Nhật Bản hứng chịu 155 trận động đất trong 24h qua

 Khanh Pham

ĐAU THƯƠNG : Nhật Bản hứng chịu 155 trận động đất trong 24h qua, hàng chục người đã người thiệt mạng những ngày đầu năm mới..

Nhật Bản đang chạy đua với thời gian để giải cứu những nạn nhân có thể còn sống sót và bị mắc kẹt dưới đống đổ nát vì trận động đất dữ dội ngày đầu năm mới.

Theo Cơ quan Khí tượng Nhật Bản, nhiều đợt sóng thần cũng đã ập đến và dự kiến sẽ có những đợt sóng lớn hơn. Cơ quan này cũng cảnh báo, những cơn rung lắc mạnh hơn có thể xuất hiện trong những ngày tới.

Tết dương đối với người Nhật là ngày tết lớn nhất trong năm nhưng giờ tivi chỉ toàn thời sự về trận động đất, hàng trăm nghìn người đang đi lánh nạn, 30.000 hộ bị cắt điện, tàu dừng, đường xá nứt vỡ rung lắc khiến toàn thành phố sụp đổ..


 

Chủ tịch nước Việt Nam mời Giáo hoàng La Mã đến thăm

RFA

2023.12.18

Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng đã có lời mời Giáo hoàng Phan xi cô của Hội thánh Công giáo La Mã đến thăm Việt Nam.

Báo điện tử Chính phủ

Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng đã có lời mời Giáo hoàng Phan xi cô của Hội thánh Công giáo La Mã đến thăm Việt Nam.

Cơ quan thông tấn Công giáo tại Châu Á UCAN loan tin trong tuần qua. Theo đó đích thân ông chủ tịch nước Việt Nam báo tin vừa nêu vào ngày 14/12 khi ông dẫn đầu phái đoàn đến thăm các vị lãnh đạo Công giáo Việt Nam tại Tổng giáo phận Huế nhân dịp lễ Mừng Chúa Giáng sinh năm nay.

Phái đoàn của ông Võ Văn Thưởng đến tại Tòa Tổng Giám mục Huế có Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng và Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Tiến Tường.

Tại cuộc viếng thăm, ông Võ Văn Thưởng nói với Tổng Giám mục Nguyễn Chí Linh và những người hiện diện rằng bản thân ông Chủ tịch nước Việt Nam đã có thư mời Giáo hoàng Phan Xi Cô “đến thăm và chứng kiến những phát triển về kinh tế- xã hội cũng như đời sống đạo tại đất nước Việt Nam”.

Ông Chủ tịch nước Việt Nam còn nói thêm ông chia sẻ mong muốn được đón tiếp Giáo hoàng của bảy triệu tín đồ Công giáo La Mã tại Việt Nam.

Vào ngày 27/7 vừa qua, ông Võ Văn Thưởng có chuyến thăm đến Vatican. Dịp đó ông và Hồng y Quốc vụ khanh Tòa thánh Pietro Parolin ký thỏa thuận cho phép Vatican đặt một vị đại diện thường trú và mở văn phòng tại Việt Nam.


 

BÓNG ĐÊM ĐANG CHÙM XUỐNG

Trần Quốc Kim

BÓNG ĐÊM ĐANG CHÙM XUỐNG

Các thành phố ma của Trung Quốc. Chơi cho hoành tráng vào, đến khi sập vốn, vỡ bất động sản cũng hoành tráng luôn.

Dù tập có được bắn 21 phát đại bác ở búi tre luồn lún phún hay được tiếp đãi chính thức tại nước cờ hoa, kinh tế của nhà tập đang xất bất xang bang. Mô hình quản trị độc tài, lừa bẫy đang tới đoạn cùng đường, vì không tận dụng phát huy được khả năng sáng tạo của người dân, không có cơ chế an toàn là các tiếng nói đối lập xăm xoi, phê bình, đưa ra sáng kiến điều chỉnh các đường lối, chính sách sai lệch.

Áp đặt cưỡng ép không thể là mô hình quản trị dài hạn. Áp đặt chỉ nên dùng trong những giai đoạn ngắn để khoanh vùng, thu hẹp hậu quả trong 1 hoàn cảnh cấp bách, như những tuần đầu tháng đầu của dịch Covid.

Áp đặt cưỡng ép dài hạn, vĩnh viễn luôn triệt tiêu sinh lực. Đúng trong cả quản trị xã hội, cả quản lý tập thể, cả giáo dục trẻ nhỏ, thanh niên.


 

4 bộ trưởng Nhật từ chức vì vụ gây quỹ mang tai tiếng

Ba’o Nguoi-Viet

December 14, 2023

TOKYO, Nhật (NV) – Hôm Thứ Năm, 14 Tháng Mười Hai, bốn bộ trưởng trong nội các chính phủ Nhật đã từ chức sau những vụ gây quỹ đầy tai tiếng. Hơn 500 triệu đồng yên, tương đương $3.4 triệu, đã chui tọt và quỹ đen của các vị bộ trưởng này sau năm năm trời lơ lửng cho tới năm 2022, Đài BBC loan tin.

Công tố viện Tokyo đã mở cuộc điều tra tham nhũng liên quan tới vụ này, tờ báo tài chánh Nikkei cho hay.

Đây là đòn mới nhất giáng vào chính phủ đang mất điểm của Thủ Tướng Nhật Fumio Kishida, với tỷ lệ chấp thuận của người dân giảm sút. Tỷ lệ ủng hộ đảng cầm quyền Dân Chủ Tự Do, chấp chính từ năm 1955 đến nay, đã tụt xuống dưới mức 30% lần đầu tiên kể từ năm 2012, cuộc thăm dò của thông tấn xã NHK cho biết hôm Thứ Ba.

TOKYO, JAPAN – DECEMBER 14: Japan’s Prime Minister Fumio Kishida (C) arrives at the prime minister’s official residence on December 14, 2023 in Tokyo, Japan. Kishida replaced four Cabinet members implicated in a political fundraising scandal. (Photo by Tomohiro Ohsumi/Getty Images)

Thủ Tướng Nhật Fumio Kishida (giữa) vừa thay thế 4 bộ trưởng liên quan tới vu gây quỹ tai tiếng hôm 14 Tháng Mười Hai, 2023 ở Tokyo, Nhật Bản (Hình: Tomohiro Ohsumi/Getty Images)

Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng kiêm phát ngôn viên chính phủ Hirokazu Matsumo, cánh tay mặt của  Thủ Tướng Kishida, là nhân vật tai tiếng nhất trong bốn vị bộ trưởng nói trên. Bộ Trưởng Kinh Tế và Kỹ Nghệ Yasutoshi Nishimura, Bộ Trưởng Nội Vụ Junji Suzuki và Bộ Trưởng Nông Nghiệp Ichiro Miyashita cũng đã rời chức vụ vào hôm Thứ Năm. Thêm vào đó, năm vị phụ tá bộ trưởng và một phụ tá bộ trưởng bên cạnh Quốc Hội, từng phục vụ dưới thời cố Thủ Tướng Shinzo Abe, cũng từ chức.

Những lời tố cáo dẫn tới vụ từ chức gần như tập thể này cho thấy vẫn còn một số tiền gây quỹ khác được đưa vào quỹ đen của các thành viên nội các Kishida nhưng, cho tới nay, vẫn chưa được phanh phui. (TTHN)


 

Quân Kháng Chiến ở Miến trên đà chiến thắng chưa từng có

Theo Nhật Báo Phố Wall

Trong hơn 4 ngày, bom đã trút xuống căn cứ quân sự Myanmar nơi Tiểu đoàn bộ binh 125 đóng quân. Quân đội và gia đình của họ đã chia thành các nhóm nhỏ và ẩn náu trong các nơi trú ẩn.

Người lính ra lệnh cho phụ nữ và binh lính bị thương di chuyển ra nơi trống trải nơi máy bay không người lái của kẻ thù có thể nhìn thấy họ. Sau đó, ông giơ một cây sào tre có buộc một mảnh vải trắng ở đầu. Một số người đàn ông đã khóc.

“Đó là điều tồi tệ nhất mà một người lính có thể làm”, một đại úy quân đội tại căn cứ Konkyan, nằm trên đỉnh đồi rừng rậm phía đông bắc Myanmar gần biên giới nước này với Trung Quốc, cho biết. “Tôi cảm thấy rất buồn và xấu hổ.”

Việc đầu hàng một nhóm nổi dậy vào cuối tháng 11 là mở ra thách thức lớn nhất mà quân đội hùng mạnh của Myanmar phải đối mặt không chỉ kể từ cuộc đảo chính năm 2021 mà trong nhiều thập kỷ. Kẻ thù của chính quyền đang đạt được những thành tựu chưa từng có, khiến một số chuyên gia tự hỏi liệu quân nổi dậy có thể duy trì áp lực đủ để ít nhất đưa các tướng lĩnh vào bàn đàm phán hay không.

Bộ ba nhóm nổi dậy, được gọi là Liên minh Ba Anh em, cho biết họ đã chiếm hơn 200 tiền đồn và căn cứ quân sự của quân chính phủ độc tài Miến, ít nhất sáu thị trấn gần biên giới với Trung Quốc và các kho vũ khí kể từ khi phát động cuộc tấn công vào ngày 27 tháng 10.

