THÁNH MONICA VÀ THÁNH AUGUSTINÔ

THÁNH MONICA VÀ THÁNH AUGUSTINÔ

Trầm Thiên Thu 

Chắc hẳn chẳng ai xa lạ gì với hai vị thánh là mẹ con, đó là thánh mẹ Monica và thánh con Augustinô – Giám mục Tiến sĩ.  Hằng năm, ngày 27-8 là lễ kính nhớ người mẹ, và ngày 28-8 là lễ kính nhớ người con. 

Thánh Monica (331-387) là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình, đặc biệt là những người mẹ Công giáo.  Bà được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá.” 

Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria).  Bà sống các nhân đức Kitô giáo nổi bật, nhất là chịu đựng sự ngoại tình của người chồng, bà khóc hằng đêm vì thương “cậu ấm” Augustinô, chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật (Confession).

Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà sớm kết hôn với một người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste, một người chồng có tính nóng như lửa, nghiện rượu, ngoại tình, phóng đãng, luôn khó chịu vì vợ hay làm việc từ thiện và cầu nguyện. 

Thánh Monica có 3 người con: Augustinô là con trai trưởng, Navigius là con trai thứ hai, và Perpetua là con gái út.  Thánh Augustinô bướng bỉnh, lười biếng, và được gởi vào học tại trường Madaurus.  Thánh Monica bị coi là một người vợ hay bị cằn nhằn, là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng trước mọi nghịch cảnh.  Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính.  Nhưng lời cầu nguyện và gương lành của thánh Monica đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo.  Patrixiô mất năm 371, sau khi đã được rửa tội một năm, lúc này Augustinô 17 tuổi.  Thánh Monica ở vậy nuôi dạy các con.  Augustinô tiếp tục theo học tại trường Carthage, và tại đây chàng Augustinô bắt đầu ăn chơi trác táng.

Tại Carthage, biết Augustinô theo tà thuyết Manichean (*), thánh Monica đã thẳng thắn đuổi Augustinô đi chỗ khác, không được ăn uống và không được ngủ trong nhà.  Đêm đó, thánh Monica đã có thị kiến lạ là “đứa con trời đánh” sẽ trở lại, thế nên bà giải hòa với con.  Từ đó, bà luôn theo sát con mọi nơi mọi lúc, đêm ngày cầu nguyện và ăn chay vì con.

Rồi bà đã gặp một giám mục thánh thiện là thánh Ambrôsiô, giám mục này khuyên bà và nói tiên tri: “Đứa con của nước mắt sẽ không hư mất. Thánh Monica bí mật theo con đi khắp nơi để tìm cách cứu con ra khỏi vũng lầy tội lỗi.  Tại Manila (Ý), thánh monica đã gặp thánh Ambrôsiô và được chứng kiến con trai Augustinô trở lại sau nhiều năm ròng rã 

Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để dạy khoa hùng biện.  Thánh Monica cũng quyết định đi theo con.  Một đêm nọ, Augustinô nói với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn.  Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi Rôma.  Thánh Monica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn âm thầm đi theo.  Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan.  Dù việc đi lại khó khăn, thánh Monica vẫn theo con tới Milan và bất cứ nơi nào khác.

Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng thánh giám mục Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của thánh Monica.  Bà nghe lời khuyên của thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự.  Thánh Monica trở thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.  Bà vẫn tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô.

Lễ Phục Sinh năm 387, thánh Ambrôsiô đã rửa tội cho Augustinô và vài người bạn của Augustinô tại Nhà thờ Thánh Gioan Tẩy Giả ở Milan (Ý quốc).  Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu.  Biết mình không còn sống bao lâu nữa, thánh Monica nói với Augustinô: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui.  Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện.  Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời.  Hầu như những gì chúng ta biết về thánh Monica là nhờ các tác phẩm của thánh Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật. 

Thánh Augustinô được rửa tội lúc 33 tuổi, rồi làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi.  Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân.  Đó là nhờ nước mắt và sự kiên trì cầu nguyện của người mẹ là thánh Monica, sự hướng dẫn của thánh giám mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với thánh Augustinô qua Kinh thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu. 

Trong những năm đầu đời, thánh Augustinô đắm chìm trong kiêu ngạo, hoang đàng và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi thủ đoạn của ma quỷ thời đó – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý.  Chính kinh nghiệm “xương máu” của đời mình mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ, chẳng hạn: “Ngài có đó khi ta tưởng mình đơn côi, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ; hoặc:“Hát hay là cầu nguyện hai lần; hoặc:“Chúa dựng nên con thì Ngài không cần đến con, nhưng để cứu độ con thì Ngài cần đến con. 

Thánh Augustinô không thể im lặng, như ngôn sứ Giêrêmia xưa đã phải thú nhận: “Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.  Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt.  Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20:9).

Thánh Augustinô viết về người mẹ của mình: “Trong chiếc rổ đầy trái cây, mẹ tôi biết đem cả một trái tim đầy ắp lời cầu xin thuần khiết tới nhà thờ Các Thánh Tử Đạo, và trao hết cho người nghèo – để việc rước Mình Thánh Chúa được cử hành ở đúng vị trí.  Noi gương Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, các thánh Tử Đạo đã hy sinh và đã nhận triều thiên” (Tự Thuật 6.2.2)

Khi con trai Augustinô trở lại, hai mẹ con sống bên nhau sáu tháng an bình tại Rus Cassiciacum (ngày nay là Cassago Brianza).  Thánh Monica qua đời ở tuổi 55.  Sau khi an nghỉ trong Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa, thánh Monica được an táng tại Ostia, và hầu như chẳng còn ai nhớ đến bà. 

Thế kỷ XIII, lòng sùng kính thánh Monica bắt đầu lan rộng.  Lúc đó, lễ thánh Monica vào ngày 4-5.  Năm 1430, dưới thời Đức Giáo Hoàng Martin V, hài cốt thánh Monica được dời tới Nhà thờ thánh Augustinô ở Rôma, đặt ngay bên phải bàn thờ.  Nhà thờ này do Đức Hồng Y Estouteville của Tổng Giáo Phận Rouen đã cho xây dựng.  Nhiều phép lạ đã xảy ra trong tháng Năm.  Mãi đến thế kỷ XVI, lễ thánh Monica mới được ấn định trong Lịch Phụng Vụ.

Thành phố Santa Monica ở California (Hoa Kỳ) là đặt theo tên thánh Monica.  Tương truyền rằng, hồi thế kỷ XVIII, linh mục Juan Crespí đặt tên cho một dòng suối là Las Lagrimas de Santa Monica (Nước mắt của thánh Monica), ngày nay gọi là Serra Springs, gợi nhớ những giọt nước mắt mà thánh Monica đã nhiều năm ròng rã khóc vì nghịch tử Augustinô.  Tượng thánh Monica được dựng tại Santa Monica’s Palisades Park (Công viên Hàng rào Thánh Monica), tượng do điêu khắc gia Eugene Morahan hoàn tất vào năm 1934.

Lạy Thánh Monica và Thánh Augustinô, xin cầu thay nguyện giúp.  Amen!  

Trầm Thiên Thu 

(*) Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác.  Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

 From: langthangchieutim

Thánh Augustine (354-430)

28/08/2021

28 Tháng Tám
Thánh Augustine
(354-430)

Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.

Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.

Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.

Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).

Lời Bàn

Trong thời đại chúng ta, Thánh Augustine vẫn còn được xưng tụng và vẫn còn bị kết án. Ngài là vị ngôn sứ của thời đại ngày nay, thúc giục chúng ta phải từ bỏ khuynh hướng thoát ly thực tế và can đảm đối diện với trách nhiệm và phẩm giá của mỗi một người.

Lời Trích

“Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết! Thật quá muộn để con yêu mến Ngài! Và đây, Ngài ở bên trong, con ở bên ngoài, và con đi tìm Ngài; con bị méo mó, đắm chìm trong những hình dáng đẹp đẽ mà Ngài đã dựng nên. Ngài ở với con, nhưng con không ở với Ngài. Nhiều thứ đã giữ con xa Ngài – những thứ mà nếu chúng không ở trong Ngài, thì chẳng là gì cả. Ngài kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Ngài lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Ngài thở hương thơm và con bị lôi cuốn – và con khao khát Ngài. Con đã nếm thử, và con đói khát. Ngài chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Ngài” (Tự Thú của Thánh Augustine).

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Monica (322?-387)

27/08/2021

27 Tháng Tám
Thánh Monica
(322?-387)

Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.

Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.

Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.

Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.

Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, “Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất.” Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.

Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.

Lời Bàn

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

Lời Trích

Khi Thánh Monica từ Bắc Phi Châu sang Milan, ngài nghĩ ra những thói quen đạo đức mới cho ngài và cho những người thời ấy, tỉ như ăn chay ngày thứ Bảy, là điều không phổ thông ở Milan. Ngài hỏi Thánh Ambrôsiô là nên giữ những thói quen nào. Câu trả lời nổi tiếng của Thánh Ambrôsiô là: “Khi cha ở đây, cha không giữ chay ngày thứ Bảy, nhưng khi ở Rôma thì cha sẽ giữ chay; hãy làm theo những phong tục và huấn thị của Giáo Hội như đã được ban bố đặc biệt cho địa phương mà con đang sống.”

Trích từ NguoiTinHuu.com

THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO – Ngày 10 tháng 8

May be art of 2 people

Ngày 10 tháng 8

THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO

“Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.”

Thánh Laurensô sinh tại thôn Huêca nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là người rất đạo hạnh. Quãng đời thơ ấu của Laurensô không được ghi lại tường tận, chỉ biết rằng: Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để sang du học tại Rôma và đã sống cả cuộc đời trần thế tại đây

Được sống nơi kinh đô Giáo Hội, Laurensô hăm hở học hành và rèn luyện nhân đức, nên chẳng bao lâu tiếng nhân đức và tài học rộng hiểu sâu của ngài vang lừng khắp nơi. Khi vừa lên ngôi ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức tân Giáo Hoàng Xíttô đã chọn Laurensô làm Phó tế giúp việc cho ngài.

Nhưng rồi cơn bách hại đạo làm cho Giáo Hội Chúa lại phải sống trong âu lo và thử thách. Giông tố đó do Hoàng đế Valêrianô gây ra. Để trốn tránh, giáo sĩ cũng như giáo dân phải sống dưới những hang toại đạo hoặc trong những nhà giáo dân kín cổng, cao tường.

Hoàng đế Valêrianô ra lệnh cho quân lính bí mật theo dõi Đức Giáo Hoàng và một đêm kia, quân lính đã tìm ra con đường nhỏ, quanh co dẫn xuống hầm giữa nghĩa địa Prêtêta. Bắt được Đức Giáo Hoàng đang ngồi giảng dạy Lời Chúa giữa đông đảo giáo dân. Quân lính xông vào bắt Đức Giáo Hoàng và đoàn tháp tùng đem nộp cho quan. Ngài bị án chém đầu. Được tin sét đánh này, thầy Phó tế Laurensô vội vã chạy theo Đức Giáo Hoàng và năn nỉ xin được cùng chết với vị cha chung. Nhưng Đức Giáo Hoàng Xíttô an ủi:

– Con yêu dấu, cuộc bách hại đạo dữ dội đang chờ đợi con, vài ngày nữa con sẽ theo Cha. Phần Cha, nay đã già cả, Cha sẽ trải qua những thử thách này cách nhẹ nhàng, nhưng con còn trẻ trung, đầy nghị lực, con sẽ phải trải qua cuộc bách hại đạo vẻ vang hơn nhiều. Rồi Đức Giáo Hoàng ban phép lành vĩnh biệt người con yêu dấu, để đi ra pháp trường.

Trước cái tang chung của Giáo Hội và trước cảnh “Đoàn chiên không chủ chăn”, thầy Phó tế Laurensô suốt ngày đêm đi săn sóc và an ủi giáo dân đang ẩn nấp, rải rác khắp thành Rôma.

Hoàng đế Valêrianô là con người độc ác, lại tham lam, khi biết Giáo Hội còn nhiều tài sản, lập tức, ông hạ lệnh bắt thầy Phó tế Laurensô tới để tra của. Hoàng đế nói với thầy:

– Giáo Hoàng và các người Kitô giáo trách ta xử ác với họ. Giờ đây ta hứa sẽ dễ dãi nếu ông đem nộp cho ta tất cả của cải như chén vàng, đĩa bạc, chân nến và các đồ thờ quý giá: Ta rất cần các đồ đó để tăng cường ngân quỹ quốc gia.

Thầy nhanh nhẹn trả lời:

– Thưa Hoàng đế, tôi rất giàu, chính kho bạc của Hoàng đế cũng không thấm vào đâu, tôi sẽ nộp cho Hoàng đế những vật quý báu ấy. Vậy xin Hoàng đế cho tôi ít ngày để kịp thu gom của cải đó lại.

Hoàng đế gia hạn ba ngày.

Còn thầy Phó tế Laurensô ngang nhiên đi khắp thành phố Rôma, tập trung các bệnh nhân mà Giáo Hội vẫn cấp dưỡng, gồm mọi thứ bệnh: Phong cùi, mù loà què quặt, độ chừng 1.500 người. Ngài thuê những chiếc xe ngựa chở họ thẳng tới cung điện Hoàng đế.

Thấy công việc kỳ lạ của thầy, dân thành Rôma rủ nhau đi xem rất đông. Đoàn xe ngừng trước cung điện Hoàng đế, thầy tâu trình lớn tiếng:

– Tâu Hoàng đế, đây là tất cả kho tàng quí báu của Giáo Hội Công giáo chúng tôi, đây là những người nghèo khổ, bệnh tật, nhưng chính nhờ công việc cứu trợ họ và chúng tôi đã tích trừ được nhiều kho báu trên trời. Xin Hoàng đế hãy đón nhận tất cả của cải này để dùng cho thành Rôma và cho chính Hoàng đế.

