha vẫn chưa thôi ôm ấp niềm hy vọng một ngày nào đó đôi mắt mình sẽ bình thường trở lại. Thế nhưng đến lần mổ thứ tư thì đôi mắt không còn nhìn thấy gì nữa. Dù có sự chuẩn bị từ trước nhưng đối với một người trước nay sáng mắt, giờ bỗng không thấy gì thì quả thật vô cùng khó khăn.

 

Cha xin vào học ở một trung tâm phục hồi chức năng dành cho người khiếm thị ở ngoại ô Paris. Thế giới đầy sắc màu bên ngoài tưởng chừng đã khép lại hoàn toàn thì nay bỗng dưng biến đổi, trở nên diệu kỳ hơn bởi được cảm nhận một cách mộc mạc nhất từ con tim. Học ở đây, người tu sĩ biết được nhiều cảnh đời, có thêm bạn bè từ những tôn giáo khác cũng như chứng kiến nhiều mối tình cảm động. Ông nhận ra trong thế giới người mù có rất nhiều điều để khám phá, cũng phong phú sinh động và tươi đẹp lạ thường, để rồi bắt đầu các bài học cơ bản như di chuyển, cầm gậy, đi tàu điện, nấu ăn, giặt, ủi đồ… rồi đến học chữ nổi, tập dùng máy vi tính.Trải qua 5 tháng cố gắng, cha Dương hoàn thành tốt các bài học và có thể sống tự lập được. Khi khóa phục hồi chức năng kết thúc, cha vào Đại chủng viện Xuân Bích (Paris) tiếp tục 6 năm Triết và Thần học, rồi sau đó học chuyên về Thần học ở trường Đại học Công giáo Paris.

Nhớ lại suốt những năm học ấy, cha cho biết mình đã phải luôn cố gắng gấp đôi so với người bình thường vì trong lớp chỉ có mình cha là người khiếm thị. Từ nhà dòng đến chủng viện nếu người sáng chỉ mất 30 phút thì cha mất khoảng 45 phút di chuyển; đi tàu cũng phải cẩn thận dò bản đồ chữ nổi và chú ý đếm số ga đã đi qua để canh chừng mà xuống. Những bài vở mà các giáo sư đưa ra, cha đều phải chuyển sang chữ nổi hoặc đưa vào scan trên máy tính. Việc lật giở các trang sách chữ nổi cũng khá chật vật mới theo được các bạn trong lớp. Tuy vậy, nhờ có trí nhớ tốt, cha nắm bài cũng như ghi chép rất trôi chảy, vì thế môn nào cũng được xếp thứ hạng cao. Đối với một người khỏe mạnh thì việc học xong rồi chịu chức linh mục là một điều không khó. Thế nhưng với cha Dương thì đoạn đường này cũng đầy thử thách, song bằng niềm tin và nỗ lực, cha đã không chỉ hoàn thành chương trình học mà còn chứng tỏ được ơn gọi của mình.

Ánh sáng niềm tin

– Ngày 5.2.2012, cha Dương chịu chức phó tế và ngày 14.10.2012 lãnh tác vụ linh mục tại nhà thờ Thánh Hyppolyte (giáo xứ Thánh Hyppolyte cũng là nơi cha giúp việc trong thời gian còn tu học), do Đức cha Eric de Moulins-Beau-fort, Giám mục phụ tá giáo phận Paris truyền chức. Trở về Việt Nam sau đó, để thuận tiện hơn cho những nhiệm vụ mới, cha đã tìm đến Mái ấm Thiên Ân và mày mò học chữ nổi bằng tiếng Việt. Thánh lễ mở tay của cha Dương được cử hành tại nhà thờ Đa Minh Ba Chuông (TGP.TPHCM) vào chiều ngày 19.11.2012. Đó là một buổi lễ vô cùng đặc biệt, dành riêng cho các em khiếm thị trong một số mái ấm tại thành phố và tất cả các phần trong phụng vụ đều sử dụng chữ nổi.

– Cha được giao làm phụ tá giám tập cho dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời, phụ trách việc đồng hành về đời sống thiêng liêng và dạy học cho các tập sinh ở Bà Rịa. Được 3 năm, cha nhận bài sai về làm bề trên một cộng đoàn của dòng nằm ở Bình Thạnh (TPHCM). Hiện tại, cộng đoàn này có 10 thỉnh sinh và hai tu sĩ khấn trọn đời. Song song với công việc tại nhà dòng, cha cũng thường đi giảng tĩnh tâm và dâng lễ định kỳ tại một số giáo xứ và các mái ấm. Nhớ về những vụng về, sai sót trong những lần dâng lễ, vị linh mục cười vui kể lại: “Lúc đầu do chưa quen, lại không nhìn thấy, tôi hay vấp lỗi, chẳng hạn lên cung thánh thay vì đứng giữa thì chỉ đứng một bên bàn thờ… Lúc còn là phó tế, có lần đến lúc đọc Tin Mừng, tôi lại cầm sách đi liêng xiêng đến gần chỗ cây nến phục sinh và va phải. Cũng may khi đó có cậu giúp lễ chạy tới giúp, giáo dân ở dưới cũng được một phen hú vía”. Cha cười nhưng người nghe lại rưng rưng cảm động rồi cảm phục trước nghị lực phi thường của một vị mục tử trong việc thực thi trọn vẹn ơn gọi của mình.

– Nay, cha Dương đang là Chủ tịch Ủy ban Bác ái và Ủy ban Bảo trợ ơn gọi của nhà dòng. Cha thường xuyên cùng mọi người trong ban tổ chức mời các bác sĩ đi khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại các tỉnh miền Tây, miền Trung cũng như vùng cao, một năm khoảng hai, ba chuyến. Mỗi lần, mọi người đều gắng huy động và chuẩn bị những phần quà để kết hợp trao cho những người khó khăn. Song song đó, cha cũng quan tâm đến chuyện học hành của con em các hộ nghèo, qua việc trợ giúp học bổng ở nhiều nơi. Ngài cùng ban bác ái, kết nối với cha xứ, các hội nhóm ở mỗi nơi, mỗi vùng để xin danh sách các em rồi giúp đỡ. Cái hay của quỹ học bổng này chính là việc theo sát các em trong suốt quãng đường học tập và khi em nào ra trường, sẽ liên lạc lại với nhà dòng để tiếp tục nuôi lớn chương trình bằng cách này hay cách khác.

– Ngoài ra, năm nào cha cũng tổ chức cho giáo dân những chuyến hành hương đến các linh địa để tĩnh tâm, cầu nguyện, mỗi năm có gần 1000 người tham dự. Cha còn thường xuyên đến bệnh viện ung bướu ban bí tích, sức dầu cho bệnh nhân cũng như an ủi thân nhân của họ.