Một bức ảnh do liên minh nổi dậy phát tán cho thấy các thành viên của Quân đội Liên minh Dân chủ Quốc gia Myanmar cầm cờ của nhóm trước cầu Kunlong ở bang Shan, Myanmar. ẢNH: THE KOKANG ONLINE MEDIA/ASSOCIATED PRESS

Những người kháng chiến nói rằng sự thành công của cái mà phe nổi dậy gọi là “Chiến dịch 1027”, được đặt tên theo ngày bắt đầu cuộc tấn công, cho thấy chính quyền có nguy cơ sụp đổ. Các nhà phân tích chiến tranh thì thận trọng hơn, họ nói rằng quân đội Myanmar yếu hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ cuộc đảo chính, nhưng có rất ít dấu hiệu cho thấy quân đội này có thể sẽ đầu hàng quân kháng chiến

Chính quyền đã thừa nhận một số tổn thất về lãnh thổ và thiệt hại về cơ sở hạ tầng do quân nổi dậy gây ra. Viện Hòa bình và An ninh Myanmar, một tổ chức tư vấn độc lập có trụ sở tại Yangon, phía nam đất nước, cho biết họ đã xác minh việc quân nổi dậy chiếm giữ 4 thị trấn và ít nhất 168 tiền đồn và căn cứ quân sự, trong đó có 9 sở chỉ huy tiểu đoàn, ở phía bắc Myanmar. Bang Shan, tâm điểm của cuộc tấn công, kể từ cuối tháng 10.

Máy bay không người lái đã mang lại cho phe nổi dậy một lợi thế rõ rệt. Horsey, thuộc Nhóm Khủng hoảng Quốc tế, cho biết có khả năng nhóm nổi dậy có một số lượng lớn máy bay không người lái, một số loại “theo sở thích” để trinh sát, cũng như các máy bay không người lái “tấn công” lớn hơn được gọi là hexacopters, có khả năng mang vật nặng hơn. tải trọng, chẳng hạn như nhiều quả đạn nổ.

Các thành viên của Lực lượng Phòng vệ Nhân dân, một nhóm vũ trang được thành lập sau cuộc đảo chính năm 2021 ở Myanmar, đang huấn luyện tại một trại ẩn. ẢNH: DAVID MMR/ZUMA PRESS

Thành công của quân nổi dậy đã khích lệ lực lượng kháng chiến trên toàn quốc. Các nhóm vũ trang sắc tộc hiện có và Lực lượng Phòng vệ Nhân dân mới hơn, được thành lập kể từ cuộc đảo chính, đã gia tăng các cuộc tấn công vào quân đội chính quyền ở phía tây, đồng bằng miền trung và đông nam đất nước.


Các con bà Mohammadi đang ở tù Iran, nhận Giải Nobel Hòa Bình của mẹ

Ba’o Nguoi-Viet

December 10, 2023

TEHRAN, Iran (NV) – Hai người con song sinh của nhà hoạt động Narges Mohammadi, đang bị chính quyền Iran bỏ tù, đã nhận Giải Thưởng Nobel Hòa Bình thay cho mẹ, Đài BBC loan tin vào hôm Chủ Nhật, 10 Tháng Mười Hai.

Bà Mohammadi, đang thọ án 10 năm tù tại Tehran, đoạt giải thưởng năm nay vì công lao chống nạn đàn áp phụ nữ ở Iran.

Trong diễn từ nhận giải được đưa lén ra ngoài và do hai con của bà đọc lên, bà Mohammadi tố cáo chính quyền “độc tài chuyên chế” của Iran.

Khôi Nguyên Nobel Hòa Bình, nhà hoạt động người Iran Narges Mohammadi (trong khung hình) được đại diện bởi con gái Kiana Rahmani, con trai Ali Rahmani, nhận giải thưởng từ Chủ Tịch Ủy Ban Trao Giải Nobel Berit Reiss Andersen tại Tòa Thị Chính Oslo, Na Uy, hôm 10 Tháng Mười Hai, 2023 (Hình: Rune Hellestad/Getty Images)

“Với lòng kiên trì tranh đấu, dân tộc Iran sẽ chiến thắng thế lực đàn áp và chế độ độc tài,” bà Mohammadi viết. “Khỏi phải nghi ngờ gì cả, điều này chắc chắn sẽ xảy ra.”

Giải thưởng quốc tế danh giá này đã được phát ra tại Oslo vào hôm Chủ Nhật, cùng với các giải thưởng Nobel khác về văn chương, khoa học và kinh tế.

Từ nhiều năm qua, bà Mohammadi đã là một gương mặt tranh đấu cho nhân quyền nổi bật tại Iran. Người phụ nữ 51 tuổi này đã ở tù hầu như liên tục kể từ năm 2010, và bà đã bị nhà cầm quyền bắt giữ tổng cộng 13 lần, bị kết án năm lần, và bị kết án một tổng số là 31 năm tù ở.

Bà hiện vẫn còn đang ngồi tù về tội “loan truyền thông tin phản động.”

Chồng bà, nhà hoạt động chính trị Taghi Rahmani, đang sống lưu vong tại Paris cùng với hai con, và hai vợ chồng này không gặp mặt nhau từ nhiều năm qua.

Một đoạn khác trong diễn từ được đưa lén ra ngoài của khôi nguyên Giải Nobel Hòa Bình Narges Mohammadi viết: “Cuộc đối kháng [chống chế độ cai trị hiện tại ở Iran] vẫn tồn tại, và cuộc tranh đấu vẫn không hề bị suy suyển. Đối kháng và bất bạo động là chiến lược tốt nhất của chúng ta — cũng là những khó khăn mà dân tộc Iran đã trải qua cho đến ngày nay — nhờ vào ý thức truyền thống và sức mạnh tập thể.” (TTHN) 


 

Có phải Hamas đang chiến thắng?

Ba’o Tieng Dan

06/11/2023

Washington Post

Tác giả: Yuval Noah Harari

Trần Gia Huấn, chuyển ngữ

Người Israel thắp nến tại Quảng trường Dizengoff ở Tel Aviv ngày 18-10 để tưởng nhớ các nạn nhân trong vụ tấn công ngày 7-10 của Hamas. Nguồn: Ahmad Gharabli/ AFP/ Getty Images

Lời người dịch: Yuval Noah Harari là tác giả của những tác phẩm lừng danh như “Sapiens”, “Homo Deus” và “Unstoppable Us”. Ông là giáo sư sử, Đại học Hebrew, Jerusalem. Dưới đây là ý kiến của ông đăng trên báo Washington Post ngày 19-10-2023, sau khi Hamas mở cuộc thảm sát đẫm máu vào lãnh thổ Israel ngày 7-10-2023.

*****

Chiến tranh là tiếp nối của chính trị, nhưng bằng những phương tiện khác. Nhiều người thường tụng niệm câu thần chú này, nhưng có mấy ai để ý tới – đặc biệt giữa khói lửa chiến tranh. Cuộc thảm sát của Hamas trên lãnh thổ Israel và số người chết tăng lên ở Dải Gaza đã che phủ những động cơ khốn nạn của những kẻ đã gây ra chiến tranh. Xác người chồng chất, nhưng ai là kẻ chiến thắng? Không phải phe đã giết nhiều người hơn. Cũng không phải phe đã tàn phá nhiều nhà cửa hơn. Thậm chí, càng không phải phe đã giành được sự ủng hộ của thế giới. Phe chiến thắng là kẻ đạt được mục tiêu chính trị.

Hamas khởi động cuộc chiến này với một mục tiêu chính trị là ngăn cản hòa bình ở Trung Đông. Sau khi ký hiệp ước hòa bình với Tiểu Vương Quốc Arab Thống Nhất và Bahrain, Israel đang chuẩn bị ký hiệp ước hòa bình lịch sử với Saudi Arabia. Hiệp ước này đáng lý ra nó là một thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu. Đáng lý ra hiệp ước này sẽ bình thường hóa quan hệ giữa Israel và thế giới Arab. Các điều kiện của hiệp ước sẽ bao gồm những nhượng bộ đáng kể đối với người Palestine, giảm bớt nỗi đau khổ của hàng triệu người trong lãnh thổ bị chiếm đóng, và khởi động tiến trình hòa bình Israel và Palestine.

Viễn cảnh Israel hòa bình và bình thường hóa quan hệ với thế giới Arab là một nguy cơ tồn vong cho Hamas. Từ ngày thành lập năm 1987, tổ chức Hồi giáo cực đoan này chưa bao giờ nhìn nhận sự tồn tại của Israel và thề xóa sổ Israel bằng vũ lực, không khoan nhượng, không thương lượng. Vào thập niên 1990, Hamas đã làm tất cả những gì có thể để phá hỏng tiến trình hòa bình Oslo và mọi cố gắng hàn gắn sau đó.

Trong hơn một thập niên, chính phủ Israel do Thủ tướng Netanyahu lãnh đạo đã loại bỏ mọi cố gắng đàm phán với phe ôn hòa Palestine. Netanyahu tiếp cận chính sách diều hâu, chiếm đóng vùng đất tranh chấp; thậm chí, còn chấp nhận những ý tưởng cực hữu về quyền lực tối cao của người Do Thái.

Trong giai đoạn này, Hamas tỏ ra kiềm chế một cách đáng ngạc nhiên. Cả hai cùng áp dụng chính sách chung sống trong bạo lực. Ngày 7 tháng 10, khi nội các của Netanyahu đang chuẩn bị một bước đột phá lớn, ký hiệp ước hòa bình trong khu vực, thì Hamas tấn công Israel bằng toàn bộ lực lượng của mình. Hamas giết thường dân Israel bằng những cách man rợ nhất mà Hamas nghĩ ra. Mục đích trước mắt của cuộc khủng bố tàn bạo này là nhằm phá hiệp ước hòa bình Israel và Saudi. Mục đích lâu dài là gieo những hạt giống hận thù Israel trong tâm trí hàng triệu người Hồi giáo, và ngăn cản mọi cố gắng hòa bình của thế hệ tương lai.