Trước những lời đầy khiêu khích đó, Hoàng đế Valêrianô đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng, ông truyền đánh đòn thầy bằng roi sắt; rồi truyền đem các dụng cụ hành hình ra trước mặt thầy và nói:

– Ngươi sẽ phải chết, nhưng ngươi đừng tưởng sẽ được chết ngay đâu ta sẽ kéo dài cái chết của ngươi bằng trăm ngàn cực hình .

Người lính dũng cảm của Chúa Kitô mạnh dạn thưa:

– Ngài tưởng tôi sợ cực hình sao? Không đâu! Ngài cho những cực hình đó là ghê sợ, nhưng tôi không sợ chút nào, mà còn ước mong từ lâu.

– Ngươi tưởng rằng, “những của cải quí báu” kia sẽ cứu ngươi thoát những cực hình sao?

– Tôi cậy vào của cải trên trời, đó là lòng Chúa nhân từ thương xót. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi được giải thoát, dù khi thân xác tôi phải phanh ra làm trăm ngàn mảnh.

Hoàng đế truyền đánh đòn thầy lần nữa. Đồng thời, Hoàng đế truyền cho lý hình nung đỏ những thanh sắt dí vào khắp mình ngài.

Không kêu la, than trách, thầy ngửa mặt lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương đến tôi tớ Chúa đã bị kết án là không chối Chúa, đã bị tra tấn vì dám tuyên xưng Danh Thánh Chúa giữa trăm ngàn cực hình”.

Hoàng đế tức giận hét lên:

– Mày là thằng phù thủy, mày coi khinh cực hình, nhưng nhân danh các thần minh, nếu mày không tế lễ các ngài, ta sẽ hành hạ mày như chưa từng ai có thể làm được.

Thầy mạnh dạn trả lời:

– Nhờ ơn Chúa, tôi không sợ chút nào, mọi cực hình sẽ qua đi. Chúc Hoàng đế hăng hái thi hành điều ngài dự định để làm khổ tôi.

Được lệnh, lý hình lấy roi sắt tua gắn chì đánh túi bụi vào thân xác ngài, đến nỗi những mảnh thịt bóc ra tung toé. Khắp mình mẩy tím bầm, đẫm máu. Thầy tưởng giờ phút vinh quang đã tới. Nhưng từ trời có tiếng vang lên báo cho ngài biết ngài còn phải chịu đựng thử thách gay go hơn nữa. Chính Hoàng đế cũng nghe thấy những tiếng vang đó, Hoàng đế kêu lên:

– Đoàn quân Rôma, các ngươi không nghe thấy ác quỉ đang kéo tới cứu phạm nhân, khinh dể thần minh và coi thường các khổ hình sao?

Như không để ý đến lời hò hét của Hoàng đế, thầy sốt sắng cầu xin:

– Lạy Chúa, xin thương đến người tôi tớ bất xứng này, con nguyện xin Chúa hãy ban cho những người có mặt đây được trở lại cùng Chúa. Xin Chúa hãy an ủi họ trước toà phán xét.

Bấy giờ, một Thiên thần lấy hình một thanh niên tới an ủi và lau chùi các vết thương cho thầy. Một binh sĩ tên là Rômanô được Chúa cho xem thấy sự lạ này, đã mạnh dạn tiến thẳng tới xin thầy Phó tế Laurensô rửa tội cho anh và sau đó Rômanô cũng được phúc tử đạo.

Hoàng đế Valêrianô vẫn chưa nguôi căm tức, Hoàng đế truyền đặt trước mặt thầy những dụng cụ hành hình có thể làm sởn tóc gáy người xem. Hoàng đế hỏi lý lịch, thầy trả lời:

– Quê tôi ở Tây Ban Nha, từ nhỏ tôi đến ở Rôma được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo.

– Ngươi tôn thờ Thiên Chúa, Đấng dạy ngươi bất kính các thần minh và coi thường các khổ hình phải không?

– Nhân danh Chúa Kitô, tôi không sợ khổ hình chút nào .

Nghe lời thách thức đó, Hoàng đế căm giận như điên cuồng, truyền nung đỏ giường sắt và đặt thầy lên giường sắt nung đỏ. Lúc đó, ngài cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin nhận hy lễ xông hương thơm ngọt ngào này.

Rồi, quay sang phía Hoàng đế, ngài nói:

– Tâu Hoàng đế, Hoàng đế có biết không, lửa này chỉ làm cho tôi tươi tỉnh hơn, nhưng nó sẽ dành sức nóng để thiêu đốt Hoàng đế đời đời.

Hoàng đế Valêrianô tức giận, sùi bọt mép và trở nên mù quáng trong giận dữ còn thầy tươi cười nói tiếp:

– Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.

Khi lý hình đã lật thầy lên, ngài nói:

– Đã chín rồi, mời Hoàng đế ăn đi.

Lúc đó, đoàn giáo dân đứng vây quanh, thấy một vầng sáng lạ lùng bao quanh thầy và xác ngài toả ra hương thơm ngào ngạt.

Biết rằng cuộc chiến đấu sắp hoàn tất, thầy cảm tạ Thiên Chúa:

– Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa mà con sắp được vào nước hạnh phúc,

Rồi ngài tắt thở, hôm đó là ngày 10 tháng 8 năm 258.

Xác thầy được hai linh mục kính cẩn an táng một nơi cách thành phố Rôma hai ngàn thước. Thế kỷ IV, Hoàng đế Constantinô đã xây cất một ngôi thánh đường nguy nga trên chính mộ thánh nhân và được mang tên thánh Laurensô.

TgpSaigon.net  

THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY VÀ TÒA GIẢI TỘI

THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY VÀ TÒA GIẢI TỘI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Có thể nói rằng: phép lạ vĩ đại của cha Thánh Gioan Maria Vianney là tòa giải tội, nơi tội nhân được ơn hoán cải.  Mỗi ngày, ngài ngồi giải tội từ 11 giờ đến 12 giờ vào mùa Đông, và thậm chí là 16 đến 18 giờ vào mùa Hè.  Khi hành hương đến xứ Ars, trước tiên tôi tìm đến tòa giải tội nơi thánh nhân ngồi mấy mươi năm, quỳ gối cầu nguyện và xin ngài chúc lành cho sứ vụ hòa giải trong đời linh mục của mình.

Công việc mục vụ ngồi tòa, giải tội là sứ vụ đức ái mục tử đẹp nhất trong cuộc đời của cha thánh, là hoạt động sáng chói nhất trong nhiệm vụ của một mục tử.

Thời trẻ, Gioan có một tâm nguyện: “Nếu một ngày nào đó tôi được làm Linh mục, tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa.”  Khi làm Linh mục, ngài đã thực hiện tâm nguyện ấy.  Tòa giải tội là nơi ngài đưa các linh hồn về cho Chúa nhiều nhất.  Tòa giải tội đã thu hút biết bao hối nhân tìm đến với xứ Ars.  Tòa giải tội là phép lạ lớn nhất trong cuộc đời của thánh nhân.  Đức Giáo Hoàng Piô XII viết về cha thánh Gioan Maria Vianney một câu thật ngắn gọn: “Một chuyên viên thành thạo nhất về các tội nhân.”

  1. Thời gian ở tòa giải tội

 Một phần lớn cuộc đời Linh mục của cha Vianney trôi qua trong tòa giải tội.  Trong 30 năm dài, một làn sóng người hành hương không ngừng đổ về ngôi nhà thờ cũ kỹ của họ Ars.  Mùa đông rét buốt, số người đến đây không ít hơn các mùa ấm áp.

Tứ tháng 11 đến tháng 3, cha sở phải ngồi tòa trung bình không dưới 12-13 giờ mỗi ngày.  Người ta đứng thành hàng dài, từ trong nhà thờ ra bên ngoài, nối đuôi nhau không ngớt chờ đợi tới phiên mình.  Trong năm 1845, có ngày số người hành hương đến Ars lên tới ba hay bốn trăm.  Tại nhà ga lớn nhất của Lyon, người ta mở một văn phòng hoạt động 24/24 để bán vé tàu cho khách đi Ars, vé có giá trị tám ngày, đó là thời gian trung bình người ta phải đợi cho đến phiên mình vào tòa xưng tội với vị Linh mục thánh thiện nổi tiếng.

Vào mười năm cuối đời, thánh Vianney phải giải tội từ mười sáu đến mười tám tiếng một ngày!  Còn khách hành hương nói chung phải đợi ba mươi, năm mươi, bảy mươi giờ trước khi được lãnh nhận bí tích hòa giải.  Cũng có khi người ta mua lại chỗ đứng của người nghèo.  Ai muốn đi ra ngoài phải thỏa thuận với người bên cạnh hoặc với người bảo vệ nhà thờ.  Đêm thì sao?  Khi cửa nhà thờ đóng lại, người ta đánh số chỗ của mình. (x. Linh mục, người loan báo Tin Mừng, Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

  1. Ai đến với tòa giải tội?

Họ gồm đủ mọi thành phần và lứa tuổi: có giáo dân, tu sĩ, linh mục và đôi khi cả giám mục nữa; họ là quý tộc và bình dân, kẻ vô chủ nghĩa và người học thức, người thành thị và người thôn quê…  Có khi nguyên một gia đình ngồi trên xe ngựa đến từ những tỉnh xa xôi.  Từ những vùng lân cận, người ta tuôn về đây bằng đôi chân hay bằng xe, theo đường bộ hay đường thủy.  Năm cuối cùng của cuộc đời cha Vianney (1858-1859), số khách hành hương lên tới tám mươi ngàn, chỉ tính riêng số người dùng các phương tiện chuyên chở công cộng; còn tính chung có lẽ là khoảng một trăm ngàn đến một trăm hai mươi ngàn.

Đám đông này rất trật tự và nghiêm trang.  Họ đến là để nhìn một vị thánh, để xưng tội, để cầu nguyện hay để hoàn thành một lời khấn với thánh nữ Philomêna.  Có những người vào làng Ars như vào một đền thánh; vừa nhìn thấy tháp chuông nhà thờ, họ liền cất nón mũ xuống và làm dấu thánh giá.  Một nhân chứng kể lại quang cảnh họ nhìn thấy vào tháng ba năm 1859: đông đảo những người ngoài họ Ars đứng trong nghĩa trang cũ, và đến tận trong những con đường nhỏ kế cận chờ đến phiên vào tòa giải tội.

Buổi sáng vào khoảng chín giờ, cha Vianney dành một số thời gian cho các tu sĩ và linh mục.  Ngài giải tội cho họ ở một tòa đặt sau bàn thờ chính.  Có lần Đức Giám mục địa phận nhà cũng ngồi chờ phiên mình.  Cha giải tội cũng dành một số ngoại lệ cho giáo dân con chiên cha, người bệnh, người tàn tật, và những hối nhân không thể chờ đợi.  Đối với trường hợp cuối cùng này, ngài thường dùng ơn “nhìn thấy trong tâm hồn” để nhận ra từ trong dòng người chờ đợi, rồi ưu tiên cho họ.  (sđd, trang 62-63).

  1. Cha Vianney khuyên bảo các hối nhân như thế nào?

Nói chung, ngài mạnh mẽ thẳng thắn, nhân từ nhưng không yếu đuối.  Ngài biết cần phải “đánh” điểm nào cho trúng đích.  Đọc một số lời khuyên còn ghi lại, tôi thấy ngài thường ngắn gọn, đầy tâm tình chứ không máy móc lạnh lùng.

Để lay tỉnh những “đại tội nhân”, khá nhiều khi ngài tung ra một câu đanh thép: “này con, con bị luận phạt đời đời.”  Phát ra từ môi miệng một vị thánh mà người ta tin là ngài đọc được tương lai, câu đó giống như một lời phán quyết khủng khiếp.  Nhưng thật ra ngài chỉ muốn nói: “nếu con không xa lánh dịp tội ấy, nếu con cứ duy trì cái thói quen tội lỗi ấy, nếu con không nghe theo lời khuyên dạy thì con sẽ bị luận phạt.”

Đối với những người đạo đức, ngài không cần nhiều lời.  Nhưng ngay cả với trường hợp này, vẫn là những mũi tên nóng bỏng đâm thấu tận con tim: “xin Đức Cha yêu thương các Linh mục của ngài!”  Đó là lời duy nhất ngài nói với Đức cha De Langalerie, Giám mục địa phận Belly đang quỳ gối trước mặt ngài.  Một cộng sự viên gần gũi của ngài xưng thú: “con đã lười biếng làm điều này nhưng tận đáy lòng, con vẫn thiện chí,” cha giải tội đáp lại duy nhất một câu “Ồ! thiện chí, thiện chí… hỏa ngục cũng lót toàn thiện chí.”  Linh mục Monnin kể: “tôi đã xưng tội với ngài hai lần.  Lần nào cũng thế, sau mỗi tội tôi xưng ra dù là tội nhẹ nhất, ngài đều nói: ‘đáng tiếc quá.’  Từ một người khác, đó có thể là một cách nói thông thường, nhưng từ môi miệng của Cha Sở họ Ars, linh mục Monnin coi như là tiếng kêu của lòng tin, lòng thương xót và sự ghê tởm đối với tội lỗi; ngài thêm: “Nhất là giọng nói đầy âu yếm đã đánh động tôi” (sđd, trang 64).

  1. Cha Vianney yêu thương tội nhân

Cha Vianney ghê tởm tội lỗi bao nhiêu thì yêu mến người tội lỗi bấy nhiêu.  Ngài có một lòng cảm thương vô bờ đối với hối nhân.  Tình yêu ấy được biểu lộ qua những nhân đức sau đây.

  1. Cầu nguyện cho tội nhân

 Xen lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường khóc lóc mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ có tội phải chết…  Những người có tội thật đáng thương.  Ước gì con có thể thú tội thay cho họ.”  Một người thân tín nói với ngài: “Cha cầu nguyện cho họ ít đi một tí được không?  Thấy cha vất vả đau khổ quá!  Ngài trả lời: “Biết sao được.  Cha đã hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”  Lần khác ngài tâm sự: “Tôi chỉ thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những người tội lỗi.”