– Không chỉ làm việc và sinh hoạt như một người bình thường, nơi vị mục tử khiếm thị này còn toát lên sự lạc quan và niềm yêu đời tha thiết. Sức mạnh tinh thần này dường như được truyền từ cảm nghiệm sâu sắc về cuộc đời trong một kỷ niệm khó quên cha đã từng trải qua: “Hồi còn ở Paris, có một đêm khuya tôi từ nơi làm việc đi đón tàu điện trở về nhà dòng. Lúc đó đường vắng, tôi đứng ở chỗ cột đèn giao thông rất lâu, chờ người tới để nhờ dẫn qua đường. Tôi định bụng chờ lát nếu không có ai thì liều đi đại nhưng thời may lúc sau lại có người. Khi tôi cất tiếng xin nhờ bám vào một bên cánh tay để qua đường thì người đó im lặng vài giây rồi nói: ‘ông muốn nhờ cánh tay tôi thì phải đổi sang bên khác vì tôi chỉ còn có mỗi cánh tay thôi!’. Đối với tôi, đêm đó là đêm nhớ nhất trong đời, bởi đêm dù đen tối nhưng vẫn có thể bừng sáng nhờ lòng người. Tôi nhận ra, khi người ta tin tưởng, giúp đỡ và yêu thương nhau thì mọi gánh nặng đều có thể vơi đi”.

THIÊN LÝ

THÁNH CA MÙA XUÂN 2017

httpv://www.youtube.com/watch?v=DcgtePBEEr4

THÁNH CA MÙA XUÂN 2017 – CHÚA LÀ MÙA XUÂN

httpv://www.youtube.com/watch?v=r3_br_cDR7o

CHÚA MÙA XUÂN – LM NGUYỄN SANG

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Ave Maria! Như Song Lộc Triều Nguyên – Thơ: Hàn Mạc Tử, Nhạc: Hải Linh

Video 

httpv://www.youtube.com/watch?v=YUTwJDYzYNc

Suy tư tuần thứ 4 mùa thương niên năm nay, lại đã thấy giòng thi-ca những chảy dài rằng:

 “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời?

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời

Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng.”

Thơ ngâm rồi, người tìm đến với âm-nhạc, mà ca/hát những lời như:

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
em ngồi quay tơ
Quay đều..quay đều..quay đều..”

Thế nghĩa là, có ngâm thơ và ca hát lời gì đi nữa, cũng chỉ để gửi đến bà con ta trong thánh hội Nước Trời một niềm vui ẩn tàng một dáng dấp rất “quay đều” của thơ và “tơ” cứ quay hoài và quay mãi đến hết đời.

Thế nghĩa là, dù bạn và tôi, ta có “quay đều” niềm vui Tin Mừng đến thế nào đi nữa, thì đời người và đời mình cũng theo đó mà nhận lãnh những tâm-can hoặc nỗi niềm của nhà Đạo, rất nên thơ.

Thế đó, lại là tâm tình của người đang lặn l65i miền sâu miền xa đất Úc, gửi về bà con thân thương còn ở nhà đang vui sống.

Mai Tá

Từ miền xa bên Tây Úc xin được trân trọng gửi những tâm-tình như thế đó.

www.giadinhanphong.com
Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 4 thường niên năm A 29/01/2017

Tin Mừng: (Mt 5: 1-12a)

Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Ngài ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Ngài mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

 +      +      +      +

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời?

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời

Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng.

(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

 Thơ mầu nhiệm ra đời, nghe xôn xao náo động muôn tinh tú. Náo động, phải chăng người thi sĩ muốn nói đến mầu nhiệm cứu chuộc dân gian nơi trần thế? Bằng Hiến Chương/Cương Lĩnh Nước Trời?

Trình thuật Cương Lĩnh hôm nay, là những chương đoạn về hạnh phúc ở trần gian. Nơi đất miền thân thương, dẫy đầy phúc đức có chen lẫn những cực hình. Hiến chương/Cương lĩnh Nước Trời mà thánh sử lược ghi, là để người người được thấy dung mạo Đức Chúa, một Mô-sê rất mới.

Giống hệt như Môsê thời buổi trước, Đức Giê-su nay khởi đầu cuộc đời Ngài giảng rao bằng 5 bài giảng thuyết có những đề xuất, rất nghịch thường. Giống hệt như sách Ngũ Thư của Cựu Ước, Hiến chương Hạnh phúc Chúa ban hành trên non cao chốn núi vắng, là để tỏ bày cho người Do thái biết về đường lối Chúa dạy. Tức, những điều Ngài muốn ta thực hiện, trong cuộc sống.

Bài thuyết giảng đầu đời Chúa tuyên bố, không là băng hình đậm nét về những sự kiện vừa xảy ra trên núi thánh. Mà, là sưu tập tóm tắt những lời vàng Thầy gửi đến với đồ đệ rất thân thương. Lời Thầy khuyên dạy sẽ giúp những ai dấn bước theo Thầy, biết đường nghe theo mà sống những chuỗi ngày hạnh phúc, với anh em. Núi thánh ở đây, là địa điểm Thầy ban hành Hiến Chương mới. Là, điểm mốc lịch sử nơi diễn tiến mọi sự kiện đổi đời, có từ Thầy.

Vị thế Thầy ngồi khi tuyên bố Hiến Chương Hạnh Phúc, nói lên quyền uy rất mực của Đấng Vị Vọng, rất Tối Cao. Cách Chúa ngồi giảng rao, còn diễn tả quyền uy thế thượng mà các vị cha chung trong Giáo hội, vẫn đương làm khi có phán quyết quan trọng, gửi đến con dân. Phán quyết quan trọng, là quyết định có liên quan đến cuộc sống hạnh phúc của mỗi người, cho mọi người.

Phán quyết Chúa ban, là Hiến Chương còn hệ trọng hơn cả Mười Điều Giáo Lệnh Mô-sê rao truyền, vào thuở trước. Các giáo Lệnh Mô-sê chuyển giao, là luật sống cho con dân Do Thái để thi hành, không mấy khó. Không khó, vì luật là luật chẳng cần đến tình thương, chẳng cần phải tôn trọng. Cứ theo phương cách vị kỷ, tập trung vào chính mình. Hệt như thái độ chàng thanh niên rất giàu mà Tin Mừng từng nhắc đến: anh giữ trọn đủ 10 điều, từ hồi nhỏ. Giữ, nhưng chẳng cần tình thương yêu tha thứ. Anh là công dân tốt, nhưng không thể là đồ đệ đúng nghĩa của Chúa.

Hiến chương Thầy công bố, không là giới lệnh rất dễ làm. Tuy rằng, mỗi điều khoản bắt đầu bằng cụm từ “Phúc thay!”. Cụm từ này, xuất xứ từ tiếng Hy Lạp makarios, hoặc felix, tiếng La-tinh, cả hai bao hàm ý niệm hạnh phúc, rất cao trọng. Muốn am hiểu niềm hạnh phúc Chúa tuyên ban, có lẽ cũng nên am tường bối cảnh Nước Trời, Ngài tỏ bày. Tức, cần có tương quan tốt đẹp giữa ta và Đức Chúa. Cần chấp nhận Ngài là Chúa, Đấng hướng dẫn cuộc đời mà mọi người nên giữ.

Về bối cảnh Nước Trời, không chỉ người giàu sang, thành đạt hoặc quyền uy mới là người cao trọng, nhiều hạnh phúc. Trái lại, chỉ người hiền biết chấp nhận khổ đau mới đích thực là người được Chúa chúc phúc. Đây, không hẳn là hiến chương bình thường, cho muôn nước. Nhưng là Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời Chúa đã ban. Hiến chương Hạnh Phúc Ngài ban, chú trọng nhiều đến nhu cầu thiết thực đổi thay cách sống. Đổi cả quan niệm về giá trị cuộc đời. Giá trị, nơi uy lực của kẻ yếu mềm, bị bỏ rơi.

Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Hiến Chương Hạnh Phúc, mọi người sẽ nhận ra điều Chúa thách thức lối suy tư bình thường, theo qui ước. Có tìm và có hiểu, ta mới thấy được ý nghĩa Ngài đưa ra:

*Hạnh phúc thay, người có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ: người có tinh thần khó nghèo chính là người biết phó mặc hoàn toàn cho Đức Chúa. Có thái độ như thế, người người mới thực sự bước vào triều đại của Ngài. Không ỷ vào những gì mình đang có.

*Hạnh phúc thay cho người sầu khổ, vì họ sẽ được ủi an: sầu buồn và khổ đau nói ở đây, không là tâm trạng của người vừa có mất mát. Mất bạn bè. Mất người thân. Nhưng, còn vì ác thần/sự dữ cứ xảy đến với thế giới nhân trần. Nên, sầu buồn và khổ đau vẫn cứ đến. Hạnh phúc, là bởi họ vẫn cùng với mọi người đã giáp mặt khổ đau. Giáp mặt và sẻ san, chứ không bỏ chạy.

*Hạnh phúc thay cho người mềm yếu, vì họ sẽ thừa hưởng trái đất này: cụm từ “mềm yếu” trong Tin Mừng thánh Mat-thêu xuất từ tiếng Hy Lạp praus có nghĩa là: từ bi, bác ái. Trái ngược hẳn tính kiêu căng trịch thượng, chèn ép hoặc bạo tàn. Điều Chúa nói, ám chỉ sự tôn kính, tính hiền hoà phải có, với mọi người. Đây, còn là thái độ lùng kiếm bản chất thiện căn hầu tỏa sáng khắp nơi. Điều này trái với tính nhút nhát, đớn hèn mà người Do Thái đương thời thường lây nhiễm.

 *Hạnh phúc thay, những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no đầy: điều Thầy Chí Thánh muốn nói, là: những ai sống ở đất miền ứ tràn những của ăn cùng thức uống, sẽ chẳng bao giờ có được kinh nghiệm về sự đói khát người dân vùng sa mạc, vẫn hứng chịu. Người đói khát sự công chính mà Chúa nói, từng hiến trọn công sức và cuộc đời ngõ hầu tái tạo công bằng và bình an ở xã hội, họ đang sống. Những người như thế, chắc chắn thuộc về Triều đại Nước Trời. Làm Chúa yên vui.

 *Hạnh phúc thay,những ai có lòng thương xót vì sẽ được xót thương: đây không cốt ý chỉ sự thương hại hoặc cảm xúc hời hợt, nhưng là tâm tình thương cảm sẻ san. Tâm tình bước vào với nỗi niềm buồn đau, nơi người khác. Những người như thế, chắc chắn sẽ được Chúa đoái thương. Ở đoạn khác trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng khuyên môn đệ mình bắt chước lòng thương yêu của Đức Chúa. Điều này có nghĩa: ta hãy bỏ qua một bên mọi thành kiến lẫn ác cảm. Bỏ mọi ghét ghen miệt thị trong giao tiếp, đối xử.              

 *Hạnh phúc thay, những ai có tâm hồn trong trắng vì họ sẽ được diện kiến Đức Chúa: trong trắng ở đây không là sự trinh trong xác thịt. Nhưng, nhìn sự vật với cặp mắt không thành kiến, méo mó. Không kỳ thị hoặc có đầu óc hẹp hòi như các luật sĩ đầy xung khắc, vị kỷ. Có tâm hồn trong trắng, là người nhận ra tình yêu Đức Chúa đang ở với họ. Người như thế quả thật họ đang có phúc.

 *Hạnh phúc thay, những người biết dựng xây hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa. Hạnh phúc là phúc cho ai hoạt động cho việc hòa giải, hòa hợp ở khắp nơi. Hòa giải – hòa hợp, không chỉ bãi bỏ tâm tình kình chống mà thôi. Nhưng còn là, đến với nhau. Chữa lành cho nhau. Cùng nhau kiến tạo sự hòa hoãn trong gia đình. Nơi phố chợ. Tại công sở. Ở chốn thị thành. Bình an trong chung sống, không để cho bất cứ ác tậm sự xấu được tồn đọng với nội tâm. Sự xấu, chính là thành kiến, xung khắc, kỳ thị; và cả đến những khai thác, bóc lột nữa. Tóm lại, có dựng xây hòa bình, mới tự nhận mình là dân con Đức Chúa.

 *Hạnh phúc thay, những người bị bách hại vì sự công chính, bởi Nước Trời thuộc về họ: ở đây, có lẽ có người sẽ hỏi: tại sao kẻ đau buồn cực khổ lại được Chúa chúc phúc? Lý do, những gì khiến họ đau buồn cực khổ là vì Tin Mừng. Do sự công bình và lành thánh, Tin Mừng Ngài đem đến. Người chịu đựng khổ đau, là cốt đem chân lý và bình an đến với thế giới nhân trần. Làm thế, họ đem niềm an vui hạnh phúc đến cho ta. Niềm vui ta có được, khi đã hoàn thành mục đích Ngài giảng rao. Lịch sử nhân loại dẫy đầy gương sáng của những người như thế. Ở Ấn Độ, Trung và Nam Mỹ, và khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy những gương lành thánh những người như thế. Thế kỷ 20 là thế kỷ sản sinh nhiều gương lành tử đạo hơn các thế kỷ trước. Các vị, đã chấp nhận tử đạo vì niềm tin. Vì bình an và công bình. Ngày nay, nhiều người vẫn chấp nhận hy sinh thân xác cho lý tưởng cao đẹp, hơn bao giờ.

Hiến Chương Nước Trời, quả thật sâu sắc. Rất cao đẹp. Hiến chương vẫn kêu mời mọi người kiến tạo tương quan mật thiết, giữa ta với Chúa, với mọi người. Hiến chương cũng đòi ta quan tâm sâu sắc, tham gia dựng xây thế giới đương đại cho tốt đẹp. Và, kêu gọi mọi người hãy tìm cách biến đổi thế giới thành nơi ngập tràn tình yêu thương. Ngập tràn chân lý công bình và lòng xót thương. Đầy ngập sự tự do và hài hòa giữa mọi người. Đó là ý nghĩa của Hiến Chương Hạnh Phúc. Của Cương Lĩnh Nước Trời. Là mục tiêu của cuộc sống. Sống hạnh phúc đích thật.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho mỗi người và mọi người sẵn sàng tham gia dựng xây Nước Trời đầy hạnh phúc, ở nơi đây. Nơi ta chung sống, chốn gian trần. Trong tinh thần ấy, ta cùng cất tiếng hát lên bài ca tạ ơn khi xưa:

“Ôi ơn đời chói vói, nhớ khi thân tròn ôm gối

Ba trăm ngày trong gói, ngóng trông ra đời góp mối chung vui

Ôi ơn đời mãi mãi, thoát theo đời vun sới

Bao nhân tình thế giới, lớn lên trong vườn ân ái muôn đời.”

(Phạm Duy-Tạ ơn đời)

Tạ ơn đời. Nhưng, đích thực là tạ ơn Người. Tạ ơn Thầy đã ban cho mọi người Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời. Hiến Chương “xông lên lời ca ngợi sum hoà”. Rất yêu thương.