Hamas biết rõ cuộc tấn công của họ sẽ làm Israel phải tím tái, tê dại, quẫn trí, vùng vẫy, đớn đau, và giận dữ. Những kẻ khủng bố mong muốn Israel tung ra một cuộc trả thù tổng lực, gây ra nỗi đớn đau tổn thất cho người Palestine. Hamas đặt mật danh cho chiến dịch này là al-Aqsa Tufan. Chữ tufan có nghĩa là lụt – hàm ý như trận “Đại Hồng Thủy” xảy ra ở thời Cựu Ước, nhằm dọn sạch thế gian tội lỗi; thậm chí, phải trả một giá đắt, xóa sổ cả loài người, nếu cần. Cuộc tấn công của Hamas nhằm tạo ra một cuộc tàn phá ở quy mô “tận thế” như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

Liệu Hamas có quan tâm đến nỗi thống khổ của người dân Palestine? Mỗi cá nhân Hamas có thể có những cảm xúc và thái độ khác nhau, nhưng tổng quan của Hamas là coi thường nỗi đau khổ con người. Mục đích chính trị của Hamas được hướng dẫn bởi quan niệm viển vông hão huyền, nặng mùi tôn giáo.

Không giống như những phong trào thế tục như Mặt trận Giải phóng Palestine, mục tiêu tối thượng của Hamas không thuộc về thế giới này. Với Hamas, những người Palestines bị giết bởi Israel là những liệt sỹ vinh quang được ban thưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Càng nhiều người bị giết thì càng nhiều liệt sỹ thụ hưởng hạnh phúc vĩnh hằng.

Đối với Hamas và các nhóm Hồi giáo cực đoan khác, mục tiêu khả thi duy nhất cho loài người trên Trái Đất này là phải tuân thủ vô điều kiện các tiêu chuẩn về sự thánh thiện và công lý thiên đàng. Bởi vì, hòa bình bao hàm thương lượng và thỏa hiệp. Hamas cự tuyệt điều này. Hamas theo đuổi nền công lý tuyệt đối của riêng họ bằng bất cứ giá nào.

Nhân tiện, điều này cũng giải thích phong trào cánh tả cấp tiến đang xảy ra ở những quốc gia dân chủ phương Tây, trong đó có nhóm sinh viên Đại học Harvard. Họ đã miễn trừ Hamas khỏi trách nhiệm tàn bạo mà Hamas gây ra ở Be’eri, Kfar, Azza và nhiều ngôi làng khác trong lãnh thổ Israel, và ngay cả khủng hoảng nhân đạo ở Gaza. Thay vào đó, các tổ chức này đổ lỗi 100% lên đầu Israel.

Mối liên hệ giữa phong trào cánh tả và những nhóm tôn giáo cực đoan như Hamas là niềm tin vào nền công lý tuyệt đối, không chấp nhận những hiện thực phức tạp. Công lý là vô cùng cao cả, nhưng đòi hỏi một nền công lý tuyệt đối thì chắc chắn chỉ là những cuộc chiến tranh không hồi kết. Trong lịch sử thế giới, không có một hiệp ước hòa bình nào mà không có đàm phán, thỏa hiệp, thương lượng, chưa bao giờ đạt được một nền công lý tuyệt đối.

Nếu mục tiêu của Hamas là phá hiệp ước hòa bình Israel – Saudi, hủy bỏ mọi cơ hội đàm phán hòa bình ở Trung Đông, thì Hamas đã thắng lớn chỉ bằng một cú đấm knockout. Chính Israel đang giúp Hamas; bởi vì, chính phủ của Netanyahu đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà không có mục đích chính trị rõ ràng.

Israel tuyên bố sẽ tước vũ khí của Hamas; Israel có quyền làm như vậy để bảo vệ công dân; và cho là Israel sẽ thành công. Đây chỉ là thành công quân sự, nhưng mục tiêu chính trị thì không đạt được. Trước mắt, Israel phải cứu lấy hiệp ước hòa bình Israel – Saudi. Về lâu dài, Israel phải bình thường hóa quan hệ với thế giới Arab.

Từng tham dự vào chính trường Israel trong những năm qua, tôi e rằng có những thành viên trong nội các Netanyahu đã gắn chặt vào tầm nhìn Kinh Thánh và nền công lý tuyệt đối, mà ít quan tâm tới thương lượng, hòa giải. Tất cả các bên liên quan phải ngăn cơn lũ do Hamas gây ra, hòng nhấn chìm Israel, Palestine và tàn phá cả thế giới Arab.

Lưu ý rằng, về mặt lý thuyết, chiến tranh hạt nhân đang cận kề. Nếu Hezbollah và những đồng minh của Iran sẽ phóng hàng chục ngàn tên lửa vào lãnh thổ Israel, thì Israel sẽ đáp trả tự vệ bằng vũ khí hạt nhân. Do đó, tất cả các bên nên từ bỏ những ảo tưởng trong Kinh Thánh, đừng đòi hỏi nền công lý tuyệt đối, mà tập trung vào giải quyết xung đột và gieo mầm cho thương lượng, hòa giải, hòa bình. Sau sự kiện ngày 7-10, hòa giải dường như là không thể. Gia đình và bạn bè tôi đã trải qua nỗi đớn đau, gợi nhớ tới những cảnh tượng kinh hoàng của thời Holocaust.

Tám thập niên đã trôi qua, kể từ thời Holocaust, Đức và Israel đã trở thành bạn tốt. Người Do Thái chưa bao giờ có được công lý tuyệt đối cho Holocaust – làm sao họ có thể? Liệu ai có thể nén những tiếng thét đau thương trong thanh quản, đưa làn khói trở lại từ ống khói của địa ngục Auschwitz, hay đưa người chết trở về từ lò thiêu.

Là một nhà sử học, tôi hiểu lời nguyền lịch sử là khơi dậy khát vọng sửa chữa quá khứ. Vô vọng! Không thể cứu được quá khứ. Hướng về tương lai. Để cho vết thương cũ lành lại hơn là nó trở thành nguyên nhân cho những đau thương mới.

Vào năm 1948, hàng trăm ngàn người Palestine mất nhà trên lãnh thổ Palestine. Để trả đũa, ngay sau đó, hàng trăm ngàn người Do Thái bị tống cổ khỏi Iraq, Yemen, và nhiều quốc gia Hồi giáo khác.

Kể từ đó, thương đau chồng chất thương đau. Vòng xoáy lẩn quẩn của bạo lực chồng chất thêm bạo lực. Không cần phải lặp lại chu kỳ này nữa. Tất nhiên, đang giữa cơn thịnh nộ, chúng ta không hy vọng chặn được vòng xoáy bạo lực này. Điều chúng ta có thể làm được bây giờ là giảm bớt sự leo thang, và đưa ra những tia hy vọng cụ thể.

Một sáng kiến kêu gọi Hamas thả tất cả phụ nữ, trẻ em, trẻ sơ sinh mà họ đang giữ làm con tin, để đổi lấy Israel thả tù nhân Palestine. Liệu đây có phải là công lý? Không. Công lý đòi hỏi Hamas ngay lập tức và vô điều kiện thả tất cả mọi con tin. Tuy vậy, sáng kiến này là một bước nhằm giảm căng thẳng. Một sáng kiến khác cho người Palestine rời Gaza an toàn tới một quốc gia khác. Egypt, có đường biên giới với Gaza, nên tiên phong trong vấn đề này. Thế nhưng, Egypt không đồng ý. Israel có thể là nơi cư trú cho thường dân Palestine.

Nếu không có nước nào chấp nhận bảo vệ thường dân Palestine thì Hội Chữ Thập Đỏ phải được phép tiếp cận con tin, và chấp nhận các điều kiện của Hội thì Israel sẽ mời Hội Chữ Thập Đỏ và tổ chức nhân đạo quốc tế thiết lập tạm thời nơi trú ẩn cho thường dân Palestine ngay trong biên giới Israel. Nơi trú ẩn này cung cấp chỗ ở tạm thời cho phụ nữ, trẻ em và những người bệnh. Khi chiến tranh kết thúc, họ sẽ về lại Gaza.

Làm công việc này là hoàn thành nghĩa vụ đạo đức bảo vệ thường dân Palestine, đồng thời hỗ trợ quân đội Israel trên chiến trường, giảm số lượng thường dân bị bắt trong khu vực đang giao tranh.

Những sáng kiến này có thành hiện thực không? Tôi không biết. Nhưng tôi biết rằng chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị bằng một phương tiện khác. Mục tiêu chính trị của Hamas là phá bỏ mọi cơ hội hòa bình. Mục tiêu của Israel là duy trì mọi cơ hội hòa bình. Chúng ta phải thắng cuộc chiến này. Đừng rơi vào bẫy giúp Hamas đạt được mục tiêu.


 

Mời quân Hamas uống cà phê, vợ chồng Do Thái được giải cứu kịp thời

Mời quân Hamas uống cà phê, vợ chồng Do Thái được giải cứu kịp thời

Ba’o Nguoi-viet

October 9, 2023

OFAKIM, Israel (NV) – Một đôi vợ chồng bị 5 tay súng từ Dải Gaza giam lỏng tại nhà của họ trong gần một ngày, con trai họ đợi bên ngoài, cho tới khi lực lượng an ninh xông vào giải cứu.