  1. Đền tội thay cho họ

 Ngài ăn chay hãm mình để đền bù tội lỗi và mong cho tội nhân hối cải.  Trong những năm cuối đời, ngài thường ra việc đền tội nhẹ cho hối nhân.  Ngài nói: “Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ làm thay.”  Và ngài làm thay bằng chính sự khổ chế của mình.  Tất nhiên, không phải lúc nào cũng vậy.  Đối với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài bắt hối nhân phải làm những việc đền tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân thành và quyết tâm sửa đổi, hầu đem lại lợi ích cho chính họ.  Cha Vianney nhiều khi còn khóc trong tòa giải tội nữa.  Ngài khóc vì người ta xúc phạm tới Chúa, ngài cũng khóc vì thương các linh hồn…  Chính sự thánh thiện của ngài mang lại cho lời khuyên răn và nước mắt của ngài có sức mạnh và hiệu lực.  Có người hỏi: “sao cha khóc thế?” ngài đáp ngắn gọn: “tôi khóc vì các ông các bà không khóc cho đủ.”

  1. Yêu thương tội nhân

Đối với những tội nhân cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối như gặp gỡ, khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và ngay cả bằng nước mắt.  Nước mắt và Thánh giá, nhờ ngài, có thể làm cho một trái tim chai đá trở thành trái tim thịt mềm.  Có người lúc trước đã trả lời thẳng thừng: “Tôi không muốn xưng tội”, hoặc: “Tôi không đến đây để làm cái chuyện đạo đức của mấy bà.”  Mặc kệ.  Cuối cùng tất cả đều quỳ xuống dưới chân ngài và xưng thú.  Chúa đã ban cho ngài một trực giác lạ lùng để nhận ra giữa đám đông hoặc giữa những người đi qua, ai là kẻ cần được đưa về với Chúa nhất để giúp họ, trước sự ngạc nhiên của chính họ.  Do đó mà khi có người buột miệng hỏi: “Mỗi năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn?” ngài trả lời ngay, không lưỡng lự: “Hơn 700.”  Không nhớ con số sao được đối với những con cá như thế!

  1. Luôn nhẫn nại

 Một dù vất vả ngồi tòa và có những chuyện dễ làm người ta bực mình, nhưng ngài thì không.  Ngược lại, ngài tỏ ra đặc biệt nhẫn nại.  Đây là một trong những đức tính nổi bật nhất nơi ngài.  Một linh mục đã nhận xét: Tôi đã từng quan sát kỹ xem ngài có tỏ ra bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy.  Đem chuyện này hỏi ngài thì được ngài trả lời: “Phải nhẫn nại mới có thể cho cái người ta cần chứ!  Bất nhẫn thì được cái gì?” Ngài cũng nói với một cha bạn: “Hãy học tập sự nhẫn nại của Chúa.”

  1. Hiền hòa, kính trọng hối nhân

Vào thời kỳ cao điểm, bình quân mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp hàng xưng tội.  Công việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã làm cho ngài kiệt lực, đến nỗi có lần ngài tự thú: “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải lấy tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không.  Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải vịn vào tường mà đi cho khỏi ngã.  Đầu tôi nặng trĩu.  Thực sự tôi đã không biết mình chống lại như thế nào.”

Suốt ngày bị công việc mục vụ dồn ép như thế, ngồi nghe hối nhân hàng giờ như thế mà ngài vẫn không mất kiên nhẫn, không la lối nạt nộ ai bao giờ, thật là lạ lùng.

Ngài luôn hiền hòa, tế nhị, kính trọng đối với hối nhân, bất kể là ai.  Có Linh mục sa ngã nặng đến xưng tội vẫn được ngài yêu mến, kính trọng.  Lời khuyên dành cho Đức Giám Mục Giáo Phận đến xưng tội với ngài là: xin Đức cha hãy yêu thương các Linh mục của Đức cha.

Dù có đông người xếp hàng bên tòa giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người một thời gian cần thiết, bởi người nào cũng có vấn đề riêng của mình.  Ngài không khuyên dài, nhiều khi chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối nhân phải động tâm suy nghĩ, một lời tác động mạnh trên họ có khi cả đời.  Chính sự thánh thiện và yêu thương đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời đó.  (x. Thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng các Linh mục, Lm Micae Trần Đình Quảng; simonhoadalat.com).

Nhân ngày lễ kính thánh Gioan Maria Vianney (ngày 4 tháng 8), đọc lại nét tiêu biểu cuộc đời thánh nhân nơi tòa giải tội.  Như người ta đã nói: phép lạ lớn nhất của cha Vianney thánh thiện là tòa giải tội của ngài bị bao vây suốt ngày đêm.  Cũng có thể nói cách khác: phép lạ tiêu biểu của ngài là sự hoán cải của những người tội lỗi.  Các linh mục noi gương cha thánh thực thi sứ vụ khó khăn và cao đẹp này.  Mỗi lần ban ơn xá giải là linh mục thấy mình được cộng hưởng trên đường nên thánh.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

THÁNH INHAXIO, TỔ PHỤ DÒNG TÊN, LÀ AI?

 THÁNH INHAXIO, TỔ PHỤ DÒNG TÊN, LÀ AI?

Thánh Inhaxio, tổ phụ dòng Tên, tên thật là Inigo Lopez de Loyola, sinh năm 1491 tại xứ Basque, Tây Ban Nha.  Vốn tính tình ương bướng và đầy tham vọng, ngay từ nhỏ, Inigo đã không từ khước bất cứ một thủ đoạn nào để mong sao có được một chỗ đứng vững chắc trong xã hội và trong triều đình.  Thế nhưng, ngài luôn phải nhận lấy những thất bại dù ngài rất tài năng.

Trong một trận chiến diễn ra tại Pamplona năm 1521, ngài đã bị một viên đại bác bắn vào chân.  Ngài được đưa về Loyola để dưỡng thương.  Để bảo toàn tính mạng cho ngài, người ta đã phải thực hiện những cuộc phẫu thuật ở chân.  Những cuộc phẫu thuật ấy diễn ra hết sức đau đớn đến độ anh của ngài khi chứng kiến cũng phải thừa nhận là bản thân không thể chịu được cơn đau như thế.  Vậy mà chẳng ai nghe Inigo kêu la hay rên rỉ một lần nào.  Ngay trên giường bệnh, đối diện với sự thất bại tràn trề, Inigo vẫn không từ bỏ tham vọng theo đuổi những vinh hoa thế gian của mình.  Khi thấy vết thương đã làm cho chân mình trở nên xấu xí, hai đôi chân không còn bằng nhau, Inigo đã nhất quyết xin bác sĩ phẫu thuật “thẩm mỹ” lần nữa, vì ngài không thể chấp nhận một thân hình khập khiễng như thế này.  Trước sự cương quyết của ngài, cả gia đình và các bác sĩ đành ưng thuận.  Tuy nhiên, đôi chân ngài cũng không thể lành lặn như xưa.  Do di chứng của vết thương này mà cả cuộc đời, ngài phải đi “cà nhắc.”

Inigo vẫn còn mơ tưởng rất nhiều đến một cuộc sống quyền lực và xa hoa.  Trong thời gian dưỡng thương ở nhà, do quá buồn chán, ngài đã xin chị dâu cho mình vài cuốn tiểu thuyết lãng mạn đọc để giết thời gian.  Nhưng chẳng có cuốn sách nào trong toà lâu đài ngoại trừ cuốn Hạnh Các Thánh và Cuộc Đời Đức Giêsu.  Bất đắc dĩ, ngài mới chịu cầm lấy.  Đôi mắt Inigo như chợt bừng sáng vì ngài khám phá ra được những điều mà bấy lâu nay ngài không biết.  Ngài tự hỏi về ý nghĩa cuộc đời mình, về những gì mình đang theo đuổi.  Thế rồi, ngài quyết tâm từ bỏ con người cũ, sống theo một lý tưởng mới.  Vào một đêm nọ, ngài đã thấy Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi hiện ra với mình.  Thị kiến này hệt như một cuộc xác chuẩn cho đời sống mới mà Thiên Chúa dành cho Ngài.

Khi bình phục, bất chấp những phản đối của gia đình, ngài đã âm thầm trốn đi, mang trong mình ý hướng sẽ đi hành hương đất thánh, và tìm một lý tưởng mới cho mình.  Để khỏi bị phát hiện, ngài đã đổi quần áo sang trọng của mình với một người ăn xin.  Ở Monserat, ngài đã thực hiện một cuộc canh thức thâu đêm rồi dâng thanh kiếm của mình trước ảnh Đức Mẹ ở đây để thể hiện ý muốn quyết tâm từ bỏ mọi sự.

Inhaxio đã trải qua thời kỳ thanh luyện rất gian khổ ở Mansera.  Tại đây, do không có kinh nghiệm gì về đời sống thiêng liêng, ngài đã phải tự mày mò để tìm cho mình một lối sống.  Ngài đã cầu nguyện rất nhiều giờ, ăn chay, nhiệm nhặt, đánh tội.  Cứ tưởng rằng những điều này sẽ mang đến cho ngài niềm hạnh phúc.  Nhưng càng lúc ngài càng cảm thấy cuộc sống mình thật bế tắc.  Những cơn cám dỗ bảo ngài hãy bỏ cuộc lần lượt kéo tới.  Ngài đã cầu nguyện, đi lễ, xưng tội, gặp các cha linh hướng nhiều lần để xin lời khuyên nhưng tất cả đều vô nghĩa.  Ngài buồn bực đến độ đã có lúc nghĩ đến chuyện tự tử vì thấy mình mất đi hướng sống.

Chính trong cơn túng quẫn ấy, Thiên Chúa lại đến với ngài qua những thị kiến và dạy dỗ ngài như thầy giáo dạy một học trò nhỏ.  Một trong những ơn nổi tiếng nhất xảy ra tại bờ sông Cardoner.  Mọi sự diễn ra chỉ trong chớp nhoáng nhưng những gì mà ngài nhận được lúc ấy còn hơn tất cả những gì ngài đã học được trong suốt quãng đời còn lại.

Ngài bắt đầu thay đổi đời sống, từ bên ngoài đến bên trong.  Ngài ăn uống đàng hoàng, để râu tóc gọn gàng, tắm rửa sạch sẽ và bắt đầu thực thi những công việc tông đồ.  Ngài đến Giêresalem và muốn ở lại đây nhưng không được, buộc ngài phải về lại châu Âu.  Ngài muốn giúp đỡ người khác nhưng vì không có bằng cấp gì nên việc giảng dạy giáo lý của ngài gặp phải sự chống đối của giáo quyền.  Toà dị giáo sợ rằng ngài đang truyền bá những tư tưởng lạc đạo, và dù họ không tìm thấy một sai phạm nào trong những lời dạy của ngài, họ vẫn bắt và bỏ tù ngài đến hai lần.  Nhận thấy rằng việc tông đồ của mình sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không có bằng cấp được Giáo Hội công nhận, ngài đã quyết tâm sang Paris để học.  Tại đây, ngài đã gặp và kết bạn với Phêrô Favre, và Phanxico Savie.  Hai sinh viên trẻ này đã sớm có ấn tượng về đời sống thiêng liêng của Inhaxio.  Ba người giúp nhau trong học tập và nhanh chóng trở nên thân thiết với nhau.

Sau đó, cũng có một số người khác được đời sống của Inhaxio cảm hoá.  Họ trở thành một nhóm bạn thân thiết, có chung với nhau một lý tưởng là phục vụ Chúa bằng cả cuộc đời mình.  Tại Montmartre, họ đã tuyên khấn khiết tịnh và khó nghèo để sống cho lý tưởng này.  Tất cả đều muốn đến Giêrusalem để sống và chết cho Chúa.  Nhưng vì lý do khách quan, họ đã không đi được.  Họ không biết làm gì nên đành quay về Roma, với ý định sẽ đặt mình dưới quyền sai khiến của Đức Thánh Cha.  Họ chia ra thành những nhóm nhỏ để về.

Inhaxio đi cùng với hai người nữa.  Đến một nhà nguyện nhỏ ở La Storta, đang lúc cả ba đang cầu nguyện thì Inhaxio được ban cho một thị kiến nữa.  Ngài thấy Chúa Cha, tay chỉ vào ngài, mắt nhìn Chúa Con đang vác thập giá và nói rằng: “Ta muốn con nhận người này là người phục vụ.”  Chúa Con đã nhìn Inhaxio và nói rằng: “Ta muốn con phục vụ Chúng Ta.”  Đối với Inhaxio, thị kiến này chính là một sự xác chuẩn cho ý muốn phục vụ Chúa và Giáo Hội của ngài.

Về tới Roma, nhóm bạn đã nhanh chóng gặp Đức Giáo Hoàng và trình bày ước nguyện.  Đức Giáo Hoàng đã rất vui khi có một nhóm người vừa tri thức, vừa thiêng liêng đồng tâm hiệp lực giúp đỡ mình.  Thế rồi, Giáo Hoàng đã trao cho họ những sứ mạng quan trọng ở khắp nơi trên thế giới.