 Frank Doyle sj biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch 

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 4 mùa Thường niên năm A 29/01/2017

 “Vầng trăng từ độ lên ngôi”
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
em ngồi quay tơ
Quay đều..quay đều..quay đều..”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Lưu Trọng Lư – Vầng Trăng Sầu Rụng)

 (Cv 3: 25-26)

 Trăng sầu nên trăng rụng, phải thế không anh? Và, khi trăng đã rụng rời hay rụng rồi, thì đâu còn sầu với đau nữa, phải vậy không em? “Năm năm bến cũ”, chắc em vẫn còn quay tơ hay quay cuồng một đời người, đấy chứ nhỉ? Quay cuồng cả một đời, vẫn là chuyện bạn và tôi nên lưu tâm/chú ý đến độ rụng rời cả mùa trăng, thôi!

Rụng thì rụng, nay mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm câu hát nữa, rồi sẽ tính. Nghe, thế này đây:

“Để tóc rối vần câu thơ sầu rụng,
mái tóc cũng buồn theo thơ.
Cũng buồn theo thơ.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Năm năm tiếng lụa se đều,
trong cây gió lạnh đưa vèo.
Hằng năm tiếng lụa đưa theo,
đêm đêm gió rét đưa vèo trong cây,
đưa vèo trong cây.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nhẹ tay nhè nhẹ đôi tay,
hương thơm lối xóm bay đầy thinh không,
bay đầy thinh không.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng.
Quay đều..quay đều..quay đều..
thời gian lặng rót một giòng buồn tênh.
một dòng buồn tênh.
Quay đều..quay đều..quay đều…”

(Phạm Duy – bđd)

“Thời-gian lặng rót một giòng buồn tênh”. Ôi thôi là buồn. Dù có bảo, đó chỉ là thơ và nhạc cùng những ý/từ của nhiều văn thơ/nhạc bản ở đời, khiến con người thêm “hỷ, nộ, ái, ố, ai hoan lạc” đủ bảy thứ tình. Duy, có một thứ tình-tự vẫn linh-tinh tạo nỗi “buồn đời người”, được một tác-giả khác đưa vào truyện kể, như sau:

Bà vợ trẻ lúc nào cũng áy náy lo âu sợ chồng không yêu thương săn sóc, bà bị tư tưỡng tiêu cực lúc nào cũng ám ảnh đưa đến bệnh nặng phải vào viện. Tại bệnh viện sau nhiều xét nghiệm , bác sỉ cho chồng bà biết rằng: “ Ông ko tìm ra bất cứ triệu chứng bệnh gì!

 Thể xác bà khỏe mạnh không có dấu hiệu bệnh nào cả “ Bệnh của bà thuộc loại tâm thần. Giữa 2 người đã nghĩ ra một cách bí mật. Họ mời một cô y tá rất trẻ đẹp săn sóc cho bà. Sau đó ông chồng thử ý bà vợ và nói rằng:

Em yêu, em luôn trăn trối với anh rằng: – Để cho anh được hạnh phúc nếu không may mà em có mệnh hệ gì. Em à, anh đã suy nghĩ k, anh đã tìm được một người mà người đó s thay cho em được để làm cho anh hạnh phúc . Anh tin tưởng rằng cô y tá trẻ đẹp săn sóc cho em đó có thể trở thành người làm cho anh hạnh phúc.

 Sau một thời gian ngắn ngủi thôi, phép lạ đã xy ra, vợ anh bình phục và đòi xuất viện ngay về nhà!

 Chuyện “phép lạ xảy ra” cho bạn và cho tôi, vẫn là chuyện đời thường hoặc chuyện bên lề cuộc đời của mọi người. Thế nhưng, có một “sự-kiện lạ” ít xảy ra ở nhà Đạo, mà quan-viên các cấp cứ là hay thắc mắc/nghĩ-ngợi về chuyện “4 hồng-y giáo-chủ của Đạo đã tỏ ý bất đồng với Đức Giáo Tông về thông-điệp Amoris Laetitia” cách đây không lâu. Nay, Đức Thày John Flader ở Sydney đặt câu hỏi/đáp rất như sau:

“Thưa, hôm rồi có bài viết trên báo nói rằng: 4 hồng y nọ viết thư yêu-cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng tỏ những điều ngài viết trong thông-điệp Amoris Laetitia về hôn-nhân và gia-đình, khiến nhiều vị hết sức ngỡ ngàng. Xin hỏi, phải chăng đây là dấu hiệu khá khiếm-nhã đối với Đức Giáo-hoàng hoặc vẫn là chuyện bình thường trong Đạo?

 Và, Đức thày Flader, đã trả lời như sau:

“Nhiều vị đã luận-bình về vấn-đề này, ở đây đó, nên tôi nghĩ: ta cũng nên làm sáng-tỏ sự-kiện vừa xảy ra để có một lập-trường chính-xác hơn.

 4 hồng-y nói đây, lâu nay vẫn được mọi người trong Đạo kính-nể, đó là: Hồng y Walter Brandmũller, nguyên Chủ-tịch Uỷ-Ban Giáo-hoàng về Khoa-học Lịch-sử; Hồng y Raymond Burke, nguyên là niên-trưởng Toà Án Tối Cao của Vatican gọi là Signatura, Hồng y Carlo Caffara, Tổng Giám-Mực hồi-hưu của Bologna và Hồng y Joachim Meisner Tổng Giám-mục Cologne nay hưu-dưỡng. Trong buổi phỏng vấn trên mạng, dành cho cơ-quan có tên là Ban Hành-Động Công Giáo về Niềm Tin và Gia Đình hôm 14/11/2016, Hồng y Burke có giải-thích lý-do tại sao các hồng-y như ngài lại đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng-tỏ sự việc nói ở đây.

 Hồng y Burke từng giải-thích rằng: khi có ai nghi-ngờ hoặc quan-ngại điều gì về một số vấn-đề niềm tin hoặc luân-lý; hoặc đặc-biệt hơn, về ý-nghĩa xác-đáng ở văn-bản nào đó trong các tài-liệu của Toà Thánh, thì thông thường là: các giám-mục, linh-mục hoặc ngay đến giáo-dân cũng nên yêu-cầu Đức Giáo Hoàng giải-thích cho rõ. Đây là mộng-ước bình-thường của giáo-dân thường-tình không theo cách “sách mé”, thiếu tôn-kính.

 Thật ra thì, Đức Giáo Hoàng từng có những lời phát-biểu đưa ra, là để đáp trả những thắc-mắc tương-tự. Những năm về trước, các phát-biểu tương-tự đều từ các nhóm hội/ ban ngành hoặc đoàn-thể như: Uỷ-Ban Kinh-Thánh về ý-nghĩa các đoạn-văn trong thánh kinh, Uỷ-ban Giáo Hoàng về Văn-bản Luật-Pháp có trọng-trách giải-thích các điều-khoản của Giáo-luật và Thánh-bộ Tín-Lý Đức Tin cũng có trách-nhiệm về các vấn-đề về niềm tin của mọi người.

 Hồng y Burke có nói: Thông-điệp Amoris Laetitia từng nêu lên một số thắc mắc và nghi-ngại có trong đầu các Giám mục, linh-mục và giáo-dân, mà một số những điều như thế từng đệ-đạt lên Đức Giáo Hoàng và được công-khai bàn-bạc. Trường-hợp nói ở đây, bốn hồng-y đã chính-thức trình-bày lên Đức Giáo-hoàng 5 câu hỏi nền-tảng hoặc còn gọi là mối nghi-ngại về tín-điều và luân-lý đặt nền-tảng trên việc đọc thông-điệp “Amoris Laetitia” như thế nào. Đức Hồng-y công-nhận rằng: ngay bên trong Giám-mục-đoàn cũng có nhiều vị bất-đồng với nhau về cách giải-thích chương 8 của thông điệpAmoris Laetitia và vì thế, các vị này mới cần đến Đấng Bản-quyền làm sáng-tỏ cách chính-thức. Nên, các ngài mới chính-thức gửi một bản sao bức thư đến Hồng Y Gerard Mũller, Bổ trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.