Rachel và David sống ở thị trấn Ofakim phía Nam mô tả cách họ câu giờ để sống còn khi bị những kẻ khủng bố từ Dải Gaza giam cầm suốt 15 tiếng tại nhà – liên tục đe dọa hành quyết họ – bằng cách cho đám dân quân uống cà phê và ăn bánh ngọt.

David và Rachel kể chuyện với các đài truyền thông tiếng Do Thái sau khi cảnh sát xông vào chung cư và giải cứu họ.

Đôi vợ chồng có hai con trai đều là cảnh sát, bị bắt giữ trong cuộc xâm lược quy mô lớn của hàng trăm quân Hamas từ Dải Gaza, xâm nhập Israel vào sáng sớm Thứ Bảy, 7 Tháng Mười và hoành hành miền Nam.

Các tay súng giết chết hơn 900 người, đả thương hơn 2,000 người và bắt hơn 130 người về Gaza. Ngoài ra, những kẻ khủng bố còn bắt giữ con tin từ bên trong Israel tại nhiều địa điểm và lực lượng an ninh phải mất nhiều giờ mới dần dần giành quyền kiểm soát.

Một trong những câu chuyện bắt giữ con tin đã diễn ra tại Ofakim, thị trấn gần Gaza, nơi 5 tay súng leo qua cửa sổ phòng ngủ tầng trệt rồi bắt giữ David và Rachel.

“Họ thật thâm độc, họ tới để giết chúng tôi,” David nói với Đài Channel 12.

“Tôi có nói với ông xã, ‘Nếu chết, tôi sẽ chết cùng ông,’” Rachel kể lại.

David nói những kẻ khủng bố không đánh đập họ nhưng nói rằng họ sẽ trở thành “những kẻ tử vì đạo.”

Giám Đốc An Ninh Arkadi Schuster cho biết đội đặc nhiệm phát giác họ đang bị bắn từ ngôi nhà và kế hoạch tác chiến đầu tiên là ném lựu đạn vào nhà để tiêu diệt những kẻ khủng bố.

Khi cảnh sát đang chuẩn bị tấn công, những người khác hét lên rằng ngôi nhà đó là của cha mẹ một sĩ quan đồng nghiệp – và đôi vợ chồng vẫn ở bên trong.

Sau đó, hai bên tiến hành đàm phán, Schuster cho biết, những kẻ khủng bố yêu cầu thực phẩm, nước uống và dụng cụ y tế để băng bó một người bị thương trong cuộc đọ súng trước đó với toán đặc nhiệm. Một trong những kẻ khủng bố cũng bị kết liễu.

Đám khủng bố cũng xin một cái điện thoại di động, nhưng những yêu cầu đó bị khước từ, Schuster nói.

“Tôi thấy bọn họ giận dữ,” Rachel nói với đài truyền hình. “Tôi hỏi họ có đói bụng không. Rồi tôi pha cà phê và lấy bánh ngọt cho họ ăn.”

Trong lúc  Rachel cố gắng đánh lạc hướng những kẻ bắt giữ, bọn họ bắt đầu hát những ca khúc của ca sĩ người Israel Lior Narkis, bà kể lại.

Ở bên ngoài, con trai của ông bà là Evyatar, viên sĩ quan cảnh sát, mô tả đường đi nước bước trong nhà cho lực lượng chống khủng bố chuẩn bị đột nhập và giải cứu.

Cảnh sát tiến tới đường đi vô nhà rồi đàm phán với các tay súng qua cửa đang hé mở. Evyatar cũng ở đó, đôi khi chỉ cách cha mẹ anh vài mét.

Trong lúc thương lượng, một trong những kẻ khủng bố lấy một cái bàn che chắn tạm rồi cầm một trái lựu đạn tháo chốt giơ lên đầu Rachel. Một kẻ khác ngồi ở cầu thang chĩa súng vào cảnh sát.

Nói với Đài Channel 13, Rachel cho biết những kẻ khủng bố có võ khí hạng nặng, gồm có cả tên lửa chống tăng LAW.

Trong lúc thương thảo, Evyatar ra hiệu cho mẹ không được để lộ anh là con trai, kẻo bọn khủng bố phát giác.

Trong chốc lát, một sĩ quan hỏi một trong những kẻ khủng bố chúng có bao nhiêu tay súng, Rachel giơ tay lên mặt làm ra vẻ bình thường, các ngón tay xòe ra biểu thị có năm tay súng.

Tuy nhiên, kẻ khủng bố để ý và cảnh cáo bà đừng có “bày trò,” bà nói với Đài Channel 13.

Cuối cùng, vào lúc 2 giờ 30 sáng Chủ Nhật, đội đặc nhiệm khai triển nỗ lực giải cứu.

“Chúng tôi cận kề những kẻ khủng bố nhưng chúng tôi đã được cứu. Tạ ơn Chúa vì tôi còn sống, không thể tin được,” bà nói với Đài Channel 12.

“Tôi phóng lên người vợ mình. Làn đạn bay trên đầu chúng tôi. Tôi chẳng biết mình sống sót bằng cách nào,” David nói với mạng lưới truyền hình. “Khi một sĩ quan với lấy tay tôi, tôi nhận ra rằng mình vừa được cứu sống.”

Tường nhà lỗ chỗ vết đạn. Máu vương trên sàn.

Khi đôi vợ chồng được đưa ra ngoài, Evyatar ôm lấy cha mẹ và hớt hãi trong nước mắt: “Mẹ ơi, mẹ còn sống, mẹ còn sống.” (TTHN)


 

Biên niên sử bỏ túi về xung đột Israel – Palestine: Từ góc nhìn công pháp quốc tế

Biên niên sử bỏ túi về xung đột Israel – Palestine: Từ góc nhìn công pháp quốc tế.

NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG

Cuộc tranh chấp điển hình nhất, dai dẳng nhất về chủ quyền lãnh thổ.

 

Bản đồ khu vực Israel – Palestine hiện nay. Ảnh: sbs.com.au.

Lịch sử xung đột giữa người Israel và người Palestine có lẽ là một câu chuyện có nhiều góc nhìn phân cực còn hơn cả chiến tranh Việt Nam, theo nhận định riêng của người viết. Cách một người hiểu về xung đột này hoàn toàn lệ thuộc vào việc người đó có cảm tình với người Do Thái hay với thế giới Arab.

Tranh chấp Israel – Palestine được xem là cuộc tranh chấp điển hình nhất, nhưng dai dẳng nhất liên quan đến chủ quyền quốc gia, biên giới, xung đột vũ trang và phi thực dân hóa… trong quan hệ quốc tế. Trong bài viết này, người viết hy vọng cung cấp được một lượng thông tin vừa phải, được trung tính hóa qua lăng kính pháp luật quốc tế, nhằm góp phần giúp các cuộc thảo luận tại Việt Nam về chủ đề này mang tính xây dựng hơn.

Người viết nhận thức được rằng các yếu tố đồng minh và địa chính trị, như việc Israel là bạn “vào sinh ra tử” của Hoa Kỳ tại Trung Đông, và việc Palestine là anh em “giọt máu đào” của cả Liên Hiệp Arab (Arab League) lẫn Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (Islamic Cooperation Organization – ICO) hùng mạnh là lý do quan trọng khiến cho xung đột giữa hai thực thể kéo dài đến tận ngày nay.

Tuy nhiên, chỉ biết cúi đầu chấp nhận trước tư duy “cá lớn nuốt cá bé” chưa bao giờ là cách mà lịch sử, pháp luật và sự tiến bộ của nhân loại chuyển động, tiến hóa. Có hiểu biết và có nhìn nhận sâu sắc về sự kiện này thông qua lăng kính pháp lý mới có thể giúp người Việt Nam nhìn nhận nghiêm túc hơn về công lý quốc tế và một trật tự pháp lý quốc tế bình đẳng.

  1. Israel và Palestine có danh nghĩa gì trong pháp luật quốc tế?

Có thể sẽ có học giả mang hai học thuyết là thuyết cấu thành (constitutive theory) và thuyết tuyên bố (declaratory theory) để bàn về tính chính danh và sự tồn tại của một quốc gia.

Thuyết cấu thành cho rằng một thực thể chính trị chỉ có thể được xem là một quốc gia nếu nó được các quốc gia khác công nhận. Tuy nhiên, thuyết này đã quá lỗi thời và thậm chí có tính phản động, vì nó từng tạo ra sân chơi độc quyền giữa các quốc gia tự nhận mình là văn minh. Họ thường xem các quốc gia khác là chưa đủ phát triển để có thể tự quyết định vận mệnh của mình, từ đó tạo nên nền tảng của chủ nghĩa thực dân.

Thuyết tuyên bố lại cho rằng một thực thể chính trị đương nhiên phải được công nhận là một quốc gia nếu nó đã đạt đủ các quy chuẩn khách quan theo pháp luật quốc tế. Đây là học thuyết đã và đang được đại đa số học giả quốc tế ủng hộ.

Vậy tiêu chuẩn khách quan đó là gì?

Có bốn yếu tố cơ bản để đánh giá một thực thể chính trị đã đến ngưỡng quốc gia (state) trong pháp luật quốc tế hay chưa, xuất phát từ Công ước Montevideo (được ký kết và có hiệu lực từ năm 1933 giữa một số quốc gia châu Mỹ). Ngày nay, bốn nguyên tắc Montevideo đã được xem là tập quán pháp quốc tế và được thừa nhận rộng rãi.

Bốn nguyên tắc này bao gồm:

  1. Có dân cư xác định;
  2. Có lãnh thổ xác định;
  3. Có chính quyền đại diện, quản lý;
  4. Có khả năng tham gia và bảo đảm các nghĩa vụ quốc tế.