Trước nguy cơ nhóm có thể tan rã vì mỗi người một phương, chẳng biết có còn gặp lại nhau nữa không.  Họ đã nảy sinh một ý tưởng: thành lập một dòng tu.  Trước đây, họ đã khấn hai lời khấn khiết tịnh và khó nghèo rồi.  Giờ đây, chỉ cần chọn một người và khấn lời khấn vâng phục người đó nữa thôi là được.  Qua hai lần bỏ phiếu, tất cả đều chọn Inhaxio làm bề trên.  Inhaxio, dù không muốn, nhưng nhận thấy đó là ý Chúa nên cũng chấp nhận.  Với sự chuẩn nhận của Giáo Hoàng Phaolo III, một dòng tu mới ra đời vào năm 1540, ở Việt Nam gọi là dòng Tên.  Inhaxio đã sống tại Roma từ đó cho đến cuối đời.  Ngài viết thư điều hành dòng, nâng đỡ anh em, soạn thảo Hiến Pháp.  Ngài qua đời tại căn phòng nhỏ của mình vào năm 1556 và được phong thánh năm 1622.  Hội dòng mang tên Giêsu (dòng Tên) không ngừng lớn mạnh từ đó và luôn theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa, và các linh hồn mà Đấng Tổ Phụ đã khơi lên.  Cho đến nay, dòng Tên là một trong số những dòng nam có số lượng tu sĩ lớn nhất trong Giáo Hội.  Các cộng đoàn dòng Tên phân bố ở rất nhiều vùng miền trên thế giới, và đảm nhận hầu hết các sứ mạng mà Giáo Hội trao phó, không trừ một mảng nào: từ truyền giáo đến giảng dạy, nghiên cứu, chăm sóc bệnh nhân, di dân, tị nạn, hoạt động mục vụ, xã hội…

Mỗi người sinh ra đều có một lịch sử, một câu chuyện và một sứ mạng.  Câu chuyện cuộc đời của mỗi người không ai giống ai nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.  Ai có thể ngờ rằng một chàng thanh niên ham quyền lực và đầy tham vọng, bất chấp mọi thủ đoạn như Inigo lại có ngày trở thành một vị thánh, Đấng Sáng Lập một dòng tu nổi tiếng, và có sức ảnh hưởng lớn như hiện nay?  Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội một vị thánh, một bậc thầy thiêng liêng, một mẫu gương cho chuyến hành hương tiến về Nhà Chúa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Nguồn: https://dongten.net

From: Langthangchieutim

THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ

THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ

Chúng ta vừa nghe một câu chuyện mà chúng ta đã thuộc lòng từ khi còn nhỏ.  Câu chuyện hôm nay đã trở thành một gợi hứng cho rất nhiều bài suy niệm với rất nhiều khía cạnh khác nhau.  Riêng tôi, tôi chỉ xin chia sẻ với anh chị em một vài cảm nghĩ rất riêng tư của mình.  Tôi muốn nói tới những đức tính của Tôma làm tôi nể phục.
  1. Trước hết là sự minh bạch và rõ ràng trong lập trường của ông.

Tôma không phải là người trung lập.  Ông có một lập trường rất rõ rệt.  Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời.  Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin.  Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ.  Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng. 

Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích.  Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa không thích thái độ dở dở ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.

Để cho người ta thấy thái độ nửa vời nguy hiểm như thế nào thì người Tây phương đã viết nên câu chuyện này.  Hồi đó, dưới hỏa ngục, các tướng quỷ tranh luận với nhau về đề tài: “Đâu là phương pháp hữu hiệu nhất để chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa?”  Trên khán đài nồng nặc mùi diêm sinh và bên dưới là các tướng lãnh tranh luận sôi nổi với nhau.

Tên thứ nhất đứng lên tuyên bố:

Đối với tôi, lòng ham mê ăn uống là thù địch số một của Chúa.  Thử hỏi vì lý do gì mà Ađam và Evà sa ngã phạm tội ở vườn địa đàng?  Thưa cũng chỉ vì thèm ăn một trái táo.  Rồi đến Esau mất quyền trưởng nam cũng chỉ vì một bát cháo đậu xanh.

Một tràng pháo tay vang dội.

Kế đó tên quỷ thứ hai cứng rắn phản đối tên thứ nhất.  Hắn cho rằng lòng tham của cải mới chính là thù địch số một của Chúa.  Giuđa là một thí dụ.

Tên quỷ thứ ba tiến lên.  Theo hắn thì lòng kiêu ngạo chính là chủ của mọi tính hư nết xấu.  Sự sa ngã của các thiên thần là thí dụ.

Tên quỷ thứ tư bước lên khán đài ngang nhiên tuyên bố:

Không, thù địch số một của Chúa chính là lòng ham mê nhục dục và mọi thú vui giác quan.

Nghe những lời đó quỷ vương phân vân không biết phải trao chiến thắng về cho ai, bởi vì ai cũng có lý cả.  Sau cùng, từ chỗ quan khách đang ngồi chăm chú theo dõi, tên quỷ thứ năm dõng dạc chậm rãi tiến ra.  Với giọng vừa mỉa mai vừa cứng rắn, hắn lên tiếng đả kích tất cả các lý luận trên và phủ nhận mọi bằng chứng đã được đưa ra.  Sau đó hắn nói dằn từng tiếng:

Kẻ thù số một của Chúa không hẳn là lòng ham mê, tham lam cũng không phải là tính kiêu ngạo, tất cả những thói xấu đó đứng riêng rẽ một mình chẳng khác nào con dao cùn, nhưng nếu tổng hợp tất cả những thói xấu đó lại thành một hợp chất khác tuy không tên tuổi, không ai để ý tới, nhưng chúng sẽ là một khí cụ lợi hại và hiệu nghiệm nhất.  Đó là lòng lạnh nhạt, không nóng cũng không lạnh.  Những kẻ lạnh nhạt không hẳn là những người thù địch chống lại Chúa một cách trắng trợn, nhưng chúng cũng không phải là những người thân thiện gì với Chúa, đó mới chính là kẻ thù tai hại hơn cả.

Đây chúng ta hãy nghe lại những lời mạnh mẽ Chúa nói trong sách Khải Huyền với dân Laodiciae: “Ta biết các việc ngươi làm.  Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh.  Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng ta (Kh 3, 15-16)

Ngày hôm nay chẳng thiếu những người giữ đạo cho có, chỉ hình thức, lạnh chẳng ra lạnh, nóng cũng chẳng ra nóng.  Những người như thế đang là mối nguy cho Chúa hôm nay.

  1. Đức tính thứ hai mà tôi cảm phục nơi con người của Tôma là khi đã biết chắc chắn, ông sẽ đi cho đến cùng.

Đây là đức tính của những anh hùng.  Người anh hùng khi đã biết chắc chắn, họ sẽ đi cho đến cùng.  Khi Tôma nói: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi” (Ga 20, 28) thì ông đã biết ông phải sống như thế nào rồi.  Tôma không đứng ở vị trí lưng chừng.  Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò ú tim tinh thần.  Sở dĩ ông nghi ngờ là vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục.

Theo một cuốn sách ngoại kinh có nhan đề “Các công việc của Tôma” người ta thấy Tôma được mô tả là một con người rất trung thực.  Sau đây là một trích đoạn có liên quan đến Tôma.

“Sau khi Chúa sống lại, các môn đệ được phân bổ khu vực để đi rao truyền Tin Mừng cho mọi người.  Mỗi người phải đến một nơi nào đó để mọi người trên khắp thế gian đều được nghe Tin Mừng.  Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn Độ.  Thoạt đầu Tôma không chịu.  Ông nói:

  • Tôi là một người Do thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn độ mà truyền giảng chân lý cho họ được?

Tối đến, Chúa Giêsu hiện ra với ông và bảo

  • Này Tôma, đừng sợ, hãy đến Ấn độ và giảng ở đó, vì ân sủng của Ta ở cùng con.

Lúc đó có một thương gia tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem.  Ông này được vua Gundaphorus sai đi để tìm cho nhà vua một người thợ mộc giỏi để đem về Ấn Độ.  Tôma vốn là một thợ mộc.  Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngoài chợ và hỏi:

  • Ông có muốn mua một thợ mộc không?

Abbanes đáp:

  • Muốn.

Chúa Giêsu nói:

  • Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán!

Rồi Chúa chỉ Tôma đang đứng đàng xa.  Hai bên ngã giá và Tôma bị bán.  Tờ biên nhận viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn.”  Sau khi viết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes.  Abbanes hỏi:

  • Có phải người đó là chủ của anh không?

Tôma đáp:

  • Phải.

Abbanes nói:

  • Tôi đã mua anh từ ông ta.

Tôma yên lặng.  Sáng hôm sau, Tôma dậy thật sớm để cầu nguyện, sau đó ông đến thưa với Chúa Giêsu:

  • Lạy Chúa, con xin nhận bất cứ nơi nào Chúa muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn.

Và sau đó ông lên đường.

Vâng!  Đó chính là Tôma một người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi đã thuận phục thì thuận phục hoàn toàn.

Câu chuyện còn tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện.  Tôma bằng lòng.  Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo.  Ông luôn luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất.  Sau một thời gian nhà vua sinh nghi bèn cho gọi Tôma đến hỏi:

  • Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?

Ông đáp:

  • Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ đời này thì hoàng thượng sẽ thấy.

Thoạt đầu nhà vua nổi cơn thịnh nộ và người ta tưởng là tánh mạng của Tôma lâm nguy, nhưng cuối cùng như một phép lạ, nhà vua tin Chúa.  Và như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn độ.

Kính thưa anh chị em

Con người của Tôma là thế.  Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ.  Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay.  Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả.  Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng.  Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi.  Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim

HAI VỊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ RẤT QUAN TRỌNG TRONG GIÁO HỘI

HAI VỊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ RẤT QUAN TRỌNG TRONG GIÁO HỘI

Tuyết Mai

Nói về thánh Phêrô thì tất cả chúng ta ai cũng phải biết đến vị tông đồ rất trung thành và có tánh rất trung trực thẳng thắn được Thầy Giêsu yêu quý rất mực nhưng cũng đã yếu đuối mà chối Thầy của mình đến những 3 lần trước khi gà gáy.

Thánh Phêrô cũng là vị thánh được Chúa Giêsu tuyển chọn để làm đầu Hội Thánh và Chúa phán cùng ngài rằng: “Phêrô có nghĩa là đá, trên đá này Ta xây Giáo Hội của Ta và sẽ không có quyền lực nào trên thế gian có thể phá hủy cho được” (Chúa ám chỉ Satan và bè lũ của chúng).

==

Khi chúng ta nhắc đến thánh Phêrô thì hầu như không một ai mà không biết đến ngài với rất nhiều câu chuyện công giáo viết về một thánh Phêrô giữ cửa Thiên Đàng. Rằng ngài có tiếng giữ cửa rất nghiêm ngặt và rất là cẩn thận ấy vậy mà Đức Mẹ Maria hiền mẫu của chúng ta cũng có cách nào đó giúp cho biết bao nhiêu linh hồn con Mẹ vào qua được cửa, thế mới tài tình làm sao.

Nhưng rồi chuyện gì làm mãi thì cũng bị lộ tẩy và nếu để ý thì sẽ thấy biết – Có điều sau rất nhiều lần biết được thì ngài cũng cứ vẫn bị ngây ngất với hương thơm nhân đức ngọt ngào diệu vợi của Mẹ Maria và trăm lần như một thì ngài cũng vẫn luôn bị say đắm mà chiêm ngắm khi Đức Mẹ đi qua; ngài như bị thôi miên trước sự kiều diễm khả ái của Mẹ đã làm cho Phêrô không còn biết trời trăng gì nữa — cho đến khi Mẹ đã đi khuất mắt của ngài thì ông mới tỉnh lại.

***

Còn khi nói đến một thánh Phaolô trở lại thì hầu hết người Công Giáo chúng ta đều biết ngài trước đây. Là người luôn hăng say, năng nổ đi bắt bớ người có đạo. Nhốt tù họ, đánh đập và hành hung họ cách hung bạo chỉ vì họ theo thờ Thiên Chúa. Vì xưa kia ông nào biết Thiên Chúa là ai và đã hành xử theo cách hung tợn mà người của ông đã dạy ông làm như thế. Có nghĩa ông đã bị ảnh hưởng cách sai lạc và đi theo trào lưu.

==

Xem việc làm của ông là đúng, là anh hùng; có ích lợi, có chính nghĩa và được có tiếng đối với cấp trên – nhất là vào cái tuổi năng động của ông lúc bấy giờ? Nhưng Thiên Chúa Người hẳn đã có chương trình vĩ đại, to lớn hơn dành sẵn cho ông mà Chúa phải cần đến chính tấm lòng nhiệt huyết và tánh năng động của ông để Chúa trao phó một công trình quan trọng vào đúng người, đúng thời điểm và đúng việc Chúa cần. Cùng để chứng minh cho mọi người thấy rằng quyền năng của Thiên Chúa có thể thay đổi con người từ xấu thành tốt, cách dễ dàng.

**

Thánh Phaolô sau khi đã phủ phục quyền năng Thiên Chúa qua một cú Chúa cho ông bị ngã ngựa khá đau và bị mù 2 con mắt trong thời gian ngắn để Chúa tìm sai người đến bảo ông phải làm gì sau đó.

Và rồi sau này thì công tác của ông được Chúa sai đi đến với người dân ngoại để dạy dỗ họ giáo lý của Chúa cho họ và giúp họ được Rửa Tội theo đạo. Cho đến ngày hôm nay thì trên thế giới cũng đã có rất nhiều Phaolo đi truyền giáo giống ngài như thế từ vùng xa cho đến vùng sâu. Từ trên núi cao cho đến đồng bằng và cả người sống trên sông ngòi.

==

Sau khi được trở lại thì ngài làm việc cho Chúa cách rất đắc lực, hăng say không ngừng nghỉ và ngài đã đi khắp mọi nơi có thể để Rao Giảng cho người dân ngoại biết về một Thiên Chúa rất yêu thương con người. Về một Thiên Chúa mang lại cho nhân loại thật nhiều niềm vui, hy vọng và một Nước Trời dành ban cho tất cả những ai TIN vào Người và ngài đã làm tròn trọng trách ấy cho đến ngày cuối đời của ngài.

**

Giáo hội Công Giáo hằng năm nhắc nhở hết thảy chúng ta đến hai vị thánh nổi trội này là vì cả hai cũng là con người như chúng ta bằng xương bằng thịt, cũng phạm tội. Người thì dám chối Chúa; người thì dám hành hung người của Chúa là những tội không hề nhẹ. Nhưng đối với Thiên Chúa toàn năng thì không điều gì mà Người không thể làm được, ngay cả khi chúng ta là người vô thần chưa biết Người là ai?

==

Vâng, ngay cả khi chúng ta là những người Kitô hữu, phạm tội như ăn cơm bữa. Hay như Phêrô, một tông đồ luôn ở sát bên Chúa, cùng đồng bàn và ngủ với Chúa; được Chúa yêu quý nhưng lại không dám nhận Chúa trước mặt mọi người vì sợ rằng mình sẽ bị bắt nhốt, bỏ tù và bị đánh đập vì ưa chuộng cái thân xác yếu đuối đầy tội lỗi và hay chết này, thưa có phải?