 Nhiều ngày trôi qua mà không thấy có câu trả lời, các Hồng-y mới quyết-định để cho quần-chúng biết sự việc này để họ có thể bàn-luận với mọi tín-hữu Công-giáo, đặc-biệt là các Giám-mục. Các Hồng-y đây cũng đã sử-dụng từ-vựng chính-xác về thần-học qui-chiếu về các tài-liệu trước đó của Giáo-hội. Ta có thể tóm tắt như bên dưới:

 Thứ nhất, có thể nào Giáo hội ta cho phép xá-giải bằng bí tích Hoà-giải và cho phép những người từng ly-dị và có gia-thất mới và đang có tương-quan hôn-phối với nhau được rước lễ chứ?

 Thứ hai, là: có phải các điều-luật về luân-lý chặt-chẽ vẫn cấm-đoán các hành-động của sự ác ngấm-ngầm bên trong và đang ràng buộc mọi sự không biệt-lệ?

 Thứ ba nữa, có thể nào khẳng-định rằng người nào đó vẫn có thói quen sống chống lại lại giới răn của Chúa, chẳng hạn như luật cấm ngoại tình, vẫn ở vào đối-tượng của tội trọng?                            

 Thứ tư, phải chăng vẫn là trường-hợp cảnh-huống hoặc ý-định không bao giờ có thể thay-đổi một hành-động ngấm-ngầm tội-ác như việc “đối-đế” đã là đối-tượng của hành-động chủ-quan là tốt hoặc có thể biện-hộ được như một chọn lựa được?

 Thứ năm, phải chăng vẫn là chuyện đúng bảo rằng lương-tâm không bao giờ cho phép có luật trừ để xá-giải các luật-lệ về luân-lý khiến cấm ngặt hành-động nào ngấm-ngầm là tội ác do có tác-dụng là đối-tượng của họ được chăng? 

Các hồng-y nói trên cảm thấy rằng lời lẽ trong thông-điệp Amoris Laetitia đã bỏ qua những nguyên-tắc căn-bản của nền luân-lý Công-giáo vẫn dạy phải cởi mở đối với vấn-đề này; chính vì vậy, các ngài mới cần câu đáp trả của giới chức có thẩm-quyền. Không phải là Đức Giáo Hoàng đã công khai chối bỏ bất cứ nguyên-tắc nào trong đó nhưng là vì có một số các giám-mục và thần-học-gia đã giải-thích tài-liệu của ngài theo cách sao đó khiếm có người hiểu là ngài đề-xuất rằng những điều đó đã được mở rộng cho dư-luận thắc mắc.

 Xin mọi người cầu nguyện để vấn-đề nêu trên được giải-quyết theo cách nào đó để rồi không còn ai tỏ ra thắc mắc điều gì nữa.” (X. Lm John Flader, What on earth is going on with the pope and those cardinals?, The Catholic Weekly Question Time, 11/12/2016 tr. 24)  

Chuyện giải-đáp thắc mắc cùng khiếu nại, bao giờ cũng không đơn giản khiến người thường ở huyện có thể hả hê, hiểu mọi chữ. Chuyện thế-gian hay đạo hạnh trong luồng đôi khi cũng không dễ hiểu hoặc dễ theo như các đấng bậc mình kỳ vọng.

Chuyện mình và chuyện mọi người sống ở đời, nhiều lúc sẽ dễ hiểu và dễ theo hơn, nếu được kể bằng truyện kể có đính kèm nhiều phẩm-bình khá xác đáng mỗi khi nói về hạnh-phúc của nhiều người, rất ở đời, như câu nói: “Hạnh phúc không nằm trong thành-tựu hay đổi đời, nó không nằm ở bên ngoài mà nằm trong sự xác tín của chúng ta.

 Tựa như lời bàn về hạnh phúc của con người là thứ phúc hạnh giữa vợ và chồng, lại được quan-niệm một cách khác, như sau: 

“Tình cảm lớn nhất của một người là tình cảm vợ chồng, và sự kết nối ý nghĩa nhất cũng chính là sợi dây kết nối giữa vợ và chồng.

 Lòng khoan dung vô bờ bến nhất là lòng khoan dung mà vợ chồng dành cho chau; sự nhường nhịn ân cần nhất cũng là sự nhường nhịn giữa hai vợ chồng; và sự quan tâm không thể thiếu của một người cũng chính là sự quan tâm giữa vợ và chồng.

 Người ta ví hôn nhân giống như một tách trà. Khi vợ chồng êm ấm thuận hòa thì tách trà mang vị ngọt, khi bền lòng vượt qua bão tố thì tách trà nồng đượm hương thơm…Ngay cả những tách trà đắng thì cuối cùng vẫn để lại vị ngọt trên môi. Khi vợ chồng cùng nắm tay bước đến cuối con đường, thì hết thảy những khổ đau trong đời đều tỏa ra hương vị!

 Sau khi kết hôn, vì những điều vụn vặt trong cuộc sống mà vợ chồng không thể tránh khỏi ma sát hay va chạm. Khi chung sống lâu dài, người chồng có thể thấy vợ mình không còn xinh đẹp bằng những cô gái khác, còn người vợ cũng nhận ra rằng chồng mình không còn lịch lãm như xưa…

Cũng có một số người, khi đã có trong tay tiền tài và địa vị sẽ đi tìm cho mình một bến đỗ mới mẻ hơn. Nhưng bạn đã bao giờ nhìn lại? Vợ mình khi xưa cũng là cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng vì toàn tâm toàn ý với gia đình mới trở thành đóa hoa tàn úa?

 – Là người chồng, đừng bao giờ hỏi dáng vẻ yểu điệu thục nữ của vợ mình đã đi đâu mất?… Xin hãy quay đầu nhìn về phía các con, bởi vì cô ấy giờ đây đã là mẹ của các con mình rồi.

 – Là người chồng, cũng xin đừng bao giờ hỏi dung nhan xinh đẹp của vợ khi xưa đã đi đâu mất?… Là bởi vì cô ấy đã dốc sức chăm lo cho gia đình để bạn yên tâm gây dựng sự nghiệp lâu dài !

– Là người chồng, xin đừng trách vợ tại sao không thích đi dạo phố như xưa? Tại sao không thường xuyên mua quần áo đẹp như xưa?

– Cũng đừng trách cô ấy vì sao không được gọn gàng, chỉnh tề như thuở còn hò hẹn? … Đó là bởi vì người vợ giờ đây đã là người phụ nữ toàn tâm toàn ý cho chồng, cho con, cho gia đình,  không còn thời gian cho bản thân nhiều như xưa nữa!

 Một người vợ tốt luôn vì gia đình, vì người chồng mà cam tâm tình nguyện làm hết thảy, không cần báo đáp. Đó chẳng phải là vì người chồng chính là người mà cô ấy yêu nhất trên đời, là người cô ấy coi trọng nhất hay sao?