Như vậy, trong trường hợp của Israel, nó đương nhiên được xem là một quốc gia theo pháp luật quốc tế mà không còn gì để bàn cãi. Tuy nhiên, nếu buộc phải nói thêm về sự thừa nhận quốc tế, có thể ghi nhận thêm rằng Israel là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1949 và được hầu hết các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc công nhận.

Hiển nhiên, vẫn có trên dưới 30 quốc gia Arab và Hồi giáo, điển hình như Iran, không công nhận sự tồn tại của Israel. Họ công khai cho rằng quét sạch Israel và người Do Thái ra khỏi bản đồ thế giới là nghĩa vụ tôn giáo của mình.

Riêng về Palestine, câu chuyện có hơi phức tạp hơn.

Nếu xét về mặt quốc tế, cũng đã có hơn 100 quốc gia thừa nhận sự tồn tại của quốc gia Palestine. Họ cũng có danh nghĩa quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc từ năm 2012 (Permanent Observer of the State of Palestine to the United Nations). Dù chưa phải là thành viên chính thức, như chúng ta đã nói ở trên, đây không phải là vấn đề để cân nhắc liệu Palestine có phải là một quốc gia hay không.

Vấn đề ở chỗ khó có thể xem Palestine có một chính phủ hiệu quả và có năng lực tham gia vào các mối quan hệ quốc tế.

Nói ngắn gọn, Tổ chức Giải phóng Palestine (Palestine Liberation Organization – PLO) và Chính quyền Palestine (Palestinian Authority – PA) hiện nay là hai tổ chức được xem có chức năng đại diện quốc tế cho một dân tộc Palestine thống nhất (với PLO đóng vai trò trung tâm).

Song bên trong PLO lại là nhiều đảng phái chính trị có vũ trang khác nhau, với hai thế lực lớn nhất là Hamas và Fatah.

Fatah là một nhóm chính trị tương đối ôn hòa mong muốn theo đuổi hòa bình cho Palestine bằng con đường ngoại giao và pháp luật quốc tế. Hamas, ngược lại, hoạt động giống với tư cách một tổ chức cực đoan thường xuyên thực hiện các vụ khủng bố nhắm vào dân thường Israel. Họ tin rằng bạo lực vũ trang là con đường duy nhất.

Từ thập niên 1990, trong giai đoạn Fatah nắm đa số trong PLO và đang thực hiện các nỗ lực hòa giải với Israel và nhiều nghĩa vụ quốc tế khác, Hamas đã phá hoại các nỗ lực này bằng các cuộc khủng bố.

Cho đến giai đoạn 2019 – 2020, Hamas dần phủ nhận tính chính danh của PLO và tự hành động một mình.

Thậm chí, từ năm 2005, nhiều chuyên gia cho rằng quốc gia Palestine từ khi chưa thành hình đã ở trong tình trạng nội chiến.

Vì những lý do này, rất khó xem Palestine đã có đầy đủ các tiêu chuẩn để được công nhận là một quốc gia theo đúng pháp luật quốc tế.

Điều này không nhằm phủ nhận nhu cầu độc lập của người Palestine. Tuy nhiên, việc chỉ ra nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nghĩa vụ quốc tế mà chúng ta sẽ phân tích ở phần sau.

  1. Có một thực thể chính trị và dân tộc Palestine xuyên suốt trong lịch sử hay không?

Trước tiên cần phải nói rõ ràng là việc một vùng đất mang tên Palestine không đồng nghĩa với việc “người Palestine” đương nhiên là chủ nhân của nó. Câu chuyện không kết thúc đơn giản ở đó.

Từ Palestine hiện đại là một phiên bản của từ “Philistia” trong tiếng Hy Lạp, chỉ vùng đất nhỏ ở Trung Đông do người Philistines sinh sống và cai quản. Người Philistines đúng gốc theo tên gọi thì lại là một chủng người gốc Aegean và không có liên hệ máu mủ gì với người Palestine đương đại ngày nay.

Đến thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, người La Mã đặt tên chung cho vùng đất này là Syria Palaestina, một đơn vị hành chính nhỏ thuộc tỉnh Syria trong đế chế khổng lồ của mình.

Sau một khoảng thời gian dài thuộc về Đế chế Ottoman (mà Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay là thực thể kế thừa), dân cư của Palestine bị Arab hóa (Arab-ise). Bản thân người Palestine cũng xem mình là người gốc Arab nói chung, và chỉ sinh sống ở Palestine mà thôi.

Như vậy, cho đến tận những năm 1948, danh từ riêng Palestine thường được dùng để chỉ vùng địa lý nằm giữa biển Địa Trung Hải và sông Jordan. Nhóm dân cư Arab sinh sống tại đây chỉ được nhắc đến như là “Palestinian” cũng vào cùng thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc cực đoan Do Thái (Zionism) phát triển mạnh mẽ.

Nếu nhìn vào tiến trình lịch sử, có thể nói chủ nghĩa dân tộc của người Palestine được xây dựng như là một đối trọng với sự trở về đông đảo (và có tính vũ lực, cưỡng chế) của người Do Thái trên vùng đất thánh của cả Hồi giáo, Công giáo lẫn Do Thái giáo này.

  1. Lược sử lãnh thổ Palestine nhìn từ góc độ công pháp quốc tế

Sau khi đã xác định được rằng Palestine suốt trong lịch sử chỉ là tên gọi cho một vùng địa lý mà không phải một dân tộc cụ thể, chúng ta có thể loại bỏ định kiến cho rằng vùng đất này đương nhiên thuộc về ai và ai là kẻ xâm lược.

Về quá trình phát triển và tranh chấp tại Palestine, đó là thứ lộn xộn nhất mà một sinh viên công pháp quốc tế buộc phải tìm hiểu trong chặng đường học tập của mình. Do đó, người viết xin được phép tóm gọn quá trình bằng các gạch đầu dòng để bạn đọc có thể dễ theo dõi và hình dung.

  • Trước Đệ nhất Thế chiến (1914 – 1918), Palestine là một vùng đất thuộc Đế chế Ottoman. Như đã nói, không tồn tại dân tộc Palestine và cũng không có chủ nghĩa dân tộc Palestine tại đây.
  • Sau Đệ nhất Thế chiến, với tư cách là một quốc gia thua trận, cộng với những vấn đề nội địa, Đế chế Ottoman chính thức tan rã và nhiều vùng đất thuộc địa của nó trước đó được đặt dưới mô hình lãnh thổ ủy trị của Hội Quốc Liên (League of Nations Mandate territories). Vương quốc Anh được giao quản lý Palestine theo sự ủy quyền của Hội Quốc Liên.
  • Sau Đệ nhị Thế chiến (1939 – 1945), không còn đủ sức kiểm soát các phong trào vũ trang và các lãnh chúa quân sự tại đây, Vương quốc Anh đưa tình huống Palestine lên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) để cộng đồng quốc tế xem xét.
  • Nghị quyết UNGA 181, phê chuẩn Partition Plan, được ban hành vào năm 1947 với dự định lập ra cả hai nhà nước Do Thái và nhà nước Arab. Thánh địa Jerusalem nằm bên trong phần lãnh thổ của nhà nước Arab, nhưng có chế độ chính trị đặc biệt corpus separatum,không thuộc chủ quyền của cả hai nhà nước.

Lãnh thổ màu xanh thuộc người Do Thái và lãnh thổ màu cam thuộc người Arab. Ảnh: Britannia.   

Năm 1948, dựa trên Partition Plan, Israel tuyên bố thành lập nhà nước độc lập của người Do Thái và được cả hai “ông lớn” Hoa Kỳ và Liên Xô cùng công nhận (một điều không quá lạ lùng nếu bạn đọc qua Kinh Thánh Công giáo). Tuy nhiên, tuyên bố này cũng dẫn đến xung đột giữa cộng đồng Do Thái và người Arab ở đây.

Cuộc chiến Israel – Arab 1948 bùng nổ. Các quốc gia Arab láng giềng như Ai Cập, Transjordan (Jordan ngày nay) và Syria đổ quân vào can thiệp và hỗ trợ dân cư Arab tại vùng này. Song họ không được Liên Hiệp Quốc ủy quyền.

Tuy nhiên, Israel thân cô thế cô lại chiến thắng cuộc chiến tưởng chừng không cân sức này. Họ giành quyền kiểm soát không chỉ vùng lãnh thổ của nhà nước Do Thái được ghi nhận trong Partition Plan, mà còn hơn 60% vùng lãnh thổ được ghi nhận dành cho nhà nước Arab, bao gồm cả phía Tây Jerusalem.

Nhưng đáng nói hơn cả, đường phân định này được các quốc gia Hồi giáo lớn mạnh nhất trong khu vực như Ai Cập, Jordan, Lebanon và Syria đồng ý với Israel bằng nhóm Hòa ước Armistice.

Năm 1964, Liên hiệp Arab chính thức được thành lập và hỗ trợ tài chính cho hoạt động của cái gọi là Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Đây là giai đoạn quan hệ đối ngoại giữa Israel và liên minh thế giới Arab ngày càng xấu đi. Chủ nghĩa dân tộc Palestine chính thức thành hình bằng ngoại lực.

Cuộc chiến 6 ngày 1967 bùng nổ.

Trong bối cảnh các quốc gia Hồi giáo gần biên giới chuẩn bị vũ trang và huy động quân đội ráo riết sẵn sàng cho một cuộc chiến chống mình, Israel “tiên hạ thủ vi cường”, tấn công trước cả ba quân đội Ai Cập, Syria và Jordan. Hiển nhiên, cái gọi là tự vệ chủ động này hoàn toàn vi phạm pháp luật quốc tế.