**

Nhưng không sao cả bởi Thiên Chúa Đấng thông suốt và biết hết mọi sự trong ngoài của chúng ta. Người biết tất cả sự yếu đuối và tội lỗi ngập lụt của chúng ta từ trong tư tưởng cho đến việc làm. Chỉ mong rằng những gì chúng ta cần làm thì có ích cho nhiều người và cho linh hồn sống đời của hết thảy chúng ta.

==

Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có được can đảm để dám sống cho lý tưởng, cho thế hệ tương lai tươi đẹp, cho người nghèo khổ và cho người thấp cổ bé miệng. Vâng, ngay cả chịu đựng cái chết vì dám làm chứng nhân cho Chúa. Amen.

**

Y tá con của Chúa,

Tuyết Mai

29 tháng 6, 2021

CHÂN PHƯỚC GIÁM MỤC MYKOLAY CHARNETSKYI, C.Ss.R. (1884-1959)

 May be a black-and-white image of 1 person, beard and eyeglasses

Hôm nay (28/6), Dòng Chúa Cứu Thế mừng kính Chân phước Giám mục Mykolay Charnetskyi và các bạn tử đạo dưới chế độ Cộng sản Xô Viết.

CHÂN PHƯỚC GIÁM MỤC MYKOLAY CHARNETSKYI, C.Ss.R.

(1884-1959)

Mykolay Charnetskyi sinh ngày 14 tháng 12 năm 1884 trong một gia đình nông dân đông con và ngoan đạo ở làng Semakivka, tây Ukraina. Nhà có 9 anh em, Mykolay là con cả. Ngài bắt đầu đi học ở làng Tovmach rồi vào trường thánh Ni-cô-la ở Stanislaviv (bây giờ là Ivano-Frankivsk).

Từ khi còn là một thiếu niên, Charnetskyi đã nhận thấy ơn gọi làm linh mục và ngài ngỏ ý muốn bước theo. Năm 1903, Đức Giám mục Hryhoriy Khomyshyn gởi ngài đi học ở Rô-ma. Trong một lần về thăm ngắn ngủi Ukraine, ngày 2 tháng 10 năm 1909, Đức cha Hryhoriy Khomyshyn phong chức linh mục cho ngài. Cha Mykolay trở lại Rô-ma tiếp tục học và nhận học vị tiến sĩ thần học.

Mùa thu năm 1910, cha Charnetskyi làm giáo sư triết và thần học tín lý tại chủng viện Stanislavis. Ngài cũng là cha linh hướng của Đại chủng viện này. Tuy nhiên, sâu trong tâm tư, cha Mykolay mong ước sống đời tu sĩ. Vì thế, vào tháng 10 năm 1919, ngài vào nhà tập Dòng Chúa Cứu Thế ở Zboiska, gần Lviv. Năm sau, ngày 16 tháng 10, ngài tuyên khấn.

Năm 1926, đầy nhiệt huyết hoạt động cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu Ki-tô và giúp những người bị bỏ rơi trở về với Công giáo, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế tỉnh Lviv lập một trung tâm truyền giáo tại Kovel trong vùng Volhyn. Vị thừa sai hăng hái Charnetskyi được gởi đến đó. Hầu như ngay lập tức ngài được dân chúng địa phương hết lòng kính trọng, ngay cả các giáo sĩ Chính thống. Một nhà thờ và một tu viện đã được xây dựng tại Kovel. Cha Mykolay đã làm hết sức mình để bảo tồn sự tinh túy của nghi thức phụng vụ Đông phương. Năm 1931, quan tâm tới công việc đầy hy sinh của cha Charnetskyi, Đức giáo hoàng Pi-ô XI trao cho ngài chức Giám mục tông tòa Lebed và là Đại diện tông tòa tại Giáo hội Công giáo Ukraina miền Volhyn và Pidliashsha. Những miền này trở thành nơi hoạt động của Charnetskyi, trước tiên trong tư cách là một nhà truyền giáo, sau như một giám mục, trong gần 14 năm.

Là Giám mục Dòng Chúa Cứu Thế đầu tiên tại Ukraina, ngài kinh nghiệm sự ngược đãi ngay từ lúc bắt đầu công việc. Trong thời gian quân đội Xô-viết chiếm đóng miền tây Ukraina, năm 1939, Dòng Chúa Cứu thế bị áp lực phải rời miền Volhyn, giám mục Charnetskyi chuyển về Lviv, tới ở tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế đường Zyblykevycha (nay là đường Ivana Franka).

Sau khi phục hồi lại Học viện thần học Lviv vào năm 1941, giám mục Mykolay Charnetskyi tham gia giảng dạy triết lý, tâm lý và thần học luân lý. Sự điềm tĩnh đặt nền tảng trên lòng tin chắc chắn không lay chuyển, tinh thần vâng phục và cầu nguyện của ngài khiến các sinh viên có lý mà cho rằng cha giáo của họ là một ông thánh. Đối với họ, giám mục Mykolay Charnetskyi vừa là một người đạo hạnh, vừa là một tu sĩ gương mẫu.

Năm 1944, quân Xô-viết tiến vào Galicia lần thứ hai. Đây là mốc khởi đầu đường thương khó của giám mục Charnetskyi. Ngài bị bắt ngày 11 tháng 4 năm 1945, bị mật vụ Xô-viết bắt giam tại đường Lonskoho. Ở đó, ngài chịu nhiều đau đớn: nửa đêm bị kêu dậy hỏi cung, bị đánh đập và tra tấn tàn nhẫn. Sau đó, Giám mục Charnetskyi được chuyển về Kiev, trải qua một năm đau khổ cho đến khi trường hợp của ngài được mang ra xét xử. Ngài bị kết án 10 năm tù giam về tội làm tay sai cho Vatican, chịu tù đày cùng với Đức Tổng giám mục Yosyf Slipyi, ban đầu thì ở thị trấn Mariinsk vùng Kemeroc, Siberia, sau đó tại một số nhà tù khác cũng thuộc vùng đó.

Theo những nguồn tin đáng tin cậy, trong thời gian tù đày từ khi bị bắt ở Lviv tháng 4 năm 1945 cho đến khi được phóng thích vào năm 1956, giám mục Charnetskyi đã phải trải qua tất cả là 600 giờ thẩm vấn và tra tấn, chuyển qua đến 30 nhà giam và trại tù khác nhau. Dù phải chịu nhiều đau khổ như thế, ngài vẫn luôn luôn tìm lời an ủi các bạn tù, nâng đỡ họ về mặt đạo đức và biết tên tất cả. Chẳng có gì lạ khi hầu như tù nhân nào cũng biết giám mục Charnetskyi, ngài như nguồn an ủi duy nhất của họ.

Giám mục Mykolay Charnetskyi trải qua những năm tù cuối cùng trong bệnh xá trại tù ở Mordovia. Năm 1956, sức khỏe ngài suy sụp đến độ các bác sĩ cho rằng không còn hy vọng gì sống sót. Các tù nhân qua đời được mặc một cái áo dài đặc biệt để chôn, và người ta đã may xong cho ngài. Thấy một giám mục đã đến hồi tuyệt vọng, và có thể cũng muốn tránh tiếng đã gây ra cái chết cho một giám mục, ban quản trị nhà tù quyết định phóng thích và gởi ngài về Lviv. Sau khi trở về Lviv vào năm 1956 cùng với bệnh viêm gan và một số bệnh tật khác, ngài phải nhập viện ngay. Ai cũng cho rằng ngài chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng Chúa có kế hoạch khác, Người quyết định kéo dài đời của một con người mà sự trung thành và việc làm đã được Giáo hội Ukraina lượng giá và cần đến. Chẳng bao lâu, vị giám mục lại hồi phục và chuyển về căn hộ số 7 đường Vechirnia cùng với thầy trợ sĩ Klymentyi. Ở đó, ngài tiếp tục kiên nhẫn làm việc tông đồ và cầu nguyện. Hầu như ngài đọc sách và cầu nguyện cả ngày. Những người đến thăm ngài trong thời gian này làm chứng rằng họ thường thấy ngài ở trong tình trạng xuất thần. Tại Lviv, Giám mục Charnetskyi vẫn trung thành với sứ mạng mục tử nhân lành: ngài nâng đỡ tinh thần anh em, chuẩn bị cho các tiến chức linh mục và phong chức cho hơn mười thầy.

Đáng tiếc là sự bình phục lạ lùng của ngài không kéo dài được lâu. Ngày 2 tháng 4 năm 1959, ngài đón nhận cái chết lành thánh. Lời cuối cùng của ngài là kêu xin sự nâng đỡ của Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lễ an táng được cử hành vào ngày 4 tháng 4 năm 1959. Điếu văn lưu giữ tại văn khố tỉnh Yorkton (Canada) kết thúc như sau: “Chúng tôi nghĩ rằng sẽ đến ngày ngài được phong hiển thánh, vì ngài quả thật là một vị giám mục thánh thiện.”

Ai biết đến Giám mục Mykolay Charnetskyi cũng đều nhất trí xác nhận sự thánh thiện của ngài. Cũng không có gì ngạc nhiên khi thấy ngay sau khi ngài chết, nhiều người đã bắt đầu cầu nguyện với ngài. Có người đã nhận ra dấu chỉ đây là một vị thánh có khả năng cầu bầu cùng Thiên Chúa khi cầu nguyện nơi mộ Giám mục Charnetskyi tại nghĩa trang Lychakiv. Nhiều ơn huệ khác nhau đã được Thiên Chúa ban cho những người đến viếng mộ xin ngài nguyện giúp. Một phụ nữ có cánh tay sắp bị cưa được chữa lành hoàn toàn nhờ lấy đất lấy nơi mộ xoa vào tay. Từ đó, người ta bắt đầu lấy đất nơi mộ ngài để chữa đủ thứ bệnh tật.

Quan tâm đến những lời chứng về đời sống thánh thiện của Giám mục Mykolay Charnetskyi, cách riêng về sự kiên trì chịu đựng, lòng can đảm và sự trung thành với Hội thánh Chúa Ki-tô trong thời gian bị bắt bớ, việc xin phong Chân phúc cho ngài được bắt đầu vào năm 1960. Ngày 2 tháng 3 năm 2001, tiến trình hoàn tất ở cấp độ địa phương và được đệ trình lên Tòa thánh. Ngày 6 tháng 4 năm 2001, Ủy ban thần học xác nhận Giám mục Charnetskyi tử vì đạo. Ngày 23 tháng 4, Hội đồng các Hồng y chấp nhận. Và ngày 24 tháng 4 năm 2001, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II phong Chân phước cho vị giám mục trung thành với niềm tin Ki-tô giáo.

=Truyền Thông Thái Hà=

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

 Đức Cha JB. Bùi Tuần

Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gì hấp dẫn cả.  Y phục thì khó nghèo.  Ăn uống khổ cực.  Cách sống khắc khổ.  Chỗ ở thô sơ.  Lúc ở rừng rú, lúc thì sa mạc, nay đây mai đó.

Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.

Điều đó chứng tỏ những vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá trị con người.  Thước đo giá trị con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh những chân thiện mỹ vĩnh hằng.

Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.

Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân.  Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ.  Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường.  Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc.  Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa.  Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế.  Ngài mong muốn bước xuống thực thấp, thực sâu để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.

Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay.  Họ tu thân mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vị, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.

Khi phong hoá bị suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao.  Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc.  Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn.  Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng.  Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ nhưng rất căn bản.  Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.

Vì thế, đối với tôi,

Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.

Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi.  “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2).  Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7).  Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8).  Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới.  Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.

Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian…  Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài…  Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).

Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối.  Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế.  Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.

Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó.  Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy.  Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ.  Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài.  Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động.  Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.

Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.

Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin.  Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3).  Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan.  Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế.  Mình đã giới thiệu Đấng đó.  Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây?  Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan.  Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay.  Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.

Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa.  Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô.  Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô.  Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế.  Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.

Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng.  Ngài nhìn về phía trước.  Ngài sống cho phía trước.  Phía trước có cõi đời đời.  Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người.  Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách.  Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay.  Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.

Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.

Đức Cha JB. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

HENRI NOUWEN, MỘT VỊ THÁNH CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA

HENRI NOUWEN, MỘT VỊ THÁNH CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thời nay, làm thánh không thôi thì không đủ, chúng ta phải có sự thánh thiện mà thời điểm hiện tại đòi hỏi.

Triết gia Simone Weil đã viết câu đó, và bà đúng.  Chúng ta cần những vị thánh mà thời điểm hiện tại đòi hỏi và tôi muốn đề xuất một người mà tôi tin rằng phù hợp với mô tả này, đó là linh mục Henri Nouwen, ngòi bút thiêng liêng nổi tiếng đã qua đời năm 1996.  Sự thánh thiện của ngài là gì và tại sao nó đặc biệt thích ứng vời thời hiện tại?

Henri Nouwen được cho là ngòi bút thiêng liêng có sức ảnh hưởng nhất thế hệ chúng ta.  Tuy nhiên, linh đạo của ngài không phát xuất từ lòng sốt mến dễ dàng hay đức tin chưa qua thử thách.  Như tác giả Michael Higgins viết trong quyển tiểu sử Nouwen, ngài là “một thiên tài sinh ra từ thống khổ.”  Nouwen là vị thánh bị lo âu dày vò, một vị thánh lý tưởng cho một thời đại chìm trong lo âu.