 Người vợ, người chồng luôn là người mà đêm khuya nóng ruột chờ đợi khi bạn chưa trở về, là người không ghét bỏ và rời xa khi bạn nghèo khó, luôn lặng lẽ ở bên bạn, cổ vũ khích lệ bạn, hỗ trợ bạn cho đến khi công thành danh toại. Khi bạn sinh bệnh, họ sẽ là người thời thời khắc khắc ở bên để chăm sóc bạn không quản ngày đêm.

 Đó chẳng phải đã đủ là ân nhân của nhau rồi sao?

Người vợ là con thuyền mang đến sự ấm áp cho chồng.

Người chồng là bến cảng mang đến sự bình an cho vợ.

Cho nên, bất kể một loại tình cảm nam nữ nào khác trên thế gian này đều không thể so sánh được với tình cảm giữa vợ và chồng!

 Hãy luôn yêu thương và trân quý người vợ, người chồng của mình,

Hãy cho họ một khoảng không gian và thời gian, đừng xem nhẹ hết thảy những gì họ đã làm cho bạn!

Yêu thương là phải trân quý, đừng để đến khi mất đi mới nhận ra những điều tốt đẹp của họ, lúc ấy hối hận cũng đã muộn màng!

 Thế đó, là lời lẽ cùng ý-niệm của người đời về chuyện đời, thật rõ nét. Thế nhưng, nhà Đạo mình nói thế nào về những chuyện như thế ấy? Trả lời cho câu hỏi này, thật không phải là chuyện đơn giản.

Thông thường thì, người người đều giải-quyết các khó-khăn/khúc mắc trong đời của mình và của người bằng những lý-luận hoặc lời giảng-giải này khác. Hôm nay đây, tôi mời bạn và cả tôi nữa, ta nghe câu truyện kể cũnt rất nhẹ, để xem sao. May ra cũng vui được một vài giây phút, dù chẳng giải-quyết được chuyện gì trong đời người và đời mình.

Truyện kể, đôi khi cũng là những giòng chữ nghe giống như truyện người khác từng kể cho mình, nhưng mình lại không tin. Truyện ấy nó nhẹ đến thế này đây:

“Truyện rằng:

Chiều đi làm về, trời nóng, anh tạt vào quán ngay gần công ty làm cốc café, chờ lát cho vãn người rồi về cho đỡ đông. Nhìn người ta chen chúc nhau mồ hôi nhễ nhại cũng ngán, lè lưỡi lắc đầu. Thế nên là thôi, nghỉ, làm hớp đã, đang khát! 

-Chú ơi đánh giầy không chú? 

-ưmmm… Anh vừa cúi ngậm uống hút vừa lắc đầu. 

-Rẻ mà chú, con chỉ xin cái bánh mỳ ăn cho đỡ đói thôi… 

-Giầy chú sắp cho vào bảo tàng đến nơi rồi, thử hỏi người khác xem nhé!

Anh cười nhìn nó, nó xị mặt nhìn anh, buông thõng 2 vai có vẻ mệt mỏi rồi thất thểu đi ra mé cửa ngồi. 

Mụ chủ quán ngồi ngay đó cất giọng chua ngoa: 

– Đi chỗ khác kiếm ăn đi 2 cái thằng kia! Chúng mày ngồi đó án ngữ thì ai dám vào hàng nhà tao nữa. Hãm vừa chứ!!!

Đúng là cái miệng xinh không đồng nghĩa với những lời nói đẹp. Nó hắt hủi thân phận của đồng loại. Anh với tay lấy chùm chìa khoá trên bàn gọi thanh toán, mình cũng đếch thèm ngồi ở cái quán này lần nào nữa luôn. Hãm!!!

Lao xe theo hướng 2 đứa nhỏ đi để tìm mà mãi không thấy. Quái! vừa thấy ở đây xong ngoắt cái đã không thấy đâu, bọn này nó bay đi chắc?? Anh tự hỏi. 

-Chú ơi… 

Anh giật mình, quay lại thấy thằng bé con đang ngồi sát ngay sau vách tường lúc nãy chìa tay ra.
-Sao lại ngồi đây? Anh cháu đâu? 

-Anh đi kiếm đồ ăn rồi, chú ơi …đói…!!!

Tội nghiệp, thằng bé còm nhom, chắc chỉ tầm 3-4 tuổi, bằng đứa cháu con ông anh trai anh là cùng. Đáng lẽ ra bây giờ nó phải đang được chăm sóc ăn uống đầy đủ, được đi mẫu giáo, có bố và có mẹ bên cạnh như bao đứa trẻ khác. Thế mà…

Anh lần túi quần ra được hơn 30k đưa cho nó: 

-Này cháu, cầm bảo anh đi mua đồ ăn cho nhé! 

-KHÔNG!!!

Chưa kịp đưa đến tay thằng bé thì thằng anh từ đâu chạy lại giật tay thằng em vào. 

-Con cám ơn chú nhưng anh em con không dám nhận đâu ạ. Bọn con đâu phải ăn xin. Chú có lòng tốt thì để con đánh giầy cho chú. Giọng nó có vẻ dứt khoát.

-Thế mày định để cho em nó đói chết à thằng kia?

Nó cúi gằm mặt xuống không nói gì. Thằng em thì cứ cầm lấy tay anh giật giật. Anh bước gần đến ấn tiền vào tay thì nó lại hẩy ra, xong quay ra ôm lấy thằng bé. 

-Thôi được rồi, Âyz, thế qua quán nước mía kia ngồi, chú trả công đánh giầy và mời 2 thằng nước mía. Được chưa?

Nó lí nhí: 

-Vâng, thế thì được ạ.

Vừa đặt cốc nước mía xuống bàn 2 đứa nó hút 1 mạch hết sạch, còn toàn đá. Anh quay qua chị bán nước giơ 2 ngón tay ý ra hiệu thêm 2 cốc nữa, chị hiểu ý ngay, gật lia lịa.

Đợi 2 cốc nước nữa đến, anh bắt chuyện. 

-Uống từ từ thôi không lạnh cổ, về đau họng đấy. Ngon không? 

-Dạ. Ngon ạ! Thằng bé con mút chùn chụt rồi quay sang anh. 

-Nước mía ngon quá anh hai, thế mà hôm trước anh bảo đắng lắm!

Nó cười hề hề rồi xoa đầu em. Thấy cốc thằng em đã gần hết, nó lấy cốc của mình đổ sang cho em.
-Ơ, anh hai không uống à? 

-Không, anh không thích uống nước mía. Em uống nốt đi.

Nó nhìn xuống chân anh. 

-Giầy chú bẩn quá rồi, con đánh giầy cho chú nha. 

-Ok! Hy vọng nó còn đánh được. Không cần sạch quá đâu.

Anh vừa tụt đôi giầy vừa xỏ đôi dép tổ ong nó đưa. Mặt nó đen nhẻm, nhưng nhìn kỹ khá sáng sủa.
– Cháu bao tuổi? 

-Tám chú ạ. 

-Tám?
-Dạ
-Quá nhỏ! 

Nó cười trừ – Con lớn rồi mà. 

-Mà sao cháu cứ xưng con với chú thế? Chú đâu quen cháu nhỉ. 

-Mẹ con bảo ra đường gặp người lớn phải xưng con hết, phải lễ phép với người lớn tuổi, mình không có gì thì cũng không để người ta coi thường được. Xưng con để thấy con người gần gũi nhau hơn chú ạ.