Israel, một lần nữa, chiến thắng cuộc chiến đáng lẽ họ phải thua. Qua đó, họ chiếm toàn bộ vùng Sinai (có kênh đào Suez cực kỳ quan trọng của Ai Cập), chiếm toàn bộ khu vực Gaza và West Bank (Bờ Tây) thuộc phần lãnh thổ còn lại của nhà nước Arab theo Partition Plan, và chiếm cả vùng Golan Heights (Cao nguyên Golan) của Syria.

Năm 1964, Liên hiệp Arab chính thức được thành lập và hỗ trợ tài chính cho hoạt động của cái gọi là Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Đây là giai đoạn quan hệ đối ngoại giữa Israel và liên minh thế giới Arab ngày càng xấu đi. Chủ nghĩa dân tộc Palestine chính thức thành hình bằng ngoại lực.

Ảnh: Palestine Portal

Cùng năm 1967, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đồng thuận tuyệt đối và ban hành Nghị quyết 242, yêu cầu Israel rút khỏi West Bank, Gaza, Sinai và Golan Heights. Năm 1982, Israel trao trả Sinai cho Ai Cập.Tình hình lãnh thổ này kéo dài cho đến ngày nay mà không có biến chuyển nào đáng kể. Israel tiếp tục là bên có khả năng kiểm soát thực tế ba vùng Gaza, West Bank và Golan Heights.

Ảnh: Wikipedia.

  1. Như vậy, thế nào là “nguyên trạng” của Palestine? Ai đang cai quản vùng nào?Cho đến hiện nay, khi các quốc gia và tổ chức quốc tế yêu cầu Israel rút quân và ngừng chiếm đóng vùng đất của người dân Palestine, họ đang mong muốn chuyển về hiện trạng trước năm 1967, tức bản đồ dưới đây.

Ảnh: BBC.

Với cách tiếp cận này, cộng đồng quốc tế phần nào công nhận các phiên bản của Hòa ước Armistice giữa Israel và nhiều nước láng giềng. Lãnh thổ Israel nhờ đó mà được mở rộng hơn nhiều lần so với Partition Plan trước đây (vốn đã khó có thể trở thành hiện thực chính trị).Tuy nhiên, Israel vẫn có trách nhiệm rút quân hoàn toàn khỏi Gaza và West Bank, mà quan trọng hơn cả là Đông Jerusalem để trao trả đất cho người Palestine. Họ cũng cần rút khỏi Golan Heights để trao trả lãnh thổ cho Syria. Cần ghi nhận rằng Israel có một số nhượng bộ dân sự và lãnh thổ cho PLO trong suốt giai đoạn xung đột.Ví dụ với Hiệp định Oslo (Oslo Accord) vào năm 1993, Israel rút quân của mình khỏi một phần West Bank và Gaza (nhưng không xác định cụ thể vị trí với công chúng) để PLO có thể thành lập chính quyền và các cơ quan dân sự tự trị dành cho người Palestine. Hay vào năm 2005, Israel chính thức rút quân khỏi toàn bộ Gaza, đồng thời với việc xóa bỏ các khu định cư Do Thái tại đây. Kế hoạch này thường được biết đến với tên gọi “Gaza disengagement”. Hiện nay, tổ chức Hamas là thế lực Palestine nắm giữ và quản lý trực tiếp tại Gaza. Khúc mắc ở chỗ, quân đội Israel vẫn đang tiếp tục quản lý bầu trời và vùng biển Gaza. Họ cũng có khả năng triển khai quân sự triệt để và toàn diện lên vùng đất này vào bất kỳ lúc nào.Trong khi đó, tại West Bank, Israel vẫn đang tiếp tục mở rộng chiến lược định cư vĩnh viễn của các khu dân cư Do Thái, dù tại đây đã có sự hiện diện của một chính phủ tự trị do người Palestine làm chủ.Trong giai đoạn Donald Trump nắm quyền ở Hoa Kỳ, ông này cũng chính thức công nhận Golan Heights và Đông Jerusalem thuộc chủ quyền của Israel, khiến cộng đồng quốc tế vô cùng lo ngại. Bản thân chính quyền Joe Biden hiện nay cũng né tránh việc phủ nhận hoàn toàn hệ quả chính sách ngoại giao từ thời Trump.

  1. Việc Israel chiếm đóng và mở rộng định cư có phù hợp với pháp luật quốc tế hay không?

 

Chắc chắn là có vi phạm tại ba điểm nóng Gaza, West Bank và Golan Heights. Điều này đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, vốn có giá trị pháp lý bắt buộc theo pháp luật quốc tế. Nghị quyết yêu cầu rõ Israel rút quân hoàn toàn khỏi các vùng lãnh thổ đang bị chiếm đóng sau xung đột (1967), từ đó khẳng định việc thôn tính lãnh thổ thông qua xung đột vũ trang là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.Ngoài ra, hàng loạt các nghị quyết khác của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trải dài nhiều thập niên tiếp tục lên án việc mở rộng các khu tái định cư Do Thái tại West Bank và Golan Heights.Cuối cùng, không thể không kể đến Quan điểm tham vấn của Tòa án Công lý Quốc tế trong văn bản “Legal Consequences of the Construction of a Wall”, phủ nhận hoàn toàn tính pháp lý quốc tế của việc xây dựng các bức tường cắt sâu vào lãnh thổ West Bank.

  1. Pháp luật quốc tế nào điều chỉnh xung đột vũ trang giữa Israel và người Palestine?Có hai loại xung đột vũ trang được pháp luật quốc tế thừa nhận và điều chỉnh. Một là xung đột vũ trang quốc tế, hay International Armed Conflict (IAC).Đây là loại xung đột vũ trang diễn ra giữa hai chủ thể có tư cách quốc gia, với hệ thống pháp luật điều chỉnh xung đột đã được xây dựng và hoàn thiện từ một, hai thế kỷ nay. Cơ chế bảo vệ thường dân và các nguyên tắc nhân đạo cũng rõ ràng, mạnh mẽ hơn.Chúng ta có thể nghĩ đến Bốn Công ước Genevavề tù binh, hàng binh, về thường dân/ người tham chiến hay các nạn nhân chiến tranh nói chung, cũng như nhóm Công ước Hague về luật chiến tranh, v.v. Đây là các văn kiện tạo thành một hệ thống đồ sộ và có tính thẩm quyền tối cao trong việc điều chỉnh hoạt động chiến tranh.Liên hệ với chiến tranh Việt Nam cho gần gũi, xung đột diễn ra giữa quân đội Bắc Việt và Nam Việt, giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ là IAC.Loại xung đột thứ hai là xung đột vũ trang phi quốc tế (song không nhất thiết phải là quốc nội), hay Non-international Armed Conflict (N-IAC).Đây là xung đột vũ trang diễn ra giữa quốc gia với một lực lượng vũ trang phi nhà nước, hoặc giữa hai lực lượng vũ trang nhà nước với nhau. Hệ quả nhân đạo và cường độ bạo lực của nó không hề kém so với loại xung đột thứ nhất. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật điều chỉnh N-IAC lại tương đối yếu, với nội dung chủ yếu nằm trong Nghị định thư bổ sung thứ Hai dành cho Công ước Geneva (Additional Protocol II).Tiếp tục viện dẫn đến chiến tranh Việt Nam, xung đột giữa chính quyền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (thường được gọi là Việt Cộng) là điển hình của xung đột vũ trang phi quốc tế.Trong tình huống giữa Israel và Palestine, do vẫn không thể xác định được chính quyền và nhà nước thống nhất đại diện cho dân tộc Palestine, như chúng ta đã nói ở trên, nhiều học giả thiên về việc xác định xung đột vũ trang giữa Palestine và Israel là xung đột vũ trang phi quốc tế.Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy khác nhau.Ví dụ, nếu áp dụng IAC, quân nhân tham chiến không thể bị truy tố hay trừng phạt chỉ vì họ tham gia vào hoạt động vũ trang. Tuy nhiên, nếu áp dụng N-IAC, những người tham chiến hoàn toàn có thể phải hầu tòa hình sự vì hành vi chiến đấu của mình.Trong ngữ cảnh khác, nếu xác định xung đột là N-IAC, thẩm quyền của các cơ quan tài phán hình sự quốc tế sẽ không thể được áp dụng.Một số học giả đưa ra đề xuất “nước đôi”, tức xem xung đột vừa là quốc tế vừa là phi quốc tế.Họ dẫn chứng rằng vì Hamas đã nắm giữ Gaza và quân đội Israel đã đồng ý rút hoàn toàn khỏi đây, Hamas có thể đại diện người dân Palestine tham gia vào IAC với Israel.Riêng ở West Bank, với lực lượng chiếm đóng Israel vẫn kiểm soát hoàn toàn khu vực và tiếp tục vai trò quản lý hành chính của mình, xung đột nếu có giữa Israel và các nhóm dân cư ở West Bank nên được xem là N-IAC.
  2. Trong quá trình xung đột vũ trang này, ai đang vi phạm pháp luật quốc tế?Đáng tiếc là cả hai.Về phía Israel, việc duy trì chiếm đóng và phân biệt đối xử về mặt pháp lý, cưỡng chế tài sản, đất đai của người Palestine để phục vụ cho các khu tái định cư Do Thái vi phạm nghiêm trọng Công ước Geneva thứ Tư về quyền của thường dân mà thế lực chiếm đóng trên lãnh thổ chiếm đóng phải tuân thủ.Về phía Palestine, PLO và các chính đảng quân sự của mình tiếp tục thất bại trong việc kiểm soát các hoạt động khủng bố nhắm vào thường dân Israel. Đã xuất hiện các cáo buộc về việc sử dụng thường dân làm bia đỡ đạn (human shield), không tuân thủ nguyên tắc phân biệt giữa thường dân/ người tham chiến, tấn công vũ trang không phân biệt (indiscriminate armed attack), bắt cóc và ám sátquân dân lẫn thường dân quốc tịch Israel, v.v. Thực tế cho thấy, bộ máy công tố của Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court – ICC) đang có những động thái điều travà khởi tố các cáo buộc liên quan đến tội ác chiến tranh (war crimes) mà cả hai bên thực hiện.