Ngài là con người lo âu, đau đớn, phức tạp với một cá tính quá đỗi nhạy cảm.  Ngài có xu hướng ám ảnh trong các mối quan hệ thân thiết, có khi thể hiện những nhu cầu ấu trĩ như trẻ con và dù đã có được biết bao tình yêu thương, được đón nhận và thành công, nhưng ngài luôn mãi bị ám ảnh với ý thức, mình không được yêu thương thật sự và không có nơi nào là mái ấm cho mình.  Ngài còn nuôi dưỡng một vết thương trong lòng mà ngài không bao giờ giải thích cho người khác cũng như không hòa giải với chính mình.  Với biết bao chuyện như thế, ngài lại còn có tính khí của một nghệ sĩ, vừa là một ơn vừa là gánh nặng, và như nhiều nghệ sĩ khác, ngài phải đấu tranh để giữ sự bình thường, thiết thực và cân bằng khi sáng tạo, tận hưởng sự tỉnh táo thực tế và không vượt ra khỏi lời khấn khiết tịnh.  Vì thế, ngài có thể lên sân khấu, tỏa một sức sống mãnh liệt, rồi bước xuống sân khấu và vài phút sau đã bật khóc và xin người khác an ủi mình.  Về tính dục, dù đã có lời khấn độc thân khiết tịnh và vẫn giữ trọn lời khấn, nhưng có những lúc ngài yêu đến ám ảnh một ai đó, đến nỗi ngài chỉ có thể giữ trọn lời khấn và sự tỉnh táo bằng cách tìm đến bác sĩ chuyên khoa.

Đây không phải là những điều mà bạn thường đọc thấy nơi cuộc đời các thánh, ít ra là những thánh đã được chính thức phong thánh và được xem là gương mẫu của thánh thiện, nhưng thật ra, nó chính là chất liệu của sự thánh thiện.  Triết gia Soren Kierkegaard, người mà linh mục Nouwen ái mộ, đã định nghĩa một vị thánh như sau: thánh là người chỉ muốn một điều.  Đó là một việc không dễ dàng gì.  Không phải vì chúng ta khó mong muốn điều đúng đắn, nhưng vì chúng ta còn muốn nhiều điều khác nữa.  Thánh Tôma Aquinô đã xác nhận, mọi lựa chọn là một sự từ bỏ.  Nói thế là nói ngắn gọn.  Mọi lựa chọn là một loạt những từ bỏ, và chính vì thế mà lựa chọn và thánh thiện đều là việc khó khăn.

Trong nhật ký của mình, linh mục Nouwen mô tả sự đấu tranh của mình như thế này.  Tôi muốn làm một vị thánh vĩ đại, nhưng tôi còn muốn trải nghiệm mọi cảm giác mà những người tội lỗi cảm nghiệm.  Tôi muốn rút lui vào thinh lặng của cầu nguyện, nhưng tôi không muốn bỏ lỡ bất kỳ điều gì trên đời.  Tôi muốn chôn mình trong vô danh sống giữa người nghèo, nhưng tôi cũng muốn viết sách, muốn người ta biết đến, muốn đi đây đó, gặp mọi người và làm những việc thú vị.  Đó là những điều mà ngài đã phải đấu tranh, cũng như chúng ta vậy, nhưng cuối cùng, ngài đã tìm được cách để chỉ muốn một điều.

Ngài làm bằng cách nào, làm sao bất chấp tất cả mọi chuyện này, ngài đã trở nên một vị thánh?  Ngài làm được nhờ sự chân thật khiêm hạ không bao giờ chối bỏ những đấu tranh vật lộn của mình.  Ngài làm được như thế nhờ ngài chấp nhận sự phức tạp của mình, bằng cách quỳ gối trong những lời cầu nguyện bất lực, khi sức của ngài không đủ, và bằng cách để người nghèo yêu mến mình.  Và ngài làm như thế bằng cách chia sẻ những vết thương của mình với mọi người, bằng cách tìm sự giúp đỡ của chuyên gia khi suy sụp, bằng cách học lấy từ mọi nỗi đau, ám ảnh và đau lòng, rằng, đến tận cùng, trái tim chúng ta mạnh hơn những vết thương và vì thế chúng ta có thể giữ được những cam kết và cuối cùng có được bình an trong phức tạp, cám dỗ và đấu tranh.

Chắc chắn các vị thánh thời xưa đã có những đấu tranh của riêng họ khi cố gắng chỉ muốn một điều, cố gắng dẫn truyền sinh lực bất kham của họ và phó mình trong tay Thiên Chúa.  Tuy nhiên, những câu chuyện chúng ta nghe về cuộc sống các ngài lại có khuynh hướng làm nổi bật những nhân đức hơn là đấu tranh.  Ví dụ Mẹ Têrêxa cũng là vị thánh của thời đại chúng ta, là vị thánh đã tạo nhiều cảm hứng tích cực.  Với nhiều người chúng ta, cuộc đời và nhân đức của Mẹ dường như quá xa vời với những đấu tranh rối ren và trần tục của chúng ta, đến nỗi chúng ta xem Mẹ như một vị thánh để ngưỡng mộ chứ không phải để noi gương.  Dĩ nhiên như thế là không đúng.  Mẹ cũng có những đấu tranh, và là đấu tranh cực lớn. N hưng khi kể lại chuyện đời của Mẹ, những đấu tranh đó lại không thường được nêu bật.

Câu chuyện của linh mục Henri Nouwen và các tác phẩm của ngài, lại nêu bật những đấu tranh, chứ không chỉ nhân đức và sự khôn ngoan của ngài.  Biết được sự trần tục trong những đấu tranh của ngài, có thể gây nên ấn tượng rằng nơi ngài có ít điều đáng ngưỡng mộ hơn Mẹ Têrêxa.  Có lẽ thế. Nhưng, nơi cha Nouwen, chúng ta thấy một người mà chúng ta dễ noi gương hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

TÔNG THƯ PATRIS CORDE CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Con chép lại dưới đây Tông Thư  về Thánh Giuse,

nếu đọc rồi, mong đọc l ại, và Thánh Giuse Thần Thế Phù Hộ chúng ta thêm. Con bỏ hầu hết các chú thích khi đọc lại.

Trọng kính,

lmpcqminh,sj.

TÔNG THƯ

PATRIS CORDE

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

NHÂN KỶ NIỆM 150 NĂM
TÔN VINH THÁNH GIUSE
LÀ BỔN MẠNG HỘI THÁNH

VỚI TRÁI TIM CỦA NGƯỜI CHA: đó là cách mà Thánh Giuse yêu thương Chúa Giêsu, Đấng mà cả bốn sách Phúc âm đều gọi là “con của ông Giuse”.[1]

Matthêô và Luca, hai Thánh sử nói nhiều nhất về thánh Giuse, lại kể rất ít, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy được ngài là người cha như thế nào và Chúa quan phòng đã giao phó cho ngài sứ mệnh gì.

Chúng ta biết rằng thánh Giuse là một người thợ mộc đơn sơ (x. Mt 13,55), đã đính hôn với Đức Maria (x. Mt 1,18; Lc 1,27). Ngài là “người công chính” (Mt 1,19), luôn sẵn sàng thi hành thánh ý Thiên Chúa như đã được mạc khải trong Lề Luật (x. Lc 2,22.27.39) và trong bốn giấc mơ (x. Mt 1,20; 2: 13.19.22). Sau chuyến hành trình dài và mệt nhọc từ Nadarét đi Bêlem, ngài được chứng kiến Đấng Mêsia sinh ra trong chuồng bò, vì “không có chỗ cho họ” trong quán trọ (x. Lc 2,7). Ngài đã chứng kiến các mục đồng (x. Lc 2,8-20) và các đạo sĩ (x. Mt 2, 1-12) đến thờ lạy Chúa, họ là những người đại diện cho dân Israel và các dân ngoại.

Thánh Giuse đã can đảm trở thành người cha của Chúa Giêsu theo lề luật, Đấng mà ngài đã đặt cho cái tên được mặc khải qua sứ thần báo trước: “Ông hãy đặt tên cho Người là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,21). Như chúng ta biết, đối với các dân tộc cổ đại, đặt tên cho một người hoặc một sự vật, như Ađam đã làm trong trình thuật ở Sách Sáng thế (x. 2,19-20), là để thiết lập một mối tương quan.

Bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã dâng con mình cho Chúa trong Đền thờ, và ngạc nhiên lắng nghe lời tiên tri của ông Simeon về Chúa Giêsu và Mẹ Người (x. Lc 2,22-35). Để bảo vệ Chúa Giêsu thoát khỏi tay Hêrôđê, Thánh Giuse đã sang Ai Cập sống như một người ngoại kiều (x. Mt 2,13-18). Sau khi trở về quê hương, ngài sống ẩn dật ở ngôi làng Nadarét nhỏ bé và ít người biết đến thuộc xứ Galilê, cách xa Bêlem, là ngôi làng của tổ tiên ngài, và cách xa cả Giêrusalem và Đền thờ. Người ta nói về Nadarét rằng “Không có ngôn sứ nào xuất thân từ đây” (x. Ga 7,52) và quả thật, “Ở Nadarét nào có chi hay!” (x. Ga 1,46). Trong cuộc hành hương lên Giêrusalem, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã lạc mất Chúa Giêsu khi ấy mười hai tuổi, họ lo lắng đi tìm và gặp thấy Người trong Đền thờ, đang trao đổi với các tiến sĩ Luật (x. Lc 2,41 -50).

Sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, không có vị thánh nào được nhắc đến thường xuyên trong huấn quyền của Giáo hoàng hơn Thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ. Các vị tiền nhiệm của tôi đã suy tư về sứ điệp trong thông tin giới hạn được các sách Phúc Âm ghi lại để đánh giá đầy đủ hơn vai trò trung tâm của Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ. Chân phước Piô IX đã tôn vinh Thánh Giuse là “Bổn mạng Hội Thánh”,[2] Đấng đáng kính Piô XII gọi ngài là “Bổn mạng của người lao động”[3] và Thánh Gioan Phaolô II tuyên xưng ngài là “Đấng bảo vệ Chúa Cứu Thế”.[4] Thánh Giuse được mọi người kêu cầu là “Bổn mạng kẻ mong sinh thì”.[5]

Giờ đây, một trăm năm mươi năm sau khi Chân phước Piô IX công bố Thánh Giuse là Bổn mạng Hội Thánh (ngày 8 tháng 12 năm 1870), tôi muốn chia sẻ một vài suy tư cá nhân về dung mạo phi thường này, thật gần gũi với kinh nghiệm của con người chúng ta. Vì, như Chúa Giêsu đã nói, “lòng đầy miệng mới nói ra” (Mt 12,34). Mong muốn ấy của tôi càng thêm mãnh liệt trong những tháng đại dịch này, khi chúng ta cảm nghiệm, giữa cuộc khủng hoảng, rằng “cuộc sống của chúng ta được đan dệt với nhau và được nâng đỡ nhờ những con người bình thường – những người thường bị quên lãng, – họ không xuất hiện trên báo chí, hay trong những chương trình truyền hình mới nhất, nhưng ngay trong những ngày này, chắc chắn họ đang làm nên những biến cố quan trọng của lịch sử chúng ta. Các bác sĩ, y tá, các chủ cửa hiệu và nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, người chăm sóc người già và bệnh nhân, công nhân vận chuyển, những người cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục, nam nữ tu sĩ, và rất nhiều người khác. Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình… Có biết bao người hằng ngày vẫn kiên nhẫn gieo niềm hy vọng, lo sao để không gieo rắc hoảng loạn nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Có biết bao người cha, người mẹ, ông bà, thầy cô, chỉ cho con cái chúng ta – qua những cách thức nhỏ bé hằng ngày – cách thức đón nhận và đương đầu với khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Có biết bao người cầu nguyện, dâng những hy sinh và chuyển cầu cho thiện ích của tất cả mọi người”.[6] Mỗi người chúng ta đều có thể khám phá rằng Thánh Giuse –  một người chẳng được để ý – vẫn hiện diện hằng ngày cách âm thầm kín đáo, để cầu thay nguyện giúp, trợ giúp và hướng dẫn chúng ta khi gặp khó khăn. Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng những ai ẩn mình hay sống trong bóng tối có thể đóng một vai trò không thể sánh được trong lịch sử cứu độ. Tất cả những người ấy đều đáng được nhìn nhận và biết ơn.

  1. Một người cha yêu thương

Sự vĩ đại của Thánh Giuse ở chỗ ngài là bạn trăm năm của Đức Maria và là cha của Chúa Giêsu. Như thế, theo lời Thánh Gioan Kim khẩu, Thánh Giuse đã tự đặt mình “phục vụ toàn bộ kế hoạch cứu rỗi”.[7]

Thánh Phaolô VI đã chỉ ra rằng Thánh Giuse đã thể hiện một cách cụ thể vai trò làm cha của mình “bằng cách biến cuộc đời mình trở thành của lễ hy sinh phục vụ mầu nhiệm nhập thể cùng với sứ vụ cứu thế. Thánh Giuse dùng quyền hạn hợp pháp của mình đối với Thánh Gia để cống hiến hết mình cho các ngài trong cuộc sống và công việc của mình. Ngài đã biến ơn gọi sống tình yêu gia đình của phàm nhân thành sự dâng hiến siêu phàm chính mình, trái tim và tất cả khả năng của mình, một tình yêu được dành để phục vụ Đấng Mêsia đang lớn lên trong mái ấm của ngài”.[8]

Vì vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, Thánh Giuse luôn được các Kitô hữu tôn kính là cha. Điều này được thể hiện qua vô số nhà thờ dâng kính ngài trên khắp thế giới, nhiều học viện tôn giáo, hội đoàn và các nhóm giáo hội lấy cảm hứng từ linh đạo của Thánh Giuse và mang tên ngài, cùng với nhiều cách bày tỏ lòng đạo đức truyền thống cũng tôn vinh ngài. Vô số các thánh nam nữ đã rất sùng kính ngài. Trong số đó có Thánh Têrêsa Avila, đã chọn Thánh Giuse làm đấng bênh vực và cầu thay cho mình, đã thường xuyên đến với ngài và bất cứ ơn nào xin với Thánh Giuse đều được toại nguyện. Được khích lệ bởi kinh nghiệm của chính mình, Thánh Têrêsa còn thuyết phục những người khác cũng vun trồng lòng sùng kính đối với Thánh Giuse.[9]

Sách kinh nào cũng có những kinh cầu nguyện với Thánh Giuse. Có những kinh đặc biệt cầu cùng Thánh Giuse vào các ngày thứ Tư và nhất là trong tháng Ba, theo truyền thống được dành để kính Thánh Giuse.[10]

Lòng tín thác của mọi người vào Thánh Giuse được thể hiện trong câu “Hãy đến cùng Giuse”, gợi lại nạn đói ở Ai Cập, khi người Ai Cập xin Pharaô cho họ bánh ăn. Ông trả lời: “Hãy đến cùng Giuse; và hãy làm những gì ông ấy bảo” (St 41,55). Pharaô muốn nói đến Giuse, con của Giacob, là người đã bị anh em mình bán làm nô lệ do lòng ghen tị (x. St 37,11-28) và là người – theo lời Kinh thánh – sau đó trở thành phó vương Ai Cập (x. St 41,41-44).

Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đavít (x. Mt 1, 16-20), là cội rễ mà từ đó Chúa Giêsu sẽ sinh ra theo lời hứa đã được tiên tri Nathan báo cho Đavít (x. 2 Sm 7), và là bạn trăm năm của Đức Maria thành Nadarét, như thế Thánh Giuse tượng trưng cho mối liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước.

  1. Một người cha dịu dàng và yêu thương

Thánh Giuse đã chứng kiến Chúa Giêsu lớn lên từng ngày “về khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Lc 2,52). Như Thiên Chúa đã làm với Israel, Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu: “ngài dạy bước đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).

Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa: “Như người cha yêu thương con cái mình, Chúa xót thương những ai kính sợ Người” (Tv 103, 13).

Trong hội đường, khi cầu nguyện bằng Thánh vịnh, chắc chắn Thánh Giuse đã nghe đi nghe lại nhiều lần rằng Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa chạnh lòng thương,[11] là Đấng nhân hậu với tất cả mọi người, Đấng “nhân từ hơn tất cả những gì Ngài đã làm”. (Tv 145,9).

Lịch sử cứu độ được hoàn thành “trong hy vọng dù không còn hy vọng” (Rm 4,18), qua những yếu đuối của chúng ta. Chúng ta thường nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hoạt động qua những mặt tốt của chúng ta, nhưng hầu hết các kế hoạch của Ngài đều được thực hiện qua các yếu đuối của chúng ta và bất chấp sự yếu đuối ấy. Vì vậy, Thánh Phaolô mới nói: “Để cho tôi khỏi tự cao tự đại, thân xác tôi như bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến để hành hạ tôi, để cho tôi khỏi huênh hoang. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi điều này, rằng nó sẽ rời bỏ tôi, nhưng Người bảo tôi: ‘Ơn Ta đủ cho con, vì quyền năng của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2 Cr 12,7-9).

Vì đây là một phần của toàn bộ kế hoạch cứu độ, chúng ta phải học cách nhìn vào những yếu đuối của mình với lòng thương xót dịu dàng.[12]

Kẻ Ác khiến chúng ta thấy được và lên án sự yếu đuối của chúng ta, trong khi Thánh Thần đưa nó ra ánh sáng bằng tình yêu dịu dàng. Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ tố cáo (x. Kh 12,10). Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt là trong bí tích Hòa giải, nơi chúng ta cảm nghiệm được sự thật và lòng dịu dàng của Ngài là điều rất quan trọng. Nghịch lý thay, Kẻ Ác cũng có thể nói sự thật với chúng ta, nhưng hắn làm vậy chỉ để lên án chúng ta. Chúng ta biết rằng sự thật của Thiên Chúa không lên án, nhưng đón nhận, ôm lấy chúng ta, nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta. Sự thật ấy luôn được bày tỏ cho chúng ta như người cha nhân hậu trong dụ ngôn của Chúa Giêsu (x. Lc 15,11-32). Sự thật ấy đến gặp chúng ta, phục hồi phẩm giá của chúng ta, nâng chúng ta dậy và vui mừng vì chúng ta, vì như người cha đã nói: “Con trai ta đã chết và nay sống lại; nó đã mất và nay được tìm thấy” (câu 24).

Ý Chúa, lịch sử và kế hoạch của Ngài vẫn hoạt động, ngay cả qua nỗi sợ hãi của Thánh Giuse. Vì thế, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn.

  1. Một người cha vâng phục

Như đã thực hiện nơi Đức Maria, Thiên Chúa cũng mạc khải kế hoạch cứu độ của Ngài cho Thánh Giuse. Thiên Chúa đã làm như vậy bằng cách dùng những giấc mơ, mà trong Kinh thánh và trong tất cả các dân tộc cổ đại, được coi là một cách để cho biết ý muốn của Ngài.[13]

Thánh Giuse vô cùng bối rối trước việc mang thai lạ lùng của Đức Maria. Ngài không muốn “công khai tố giác bà”,[14] nên đã quyết định “lặng lẽ rời bỏ bà” (Mt 1,19).

Trong giấc mơ đầu tiên, một sứ thần giúp ngài giải quyết tình huống khó xử nghiêm trọng: “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay: “Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần Chúa truyền” (Mt 1,24). Thái độ vâng phục đã giúp Thánh Giuse vượt qua khó khăn và cứu được Đức Maria.

Trong giấc mơ thứ hai, sứ thần bảo Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại; vì Hêrôđê sắp lùng bắt Hài nhi để giết đi” (Mt 2,13). Thánh Giuse đã không ngần ngại vâng lời, bất kể khó khăn gian khổ: “Ngài trỗi dậy trong đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (Mt 2,14-15).

Ở Ai Cập, Thánh Giuse kiên nhẫn chờ sứ thần báo tin có thể trở về nhà an toàn. Trong giấc mơ thứ ba, sứ thần cho ngài biết những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết và truyền cho ngài trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trở về đất Israel (x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, Thánh Giuse lại mau mắn vâng lời. “Ông trỗi dậy, đưa Hài nhi và mẹ trở về đất Israel” (Mt 2,21).

Trên đường trở về, “khi Giuse nghe tin Archelaô lên làm vua xứ Giuđê thay cho cha mình là Hêrôđê, thì ông sợ không dám về đó. Được cảnh báo trong giấc mơ” – đây là lần thứ tư – “ông lui về miền Galilê. Ở đó, ngài lập cư tại một thành gọi là Nadarét” (Mt 2,22-23).

Còn thánh sử Luca cho chúng ta biết rằng Thánh Giuse đã trải qua cuộc hành trình dài và vất vả từ Nadarét đến Bêlem để ghi tên vào sổ bộ nơi nguyên quán của gia đình mình trong cuộc điều tra dân số của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Chúa Giêsu đã được sinh ra trong hoàn cảnh đó (x. Lc 2,7) và được ghi vào sổ bộ của Đế quốc Rôma, giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Luca đặc biệt quan tâm kể lại việc cha mẹ của Chúa Giêsu đã tuân giữ tất cả các quy định của Luật: nghi thức cắt bì cho Chúa Giêsu, nghi thức thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con, nghi thức dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).[15]

Trong mọi hoàn cảnh, Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình, cũng như khi Đức Maria được sứ thần truyền tin và như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.

Trong vai trò là chủ gia đình, thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), theo lệnh truyền của Chúa (x. Xh 20,12).

Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse để làm theo ý của Chúa Cha. Ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người (x. Ga 4,34). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình,[16] trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng phục qua những gì Người phải chịu” (5,8).

Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng “Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm cha” và như thế, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ cao cả và thực sự là một thừa tác viên của ơn cứu độ”.[17]

  1. Một người cha chấp nhận

Thánh Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Ngài tin vào lời sứ thần đã nói. “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định”.[18]

Trong cuộc sống, vẫn có những điều xảy ra mà chúng ta không hiểu được ý nghĩa. Phản ứng đầu tiên của chúng ta thường là thất vọng và nổi loạn. Thánh Giuse đã gạt bỏ ý riêng của mình để chấp nhận các sự kiện xảy đến và, dù các sự kiện ấy xem ra gây hoang mang, ngài vẫn đón nhận, nhận trách nhiệm và biến chúng thành một phần lịch sử của chính mình. Nếu chúng ta không hòa hợp với lịch sử của chính mình, chúng ta sẽ không thể đi tiếp, vì chúng ta sẽ luôn là con tin cho những kỳ vọng và những thất vọng theo sau.

Con đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải thích, mà là con đường chấp nhận. Chỉ khi nào biết chấp nhận và giao hoà như thế, chúng ta mới có thể bắt đầu nhìn thấy một lịch sử bao quát hơn, một ý nghĩa sâu sắc hơn. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa, sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10).

Chắc chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can đảm và vững vàng. Trong cuộc sống của chúng ta, việc chấp nhận và đón nhận có thể là một biểu hiện của ơn Sức Mạnh của Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để chấp nhận cuộc sống như nó vốn thế, với tất cả những mâu thuẫn, nản lòng và thất vọng của nó.

Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đó là một ơn của Chúa Cha, giúp mỗi người chúng ta có thể hòa hợp với lịch sử cụ thể của đời mình, cả khi chúng ta không hiểu được hoàn toàn.

Cũng như Chúa đã nói với Thánh Giuse: “Hỡi Con vua Đavít, đừng sợ!” (Mt 1,20), dường như Ngài cũng nói với chúng ta: “Đừng sợ!” Chúng ta cần gạt bỏ mọi tức giận và thất vọng để đón nhận mọi thứ như chúng vốn thế, cả khi chúng không diễn ra như chúng ta mong muốn. Không phải là đành chịu mà đầy hy vọng và can đảm. Như thế, chúng ta sẽ mở ra với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Cuộc sống của chúng ta sẽ được tái sinh một cách kỳ diệu nếu chúng ta can đảm sống theo Phúc Âm. Sẽ chẳng có vấn đề gì nếu mọi thứ dường như đã tồi tệ hoặc có điều gì không sửa chữa được nữa. Chúa có thể làm cho hoa mọc lên từ đá. Ngay cả khi lòng chúng ta kết án chúng ta, “Thiên Chúa lớn hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi sự” (1 Ga 3,20).

Ở đây, một lần nữa, chúng ta gặp lại chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo vốn không phủ nhận những gì hiện hữu. Thực tại, trong tính phức tạp bí ẩn và không thể giải thích của nó, có một ý nghĩa hiện sinh, với tất cả ánh sáng và bóng tối của nó. Thế nên Tông đồ Phaolô mới nói: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Thánh Augustinô nói thêm, “ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”.[19] Theo góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay buồn.

Chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng tin có nghĩa là tìm ra các giải pháp dễ dàng và an ủi. Đức tin mà Chúa Kitô đã dạy chúng ta là những gì chúng ta thấy nơi Thánh Giuse. Ngài không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy.

Thái độ của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27). Thiên Chúa là “Cha kẻ mồ côi và là Đấng che chở những người góa bụa” (Tv 68,6), Ngài truyền cho chúng ta phải yêu thương người xa lạ ở giữa chúng ta.[20] Tôi thích nghĩ rằng chính từ Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã có cảm hứng để kể câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).

  1. Một người cha có lòng can đảm đầy sáng tạo

Nếu giai đoạn đầu tiên của mọi chữa lành nội tâm thực sự là chấp nhận lịch sử cá nhân của chúng ta và chấp nhận cả những gì trong cuộc sống mà chúng ta đã không chọn lấy, thì nay chúng ta phải thêm một yếu tố quan trọng khác: lòng can đảm đầy sáng tạo. Lòng can đảm này thể hiện đặc biệt trong cách chúng ta đối phó với những khó khăn. Đối mặt với khó khăn, chúng ta có thể đầu hàng và bỏ cuộc hay nhập cuộc cách nào đó. Đôi khi, khó khăn làm bật ra những nguồn lực mà chúng ta thậm chí không nghĩ rằng mình đang có.

Khi đọc các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta thường thắc mắc tại sao Thiên Chúa không hành động một cách trực tiếp và rõ ràng hơn. Nhưng Thiên Chúa lại hành động qua các biến cố và qua con người. Thánh Giuse là người được Chúa chọn để hướng dẫn giai đoạn khởi đầu của lịch sử cứu chuộc. Ngài là “dấu lạ” thực sự mà Chúa dùng để cứu hài nhi Giêsu và mẹ của Người. Thiên Chúa đã hành động qua thái độ tin tưởng vào lòng can đảm đầy sáng tạo của Thánh Giuse. Khi đến Bêlem và không tìm được chỗ cho Đức Maria sinh con, Thánh Giuse đã chuẩn bị một cái chuồng bò và làm hết sức có thể để biến nó thành ngôi nhà chào đón Con Thiên Chúa đến thế gian (x. Lc 2, 6-7). Trước nguy cơ sắp xảy ra là Hêrôđê muốn giết Hài nhi Giêsu, một lần nữa trong giấc mơ, thánh Giuse đã được báo mộng để bảo vệ Hài nhi, và nửa đêm thức dậy chuẩn bị trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-14 ).

Khi đọc lướt qua những câu chuyện này có thể chúng ta thường có cảm tưởng rằng thế giới được phó mặc cho những kẻ mạnh và kẻ có quyền, nhưng “tin mừng” của Phúc âm là ở chỗ cho thấy rằng, bất chấp thói kiêu ngạo và bạo lực của các quyền lực thế gian, Chúa luôn tìm ra cách thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Cuộc sống của chúng ta vậy, đôi khi xem ra bị phó mặc trong tay kẻ có quyền, nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy điều gì mới là đáng giá. Thiên Chúa luôn tìm ra cách để cứu chúng ta, miễn là chúng ta thể hiện lòng can đảm đầy sáng tạo như người thợ mộc thành Nadarét, người có thể biến vấn đề thành khả năng bằng cách luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Nếu có lúc dường như Chúa không giúp chúng ta, thì chắc chắn không có nghĩa là chúng ta bị bỏ rơi, mà là chúng ta đang được Chúa tin tưởng để tự mình lên kế hoạch, sáng tạo và tìm ra giải pháp.