Anh tay chống cằm thở dài. Mình còn cố chấp hơn 1 đứa con nít. 

-Thế mẹ cháu… à con đâu? nhà ở đâu? 

-Mẹ con mất rồi ạ, gần 2 năm nay rồi. Nhà con ở đằng kia, nhưng bị phá rồi chú ơi. Người ta giải toả rồi, giờ tụi con ngủ ở sau chợ. 

-Thế bố? bố đâu? 

-Con không có bố. Lúc sinh ra đến giờ con chỉ biết có mẹ thôi. Con không được đến trường, mẹ dạy con viết, dạy con làm toán, cái gì mẹ cũng dạy con hết.

Nó vừa nói, 1 tay luồn vào trong giầy, 1 tay quệt xi thoăn thoắt, mặt trùng xuống. Anh cũng thôi, chẳng hỏi thêm nữa, quá khứ của mẹ nó chắc nó cũng chẳng biết đâu mà hỏi làm gì, nhưng trong đầu anh thì hiện lên cả đống giả thiết: nào là mẹ nó bị gã nào lừa xong không chịu cưới, bị nhà chồng hắt hủi hay cũng có thể người nhà ruồng bỏ… Nhưng có điều, anh chắc chắn đó là một bà mẹ tốt. Cứ nhìn cách thằng bé ăn nói và đối xử với người khác thì biết, hẳn nó phải bị ảnh hưởng rất nhiều từ mẹ. Anh bế thằng bé con lên cho ngồi lên đùi, nó cười, nụ cười như chưa từng được một lần như thế. Nó còn bé quá, còn chưa biết gì đang ở phía trước đợi chờ nó.

-Con định tích góp tiền để bữa nào nó lớn cho nó đến trường chú ạ, con không muốn nó giống như con. Nhưng mà sao giờ người ta khó quá, trước 1 ngày con đánh được hai chục đôi mà giờ chỉ được năm, sáu… Hôm mưa thì có khi chẳng đôi nào. Không có cái cho nó ăn nên nó còm nhom chú ạ.

-Ây za…Mà sao nhìn 2 đứa chả giống nhau nhỉ? 

-Dạ, con nhặt được nó ở góc chợ, nó khóc to lắm, con không biết ai để nó ở đấy nữa. 

-Sao không đem nó trả lại, con có nuôi nổi nó đâu. 

-Biết người ta ở đâu mà trả hở chú? Người ta đâu có thương nó, bỏ nó giữa chợ thế kia còn gì. Ít ra con còn có chỗ ngủ, kiếm được cái ăn cho nó. Nó chẳng có gì.

-Xong rồi chú. Có mấy chỗ con chà mãi không sạch. 

-Ừ, nó nát rồi thì sạch sao được, thế này là tốt lắm rồi, chú cảm ơn. Hết bao nhiêu chú gửi tiền

nào?
Dạ,7 ngàn chú. Nhưng thôi ạ, chú cho anh em con uống nước mía coi như hoà rồi ạ. 

-Hoà là hoà thế nào, nước mía là chú mời bọn mày. Đây, ví chú còn có ngần này, cầm lấy đưa em đi ăn cơm đi. Tối rồi. 

-Sao nhiều thế chú, con không dám cầm đâu. Mẹ con mắng đấy! 

-Sao con bảo mẹ con mất rồi? Không được nói dối nha, xấu lắm đấy. 

-Con không nói dối, mẹ con vẫn ở đây mà.

Nói rồi nó thò tay vào túi áo lôi ra cái ảnh be bé đen trắng có hình người phụ nữ tóc dài, đôi mắt buồn nhìn rất hiền. Lần đầu tiên anh thấy những tia nắng vàng cuối ngày nó nặng trĩu trên khoé mắt đến thế…

Anh xoa đầu nó:

-Cầm lấy, coi như chú đặt trước cả tháng, mai lại đánh giầy cho chú nhé.

Nó lưỡng lự một hồi, cuối cùng cũng chịu cầm rồi lí nhí: 

-Thế mai con sẽ đánh giầy cho chú nữa. Con cám ơn chú! 

-Ừ…

Thằng anh cầm tay thằng em lũng cũng đi theo. 

-Bữa nào kiếm được tiền mình đi uống nước mía nữa nha anh hai, ngon lắm!!!

 Anh nghe mà chẳng nhấc chân được lên. Giá mà ngay lúc này chú có thể làm được điều gì đó tốt hơn cho 2 đứa. Cảm ơn con, hôm nay là ngày may mắn của chú, con đã chỉ lại cho chú một con đường mà chú dường như đang mất dần niềm tin vào cái xã hội này. Chú vẫn tin là có điều kỳ diệu trên thế giới này, và con là một ví dụ. Cố gắng lên nhé! Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”(Theo benh.vn (st))

Vâng. Các truyện kể nhè nhẹ ở trên chỉ để phiếm cho vui, chứ không có ý thuyết-phục một ai ở huyện nhà, hết. Và, có kể truyện cũng chỉ để nhắc nhở người đọc cũng như bạn và tôi, rằng thì là: đời mình còn rất nhiều chuyện để kể và để nghe, cho quên buồn. Chứ không để giảng hoặc dạy bất cứ ai trong đời, mỗi thế thôi.

Nghĩ thế rồi, nay ta hãy về với Lời Vàng hiển thánh mà ngâm-nga suy-nghĩ, rồi cứ thế mà “quay đều” cuộc đời mình, cho đúng cách như đã được dạy rằng:

“Phần anh em,

anh em là con cháu của các ngôn sứ

và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với cha ông anh em,

khi Ngài phán với ông Abraham:

Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.

Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Ngài trỗi dậy

để giúp anh em trước tiên,

và sai đi chúc phúc cho anh em,

bằng cách làm cho mỗi người trong anh em

lìa bỏ những tội ác của mình.”

(Cv 3: 26-28)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ quay tròn

cuộc đời mình

cũng rất đều.

Ba Nhân cách LỚN của Cụ Trần Văn Hương

Ba Nhân cách LỚN của Cụ Trần Văn Hương

1 – Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại sứ Martin nói:

– Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT “trăm tuổi già”.

Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:

Cu Tran V Huong

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

– Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng Sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.

Khi nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giật mình nhìn trân trân Cụ Trần Văn Hương. Năm 1980, Cụ Hương thuật lại: Dứt câu chuyện, “on se sépare sans même se serrer la main” (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày).

2 – Vào năm 1978, khi việt cộng trả lại “quyền công dân” cho ông Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng Thống” Dương Văn Minh đang “hồ hỡi phấn khởi” đi bầu quốc hội “đảng cử dân bầu” của cộng sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được cộng sản trả lại “quyền công dân” nhưng Cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương đã gửi bức thư sau đây đến các cấp lãnh đạo chính quyền cộng sản:

“…hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhân viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng, Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh, Quân Nhân Công Chức các cấp các Chính Trị Gia, các vị Lãnh Đạo Tôn Giáo, Đảng Phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ là những người chỉ biết thừa hành mệnh lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi.”

3 – Sau cùng, trong hoàn cảnh cơ cực của thời đất nước bị đô hộ bởi miền bắc xã hội chủ nghĩa, các Ðại sứ của các nước Pháp, Úc cho người đến thăm Cụ và cho biết họ có thể can thiệp với cộng sản cho Cụ ra khỏi nước với lý do đi trị bệnh, nhưng cụ tiếp tục từ chối, cương quyết ở lại chia sẻ cùng dân quân Miền Nam sự tủi nhục và nghèo đói dưới gông cùm cộng sản

Xin nghiêng mình trước tiết tháo của một nhân sĩ miền Nam Việt Nam!