Đính chính: Sửa “bằng Hòa ước Armistice” thành “bằng nhóm Hòa ước Armistice”, đồng thời sửa lại link nguồn. (12:11 ngày 16/5/2021 giờ Việt Nam)

https://www.luatkhoa.com/2021/05/bien-nien-su-bo-tui-ve-xung-dot-israel-palestine-tu-goc-nhin-cong-phap-quoc-te/


 

Chiến sự Trung Đông ngày 5: Hơn 263,000 người Palestine tan nhà nát cửa tại Gaza

Ba’o Nguoi-viet

October 11, 2023

GAZA (NV) – Hơn 263,000 người phải di tản ở Gaza trong các cuộc không kích đang diễn ra của Israel, con số này “sẽ còn tăng thêm,” Văn Phòng Điều Phối Các Vấn Đề Nhân Đạo (OCHA) của Liên Hiệp Quốc cho biết vào sáng Thứ Tư, 11 Tháng Mười.

Con số này đại diện cho hơn 1/10 dân số ở khu vực đông dân.

Trong số những người đi di tản, ít nhất 175,486 người đang tìm hầm trú ẩn trong các trường học thuộc Cơ Quan Cứu Trợ và Việc Làm Liên Hiệp Quốc (UNRWA), trong khi khoảng 3,000 người vẫn phải di tản do các đợt leo thang trước đó, OCHA loan báo trong tin tức cập nhật.

Một con lừa bị thương nằm trên đống đổ nát do bom đạn ở Gaza City ngày 11 Tháng Mười, 2023 (Hình: Mahmud HAMS/AFP/Getty Images)

OCHA cho biết đây là con số người Palestine di tản trong lãnh thổ cao nhất kể từ xung đột leo thang kéo dài 50 ngày vào năm 2014.

“Điều này đang làm quá tải các tổ chức nhân đạo nhằm đáp ứng các nhu cầu căn bản của người dân phải di tản, về nơi trú ẩn, chỗ ở, thức ăn, nước và các cơ sở vệ sinh,” cơ quan cho biết.

Israel nhắm mục tiêu không kích các địa điểm viễn thông, phá hủy hai trong số ba đường dây liên lạc di động chính, làm cho mạng di động và internet bị gián đoạn, OCHA cho biết.

Các nhu cầu căn bản như nguồn nước cũng trở thành một thách thức do thiệt hại và giảm nguồn cung cấp điện cho hạ tầng cơ sở xử lý nước thải, theo OCHA. Tại Beit Lahia và các khu vực miền Bắc, nước thải và chất thải rắn tích tụ trên đường phố do đường nước thải và hạ tầng cơ sở bị hư hại.

Chính phủ do Hamas cai quản ở Gaza cho biết hôm Thứ Tư, việc cung cấp điện “sẽ bị cắt hoàn toàn trong vòng vài giờ,” hạn chế cung cấp các dịch vụ thiết yếu.

Cuộc khủng hoảng nhân đạo đang bùng nổ ở Gaza, cư dân bị mắc kẹt, nhiều người bị cắt điện và không có thức ăn, phải hứng chịu các cuộc không kích trong ngày thứ năm của Israel nhằm trả đũa cuộc đột kích gây chết người của Hamas vào Israel.

Hơn một nửa trong số 2 triệu dân số của vùng lãnh thổ phải sống trong nghèo đói và không được bảo đảm an ninh lương thực, với gần 80% sống dựa vào viện trợ nhân đạo.

Hôm Thứ Hai, 9 Tháng Mười, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc kêu gọi Hamas ngừng tấn công Israel và trao trả con tin, đồng thời kêu gọi tất cả các bên cho phép Liên Hiệp Quốc tiếp cận để hỗ trợ nhân đạo cho người Palestine tiến thoái lưỡng nan tại Gaza. (TTHN) [4:46 PDT]

==================================

CẬP NHẬT THƯƠNG VONG – 11/10/2023

ISRAEL:

Hơn 1,200 người chết – Ít nhất 3,007 bị thương

(Trong số người chết, ít nhất có 14 công dân Mỹ)

PALESTINE:

Ít nhất 1055 người chết – Hơn 5,180 bị thương

1,500 dân quân Hamas chết bên lãnh thổ Israel

[4:44 PDT]

==================================

Israel không kích nhà thân nhân thủ lãnh Hamas

KHAN YOUNIS, Palestine (NV) – Các cuộc không kích của Israel ở Gaza trong đêm Thứ Ba, 10 Tháng Mười, được cho là nhắm vào nhà thân nhân của Mohammad Deif, chỉ huy quân sự của dân quân Hồi Giáo Hamas, tại khu phố Qizan an-Najjar thuộc Khan Younis.

Trích dẫn tin tức từ Palestine, một số phương tiện truyền thông Do Thái cho biết chiến đấu cơ Israel tấn công nhà người cha của Deif, giết chết anh ruột kẻ khủng bố, con trai và cháu gái ông ta.

Walla trích dẫn tin tức của mạng lưới báo chí Lebanon, Al Mayadeen, liên kết với nhóm khủng bố Hezbollah ở Lebanon được Iran ủy nhiệm.

Theo Al Mayadeen, không rõ có bao nhiêu người thân của kẻ khủng bố có mặt trong ngôi nhà tại Khan Younis và bao nhiêu người còn bị kẹt trong đống đổ nát. (TTHN) [1:08 PDT]

Giải Nobel Hoà Bình năm nay được trao cho nhà đấu tranh cho nữ quyền Narges Mohammadi

Ba’o Tieng Dan  

Vũ Ngọc Yên

6-10-2023

Ngày 6-10-2023,Ủy ban Nobel Na Uy thông báo, giải Nobel Hòa bình năm 2023 được trao cho Nhà hoạt đông nữ quyền Iran, cô Narges Mohammadi. Bà Berit Reiss-Andersen, Chủ tịch Ủy ban Nobel Na Uy, cho biết tại thủ đô Oslo là cô Mohammadi được vinh danh vì những nỗ lực dấn thân cho quyền phụ nữ ở Iran và thúc đẩy nhân quyền và tự do cho tất cả mọi người…

Ảnh: Cô Narges Mohammadi chụp ảnh tại nhà ở Iran trong thời gian ra tù hồi năm 2021 vì lý do y tế. Nguồn: Reihane Taravati

Có 351 ứng cử viên cho giải Nobel Hòa bình năm 2023, trong đó có 259 cá nhân và 92 tổ chức. Theo ban tổ chức, 351 là số ứng cử viên cao thứ hai từ trước đến nay. Tính cả năm nay, số lượng ứng cử viên đã vượt quá 300 trong 8 năm liên tiếp, với kỷ lục 376 ứng viên được đề cử vào năm 2016. Theo quy định, tên của những người được đề cử, cũng như những người đề cử giải Nobel Hòa bình sẽ không được tiết lộ cho đến 50 năm sau, trừ trường hợp người đề cử tự tiết lộ.

Nhà đấu tranh cho nữ quyền

Cô Mohammadi, 51 tuổi, đã đấu tranh suốt 30 năm qua để mang lại thay đổi căn bản cho Iran, thông qua giáo dục và các biện pháp hòa bình khác. Mohammadi đã bị bắt 13 lần, bị kết án 5 lần với tổng án tù 31 năm. Ngay cả khi ở trong tù, cô cũng kịch liệt lên tiếng phản đối các điều kiện giam giữ đối với các nữ phạm nhân.

Narges Mohammadi đã viết sách về tra tấn tù nhân, trong đó cô mô tả trải nghiệm của chính mình và của những phụ nữ bị giam cầm khác. Năm 2011, Narges Mohammadi bị kết án sáu năm tù chỉ vì hoạt động nhân quyền ôn hòa của cô tại Trung tâm Bảo vệ Nhân quyền. Trong một phiên tòa bất công khác hồi tháng 4 năm 2016, cô bị kết án thêm 16 năm tù. Niềm tin của cô chỉ dựa trên công việc nhân quyền của cô. Đầu tháng 10 năm 2020, Narges Mohammadi được trả tự do sớm, rời khỏi Nhà tù Zanjan ở Iran.

Sau khi được trả tự do, Narges Mohammadi tiếp tục con đường bảo vệ nhân quyền không ngày nghỉ. Ngày qua ngày, cô đấu tranh cho các tù nhân chính trị, gia đình họ và những người sống sót, cũng như cho quyền của phụ nữ ở Iran. Với nhiệm vụ này, một lần nữa cô bị chính quyền Iran nhắm tới.