Lòng can đảm đầy sáng tạo đó đã được những người bạn của người bại liệt thể hiện, họ đã dỡ mái nhà hạ anh xuống để đưa anh đến với Chúa Giêsu (x. Lc 5, 17-26). Khó khăn đã không ngăn cản được sự mạnh dạn và kiên trì của những người bạn đó. Họ tin chắc rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành cho anh, và bởi “không tìm được cách nào để đưa anh ta vào vì đám đông dân chúng, họ đã trèo lên mái nhà và thả anh xuống cùng với chiếc giường vào giữa đám đông đang ở trước mặt Chúa Giêsu. Nhìn thấy đức tin của họ, Chúa Giêsu nói: “Này bạn, tội lỗi của bạn đã được tha’” (câu 19-20). Chúa Giêsu nhìn nhận đức tin sáng tạo mà nhờ đó họ đã tìm cách đưa người bạn đau yếu đến với Ngài.

Phúc Âm không cho chúng ta biết Đức Maria, Thánh Giuse và Hài nhi ở lại Ai Cập bao lâu. Tuy nhiên, chắc chắn các ngài cần phải có cái ăn, có một mái nhà và có việc làm. Chẳng cần phải tưởng tượng nhiều cũng thấy được những chi tiết đó. Thánh Gia đã phải đối mặt với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác, giống như rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta, là những người ngày nay cũng phải liều mạng để thoát khỏi bất hạnh và đói khát. Về khía cạnh này, tôi coi Thánh Giuse là Đấng bảo trợ đặc biệt của tất cả những ai buộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh, hận thù, đàn áp và nghèo đói.

Ở cuối mỗi câu chuyện mà thánh Giuse là nhân vật chính, Phúc Âm kể lại rằng ngài trỗi dậy, ẵm lấy Hài nhi và cùng với Mẹ Người làm như Thiên Chúa đã truyền (x. Mt 1,24; 2,14.21). Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ Người là kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta.[21]

Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa,  Chúa Con không tách rời khỏi Đức Maria Mẹ của Người, Đấng đã “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất với Con cho đến tận bên chân Thập giá”.[22]

Chúng ta cần luôn xét xem, liệu chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay không, vì các Ngài cũng được trao phó cho trách nhiệm của chúng ta một cách mầu nhiệm, để chăm sóc và giữ gìn. Con của Đấng Toàn Năng đã đến trần gian của chúng ta trong tình trạng thật yếu đuối mỏng giòn. Ngài cần được Thánh Giuse che chở, bảo vệ, chăm sóc và nuôi nấng. Thiên Chúa đã tin cậy Thánh Giuse, cả Đức Maria cũng thế, Mẹ là người đã thấy nơi Thánh Giuse một người không chỉ cứu mạng mình mà còn luôn chăm lo cho mình và con của mình nữa. Theo nghĩa này, Thánh Giuse không khác gì Đấng Bảo vệ Hội Thánh, vì Hội Thánh là sự tiếp nối Nhiệm Thể Chúa Kitô trong lịch sử, cũng như tư cách làm mẹ của Đức Maria được phản ánh trong tư cách Mẹ của Hội Thánh.[23] Khi tiếp tục bảo vệ Hội Thánh, Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài nhi và mẹ Người, và cả chúng ta nữa, khi yêu mến Giáo hội, là chúng ta tiếp tục yêu Hài nhi Giêsu và mẹ Người.

Hài nhi ấy là Đấng sẽ nói: “Điều ngươi đã làm cho một trong những người nhỏ bé nhất trong gia đình của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Vì vậy, tất cả những ai nghèo khổ, thiếu thốn, đau khổ hay đang hấp hối, tất cả những ai là người xa lạ, tù nhân hay bệnh nhân đều là “hài nhi” mà Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ. Bởi thế, Thánh Giuse được kêu cầu như Đấng che chở cho người bất hạnh, người túng thiếu, lưu đày, đau khổ, nghèo đói và hấp hối. Và Hội Thánh không thể không bày tỏ tình yêu thương đặc biệt đối với những người anh chị em hèn mọn nhất của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến họ và đồng hoá với họ. Từ nơi Thánh Giuse, chúng ta cũng phải học cách chăm sóc và trách nhiệm ấy. Chúng ta phải học cách yêu thương Hài nhi và mẹ Người, yêu mến các bí tích và đức bác ái, yêu mến Giáo hội và người nghèo. Mỗi thực tại ấy luôn là Hài nhi và mẹ Người.

  1. Một người cha làm việc

Một khía cạnh của Thánh Giuse đã được nhấn mạnh từ khi Đức giáo hoàng Lêô XIII ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, là mối quan hệ của ngài với công việc. Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuôi sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình.

Trong thời đại của chúng ta, khi việc làm một lần nữa trở thành một vấn đề xã hội cấp bách, và tình trạng thất nghiệp đôi khi lên đến mức kỷ lục ngay cả ở các quốc gia đã được hưởng một mức độ thịnh vượng nhất định trong nhiều thập kỷ, thì cần ý thức lại để biết quý trọng việc làm đem lại phẩm giá mà Thánh Giuse là vị bổn mạng mẫu mực.

Việc làm là một phương tiện để tham dự vào công trình cứu chuộc, một cơ hội để làm cho Nước Trời mau đến, để phát triển tài năng và khả năng của chúng ta, và để phục vụ xã hội và tình hiệp thông huynh đệ. Nó trở thành cơ hội để hoàn thiện không chỉ bản thân mình, mà cả tế bào căn bản của xã hội là gia đình. Một gia đình không có việc làm đặc biệt dễ gặp khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí tan vỡ. Làm sao chúng ta có thể nói về phẩm giá con người mà lại không hành động để bảo đảm cho ai cũng có thể kiếm được một cuộc sống tử tế?

Những người đang làm việc, dù làm việc gì, đều đang hợp tác với chính Thiên Chúa, và theo một cách nào đó trở thành những người sáng tạo thế giới xung quanh chúng ta. Cuộc khủng hoảng của thời đại chúng ta – về kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần – có thể là lời kêu gọi tất cả chúng ta khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc làm để mang lại một sự “bình thường” mới mà không ai bị loại ra. Việc làm của Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc. Tình trạng mất việc làm vốn ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta và đã gia tăng do hậu quả của đại dịch Covid-19, cần được coi như một lời kêu gọi xét lại các ưu tiên của chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse Thợ giúp chúng ta tìm ra những cách thể hiện niềm tin vững vàng rằng không một người trẻ nào, không một người nào, không một gia đình nào không có việc làm!

  1. Một người cha trong bóng tối

Nhà văn Ba Lan Jan Dobraczyński, trong tác phẩm “Hình bóng của Chúa Cha”,[24] đã kể câu chuyện về cuộc đời của Thánh Giuse theo hình thức tiểu thuyết. Ông dùng hình ảnh gợi liên tưởng của một cái bóng để nói về Thánh Giuse. Trong mối tương quan với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Cha trên trời: Ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ để Chúa Giêsu đi một mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong sa mạc … ngươi đã thấy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi bồng bế ngươi như người ta bồng bế con mình, trên mọi nẻo đường các ngươi đi” (Đnl 1,31). Tương tự như vậy, Thánh Giuse đã đóng vai trò một người cha trong suốt cuộc đời của ngài.[25]

Chúng ta không sinh ra là cha, nhưng trở thành người cha. Một người không trở thành cha đơn giản chỉ vì sinh ra một đứa con, nhưng vì đảm nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con ấy. Bất cứ khi nào một người nhận trách nhiệm về cuộc sống của một người khác, thì một cách nào đó, họ trở thành cha của người ấy.

Trẻ em ngày nay dường như mồ côi cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Lời thánh Phaolô nói với các tín hữu Côrintô vẫn còn hợp thời: “Dù anh em có vô số người hướng dẫn trong Đức Kitô, nhưng anh em không có nhiều người cha đâu!” (1 Cr 4,15). Mỗi linh mục hay giám mục đều có thể nói thêm, cùng với vị Tông đồ rằng: “Tôi đã trở thành cha của anh em trong Chúa Giêsu Kitô nhờ Phúc âm” (ibid.). Thánh Phaolô cũng nói tương tự như vậy với các tín hữu Galata: “Hỡi các con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em!” (4,19).

Làm cha có nghĩa là đưa con cái đến với cuộc sống và với thực tế. Không giữ chúng lại, không bảo bọc chúng quá đáng hay sở hữu chúng, mà là giúp cho chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì thế mà ngoài danh hiệu cha, truyền thống còn gọi Thánh Giuse là Đấng “cực thanh cực tịnh”. Tước hiệu đó không đơn thuần là một dấu chỉ của lòng yêu mến, mà còn là tóm lược một thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Thanh khiết là sự tự do thoát khỏi thái độ chiếm hữu trong mọi lĩnh vực đời sống của mình. Chỉ khi nào tình yêu thanh khiết, đó mới là tình yêu thực sự. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng sẽ trở nên nguy hiểm: nó giam hãm, bóp nghẹt và gây đau khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu thanh khiết; Ngài để chúng ta được tự do, thậm chí phạm tội và chống lại Ngài. Luận lý của tình yêu luôn là luận lý của tự do, và Thánh Giuse biết cách yêu thương với thái độ tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về cuộc đời của Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Thánh Giuse tìm được hạnh phúc không phải ở sự hy sinh bản thân mà là ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy nỗi thất vọng mà chỉ thấy niềm tin tưởng. Sự thinh lặng kiên nhẫn của ngài dẫn tới những thể hiện cụ thể của lòng tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không chấp nhận những bạo chúa, những kẻ hà hiếp người khác như một phương tiện để bù đắp cho nhu cầu của chính họ. Nó từ chối những người nhầm lẫn quyền hành với độc đoán, phục vụ với tùng phục, thảo luận với áp bức, bác ái với trợ giúp, sức mạnh với hủy diệt. Mọi ơn gọi đích thực đều được sinh ra từ việc tự hiến, là hoa trái của sự hy sinh chín chắn. Chức linh mục và đời sống thánh hiến cũng đòi hỏi phải có sự chín chắn như vậy. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, kết hôn, độc thân hay sống trinh khiết, việc cho đi chính mình sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh; nếu thế, thay vì trở thành một dấu chỉ của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu, việc cho đi chính mình sẽ có nguy cơ trở thành biểu hiện của bất hạnh, buồn bã và thất vọng.

Khi người cha từ bỏ cám dỗ sống cuộc sống của con cái mình, những khung cảnh mới mẻ và bất ngờ sẽ mở ra. Mỗi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể được tỏ lộ nhờ sự giúp đỡ của người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con ấy. Một người cha sẽ nhận ra mình là một người cha và một nhà giáo dục nhất vào lúc mình trở thành “vô dụng”, khi thấy con mình trở nên độc lập và có thể bước đi trên con đường của cuộc đời mà không cần ai đi kèm. Khi người cha ấy trở nên giống như Thánh Giuse, luôn biết rằng con mình không phải là của riêng mình mà chỉ được giao phó cho mình chăm sóc mà thôi. Cuối cùng, đây là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu khi Người nói: “Các con đừng gọi ai ở dưới đất là cha, vì các con chỉ có một người Cha ở trên trời” (Mt 23, 9).

Mỗi khi thi hành thiên chức làm cha, chúng ta phải luôn nhớ rằng thiên chức ấy không liên quan gì đến sự chiếm hữu, mà là một “dấu chỉ” hướng đến một tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như Thánh Giuse: là cái bóng của Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như người lành, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Và là cái bóng bước theo Con của Ngài.

*  *  *

Thiên Chúa nói với Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn đi” (Mt 2,13).

Mục đích của Tông thư này là làm cho chúng ta thêm lòng yêu mến Thánh cả, khuyến khích cầu xin ngài chuyển cầu cho chúng ta và noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của ngài.

Thật vậy, sứ mệnh cụ thể của các thánh không chỉ là chuyển ban phép lạ và ơn thánh(*), nhưng là chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa, như Ápraham[26] và Môsê[27], và như Chúa Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất” (1 Tm 2,5), là “Đấng bảo trợ” cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (1 Ga 2,1) và là Đấng “hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,25; x. Rm 8,34).

Các thánh giúp tất cả các tín hữu “phấn đấu nên thánh và theo đuổi sự trọn lành của bậc sống mình”.[28] Cuộc sống của các ngài là bằng chứng cụ thể cho thấy có thể sống Phúc Âm.

Chúa Giêsu đã nói: “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Cuộc đời của các thánh cũng là những tấm gương để noi theo. Thánh Phaolô nói rõ điều này: “Anh em hãy bắt chước tôi!” (1 Cr 4,16).[29] Bằng sự thinh lặng hùng hồn, Thánh Giuse cũng nói như vậy.

Trước tấm gương của biết bao vị thánh nam và nữ, Thánh Augustinô đã tự hỏi: “Điều các ngài đã làm được, mi không làm được sao?” Và thế là ngài đã dứt khoát hoán cải và thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi Vẻ Đẹp vẫn cổ xưa mà luôn tươi mới!”[30]

Vậy chúng ta hãy cầu xin với Thánh Giuse ban cho chúng ta ơn của các ơn: đó là ơn hoán cải.

Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện với ngài:

Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.

Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm,(*)
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Ban hành ở Rôma, tại Đền Thờ Latêranô,

ngày 8 tháng 12, Đại lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Vô nhiễm Nguyên tội, năm 2020,

năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

Bản dịch chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ (10.12.2020)

[10] Mỗi ngày, trong hơn bốn mươi năm, sau Kinh Sáng, tôi đều đọc một kinh cầu nguyện với Thánh Giuse trích trong quyển Sách kinh của Pháp vào thế kỷ mười chín của Dòng Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Kinh này nói lên lòng yêu mến và tin tưởng, và thậm chí còn đặt ra một thách đố cho Thánh Giuse nữa: “Lạy Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, là Đấng có quyền năng biến điều không thể thành có thể, xin đến cứu giúp con trong những lúc đau khổ và khó khăn này. Xin bảo vệ con trước những tình thế ngặt nghèo và rắc rối mà con phó thác cho cha đây, hầu có một kết thúc tốt đẹp. Lạy cha yêu dấu của con, con đặt trọn niềm tin tưởng nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha luống công vô ích, và vì cha có thể làm mọi sự với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cha cho con thấy rằng lòng nhân hậu của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. Amen.

000***000

Xin cầu cho con nữa,

Hết lòng Biết Ơn,

  1. phêrô chu quang minh, s.j.