Khi Cụ qua đời, đám tang được tổ chức tại nhà do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp trong hẻm 210 đường Phan Thanh Giản, bên cạnh trường Marie Curie. Có một sự kiện thú vị cũng cần nên kể ra nơi đây là anh con trai trưởng của Cụ là Trần Văn Dõi đi ra phường để xin phép mua một cái hòm quốc doanh, nhưng bị người tài xế trung thành của Cụ chận ngang, và anh này chạy vào Chợ Lớn mua một cổ quan tài gỗ với giá 10.000 Ðồng (tiền việt cộng bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nên bớt xuống còn 5.000 đồng mà thôi.

Một trong những ước nguyện của Cụ là khi chết được chôn ở Nghĩa trang Quân Ðội với lễ nghi quân cách của một binh nhì; nhưng việc nầy cũng không thành. Tuy nhiên một an ủi cho Cụ là được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Ðức, xéo bên cạnh bức tượng Tiếc Thương, trước sự hiện diện đông đủ của học trò cùng hầu hết thân hào nhân sĩ miền Nam không quản ngại mạng lưới công an chằng chịt chung quanh lò thiêu.

Hôm nay, nhân ngày giỗ Cụ Trần Văn Hương, cúi xin đốt nén hương lòng tưởng niệm một người con Việt chân chính miền Nam với niềm tin chắc chắn rằng Tuổi trẻ Việt Nam sẽ tiếp nối bước đường Cụ đi và chắc chắn sẽ thành công trong công cuộc dành lại quê hương từ tay bạo quyền Cộng sản.

Thành kính xin Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ Việt Nam trong công cuộc giành lại Quê Hương.
Tết Đinh Dậu – 2017

Người con Việt miền Nam

NẺO VỀ HẠNH PHÚC

NẺO VỀ HẠNH PHÚC

Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 – 762).  Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế.  Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao…

 Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm.  Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.  Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ.  Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ.  Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh.  Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.  Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.

 Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.  Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.

Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta.  Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc.  Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.

Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.  Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) tỏa xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.  Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.  Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.

Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.  Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.  Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng.  Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.

Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt.  Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải.  Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là “Vầng Trăng” thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi.  Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài.”

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao.  Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được, và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật.  Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…

Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.  Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.  Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.

LM Ignatiô Trần Ngà (trích từ “Cùng Đọc Tin Mừng”)

From: langthangchieutim

LỄ TANG KHÔNG MỘT VÀNH KHĂN TRẮNG

LỄ TANG KHÔNG MỘT VÀNH KHĂN TRẮNG
 

Thân phụ tôi cũng đã bước vào cái tuổi thất thập cổ lai hy và trong người đầy bệnh tật để rồi chúng tôi sẵn sàng đón nhận cái ngày sau chót của Cha trên cõi tạm. Hình dung ra cái ngày đau đớn ấy chắc có lẽ chỉ vài mảnh khăn tang bởi gia đình đơn chiếc lắm. Thế nhưng, chiều hôm nay, tôi lại tham dự một Lễ tang không vành khăn trắng. Lễ tang ấy của một nữ tu đang ở cái tuổi mọng chín của cuộc đời.

Lúc 9 giờ 30 sáng ngày thứ Hai, 16 tháng 1 năm 2017 chị Matta Nguyễn Thị My đã trở về nhà Cha sau nhiều ngày tháng đớn đau với bệnh tật. Chị ra đi không tránh khỏi bàng hoàng cho kẻ thân người thiết và nhất là Hội Dòng.

Hoàn cảnh của chị Matta ai nào đó nghe đến không khỏi phải chạnh lòng !

Trong một chuyến ghe định mệnh để tìm kế sinh nhai, thân phụ mẫu của Chị đã ra đi vĩnh viễn. Nỗi đau đớn không thể nào bù đắp nỗi lại dồn dập đến đời chị với những vành khăn tang thật đau đớn chít lên đầu chị với những người thân.

Phận mồ côi chua xót đã đẩy đưa chị đến nương nhờ nơi gia đình ông bà ngoại. Rồi một ngày nào đó ông bà ngoại cũng đã xuôi tay và chị về với ông bà nội. Và, cũng chẳng bao lâu sau đó ông bà nội cũng chẳng còn.

Sau những biến cố bi thương ấy, chị bước vào tìm hiểu và dấn thân trong con đường ơn gọi.

Và với 10 năm khấn dòng làm một nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và chỉ với 42 năm làm con Chúa nay chị đã được Chúa gọi về.

15 giờ 00 chiều nay, 17 tháng 1 năm 2017, Hội Dòng và những người quenbiết đã ngậm ngùi đưa tiễn Chị nữ tu Matta về nơi an nghỉ sau cùng chờ ngày Phục Sinh với Chúa.

Thánh Lễ của chị hết sức đặc biệt bởi lẽ chẳng có một vành khăn tang.

Bày tỏ lòng hiệp thông sâu sắc, chủ tế Thánh Lễ an táng cho chị Matta là Cha Gioan Baotixita Lê Đình Bạch – Cha Sở họ đạo Cái Mơn. Cùng đồng tế với Cha G.B. có 16 Cha trong và ngoài giáo phận, trong đó có 2 cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế đang phục vụ tại họ đạo Giồng Trôm và TTHH La Mã.

Trong tâm tình chia sẻ, Cha Gioan Baotixita Lê Đình Bạch gợi lên hình ảnh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu với 24 tuổi đời cho cộng đoàn phụng vụ. Cha G.B. nhắc đến hình ảnh của chị nữ tu Matta đã ở thế gian này 42 năm với nhiều bệnh tật theo đuổi và chị đã chuẩn bị thật chu đáo để trở về với Chúa … Chúng ta nhìn chiếc quan tài với thân phận con người chúng ta cầu xin Chúa ban ơn tha thứ cho Chị và cho Chị mau hưởng Nhan Thánh Chúa.

Cha G.B. cũng không quên nhắc đến tấm lòng của vị Cha Chung Phêrô Huỳnh Văn Hai đang dâng Thánh Lễ cử hành Bí Tích Thêm Sức nên không hiện diện trong Thánh Lễ này. Đức Cha Phêrô vẫn nhớ đến chị Matta bởi lẽ mão, áo Giám Mục của Đức Cha do chính bàn tay của chị Matta may cho Đức Cha.

Lời nguyện Hiệp Lễ kết thúc, Cha Phanxicô Xaviê Lê Quang Dũng đã chủ sự nghi thức tiễn biện chị Matta.

Sau đó, Chị Matta được đưa ra trước núi Đức Mẹ để chào Đức Mẹ lần cuối trước khi ra đất Thánh của Hội Dòng.

Đặc biệt, Cha Giuse Nguyễn Hữu Trí – người con của họ đạo Cái Mơn hiện là phó họ Cái Nhum đã đưa Chị Matta đến mộ phần.

Nhiều và nhiều người ngậm ngùi đưa tiễn người thân yêu trong ơn gọi, trong mối thân tình vào lòng đất Mẹ. Xin gửi thân xác chị trong lòng đất này để chờ đợi ngày chị được phục sinh. Xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót đón nhận chị Matta vào và cho Chị mau được hưởng Nhan Thánh Chúa như lòng Chị hằng mong ước.

Tác giả:  Người Giồng Trôm