Vào ngày 16 tháng 11 năm 2021, Narges Mohammadi lại bị bắt giữ một cách tùy tiện và bạo lực tại Karaj, tỉnh Alborz, khi cô ấy đang tham dự một buổi lễ tưởng niệm. Trong tù, cô bị tra tấn và ngược đãi bởi các quan chức thực thi pháp luật theo lệnh của Bộ Tình báo. Cô đã bị từ chối chăm sóc sức khỏe đầy đủ; họ trừng phạt cô vì hoạt động nhân quyền của cô. Cô cũng phải đối mặt với 154 đòn roi. Cô bị kết án tổng cộng 10 năm 8 tháng tù giam, cũng như 154 roi và các biện pháp trừng phạt khác trong hai vụ án riêng biệt.

Hành quyết, tra tấn và đàn áp là phương tiện để chế độ độc tài Hồi giáo ở Iran đe dọa người dân và duy trì quyền lực. Mức độ vi phạm nhân quyền ở Iran là đáng báo động. Chúng bao gồm việc sử dụng tùy tiện hình phạt tử hình, tra tấn có hệ thống trong nhà tù và các hình phạt về thể xác tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục như đánh roi và những màn đánh đập khác.

Chế độ Tehran là một trong những nước vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất trên thế giới. Các biện pháp đàn áp tàn bạo, bắt bớ và tra tấn trong nhà tù là mệnh lệnh của độc tài Hồi giáo. Không có tự do ngôn luận hay tín ngưỡng ở Iran. Dấn thân cho dân chủ và nhân quyền bị đàn áp dã man.

Các Giải Nobel khác

Hôm thứ hai 2-10, Katalin Karoko và Drew Weissman được vinh danh là người thắng giải Nobel Y Sinh năm 2023, nhờ nghiên cứu công nghệ mRNA, mở đường tạo ra các loại vaccine ngăn ngừa Covid-19 hiệu quả.

Ngay ngày hôm sau 3.10, Ban tổ chức giải cho biết, Pierre Agostini, Ferenc Krausz và Anne L’Huillier đã đoạt giải Nobel Vật lý 2023, nhờ “các phương pháp thử nghiệm tạo ra xung ánh sáng attosecond để nghiên cứu động lực học điện tử trong vật chất”.

Ngày 4-10, ba nhà khoa học Moungi Bawendi, Louis Brus và Alexei Ekimov được Ủy Ban Nobel về hóa học ca ngợi là “những người tiên phong trong việc khám phá thế giới nano”. Ngày 5-10, Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố, tiểu thuyết gia và nhà viết kịch Na Uy Jon Fosse, 64 tuổi giành được giải Nobel văn học cho các tác phẩm “lên tiếng cho những điều không thể nói”.

Tất cả các giải thưởng Nobel có giá trị khoảng 11 triệu Krone Thụy điển, tương đương 986.000 USD. Lễ trao giải Vật lý, Hóa học, Y khoa và Văn chương được tổ chức tại thủ đô Stockholm (Thụy Điển) ngày 10-12, ngày Alfred Nobel qua đời.

Riêng giải Nobel Hòa bình là giải Nobel duy nhất không trao ở Stockholm, mà được Ủy ban Nobel của Quốc hội Na Uy trao tại thủ đô Oslo, cũng vào ngày 10-12. Giải này được coi là giải thưởng chính trị danh giá nhất thế giới.

Trong di chúc, nhà sáng lập giải Nobel nêu nguyện vọng giải thưởng lập ra để trao cho những cá nhân hay tổ chức góp phần xây dựng tình hữu nghị, huynh đệ giữa các dân tộc, cũng như giải thể hay cắt giảm quân đội ở mọi quốc gia trên thế giới.

Ngôi mộ được nhiều phụ nữ Paris chiếu cố

Colnav Nguyen

Quận 20 (20th arrondissement) của thủ đô Paris, nước Pháp, không có được một công trình lịch sử nào, tuy nhiên nghĩa trang Père-Lachaise lại là nơi thu hút hằng trăm ngàn du khách mỗi năm vì là nơi an nghỉ của nhiều danh nhân, xưa từ khoảng 200 năm trước cho đến thời cận đại, như nhạc sĩ Frédéric Chopin, nhà thơ Jean de La Fontaine, thi sĩ và cũng là nhà viết kịch Oscar Wilde, văn hào giải Nobel đầu tiên Sully Prudhomme, nữ ca sĩ Edith Piaf, nam ca sĩ ban nhạc The Doors của Mỹ Jim Morrison, và còn nhiều, nhiều người nữa không thể kể ra hết …

Tuy nhiên ngôi mộ của Victor Noir (1848-1870), một người mà tên tuổi không ai biết đến lại không ngày nào vắng bóng phụ nữ tìm đến. Họ không chỉ mang hoa đến thăm mà để được hôn, được vuốt ve, được sờ lên bức tượng đồng lớn bằng người thật của chàng trai trẻ, người đã qua đời lúc 22 tuổi, cách đây hơn 100 năm.

Tượng đồng của Victor Noir lớn bằng người thật, nằm dài trên mộ phần, nơi luôn có phụ nữ lai vãng chung quanh.

Ra đời ở Attigny, Đông Bắc nước Pháp, trong gia đình một người thợ đóng giày, chàng được đặt tên là Yvan Salmon nhưng về sau cải danh theo tên của mẹ thành Victor Noir, đồng thời lấy làm bút hiệu luôn khi làm nghề báo. Victor Noir lên Paris, xin làm phóng viên tập sự cho nhật báo La Marseillaise do ông Henri Rochefort làm chủ và điều hành, còn ông Paschal Grousset phụ trách phần biên tập.

Vào Tháng 12, 1869 xảy một cuộc đấu đá giữa hai tờ báo vốn do dân xuất xứ từ đảo Corse chủ trương, đó là tờ La Revanche cấp tiến, ảnh hưởng bởi ông Grousset, và tờ báo bảo hoàng L’Avenir de la Corse, do một nhân viên Bộ Nội Vụ tên Della Rocca làm chủ bút.

Tờ La Revanche viết một bài nội dung thóa mạ cố Hoàng Đế Napoleon I, khiến vào ngày 30.12, Hoàng Thân Pierre Bonaparte, thuộc đời chắc của Napoleon I và cũng là anh em họ với đương kim Hoàng Đế Napoleon III, gửi một lá thư đến chủ bút tờ L’Avenir, yêu cầu đăng nguyên văn, trong đó chê ban điều hành tờ La Revanche là hèn nhát và phản bội.

Ông Grousset phản ứng, đòi rửa nhục, đồng thời lại được thêm sự ủng hộ của tờ La Marseillaise.

Ngày 09.01.1870, Hoàng Thân Bonaparte viết cho ông Rochefort lá thư, bênh vực danh giá của dòng tộc, đòi đấu súng với ông.

Ngày hôm sau, ông Grousset phái hai phụ tá là Victor Noir và Ulrich de Fonvieille đến thương lượng, cho biết ông muốn đích thân đấu súng với ông Pierre Bonaparte.

Trái với lệ thường, hai người đến gặp thẳng Hoàng Thân Bonaparte, thay vì với phụ tá của ông này trước tiên. Mỗi người có một khẩu súng lục để sẵn trong túi. Victor Noir và de Fonvieille trao cho ông Bonaparte lá thư của ông Grousset. Đọc xong, Bonaparte khước từ, nói rằng không thèm đấu với “đầy tớ” mà muốn đấu với chủ nhân là nhà quí tộc Rochefort.

Về sau trước tòa án, Fonvieille khai rằng lúc ấy Bonaparte bèn tát vào mặt anh, đồng thời bắn chết Noir. Ngược lại, ông Bonaparte khai là Victor Noir vì cảm thấy mích lòng nên đánh ông trước khiến ông phải rút súng bắn kẻ hiếu chiến.
Tòa đứng về phía ông hoàng thân và phán quyết này khiến công chúng phẫn nộ.

Hôm 12 Tháng Giêng, dưới sự dẫn dắt của nhà hoạt động chính trị Auguste Blanqui, hơn 100.000 người đi theo quan tài của Victor Noir đến nghĩa trang ở Neuilly-sur-Seine.

Hoàng Đế Napoleon III đang lúc không được lòng dân lại gặp sự kiện Hoàng Thân Bonaparte được tha bổng tội sát nhân khiến quần chúng phẫn nộ đưa đến những cuộc xuống đường bạo động. Cộng thêm nhiều biến cố khác đưa đến cuộc chiến tranh Pháp-Nga, mà kết quả là triều đại của Napoleon Bonaparte III bị lật đổ vào hôm 4 Tháng Chín, 1870.

Năm 1891, ngay sau khi nền Đệ Tam Cộng Hòa được thành lập, thi hài của Victor Noir được dời về nghĩa trang Père Lachaise và nắm vĩnh viễn tại đây cho đến ngày nay.

Hàng chữ ghi trên mộ của Victor Noir, gần dưới chân tượng, thay cho bia đá như những mộ khác.

Nằm trên ngôi mộ mới của Victor Noir là bức tượng bằng đồng lớn bằng người thật của ông do nhà điêu khắc nổi tiếng Jules Dalou tạc. Bức tượng hiện thực đến độ nhìn vào trông như ông vừa mới bị trúng đạn, nằm ngã xuống trên đường phố, với chiếc nón rơi bên cạnh, phía dưới, gần bàn tay phải.

Chỗ “ba gết” (baguette) nơi quần của Noir, nhô lên một cách đáng chú ý. Chính điểm đặc biệt này khiến ngôi mộ trở thành một trong những ngôi mộ được nhiều phụ nữ đến thăm viếng nhất trong nghĩa trang nổi tiếng này của Paris.

Người ta truyền tụng rằng phụ nữ nào đặt hoa vào trong nón của Noir, sau khi đã hôn lên môi và sờ lên chỗ kín của tượng, sẽ được có con, có đời sống tình dục sung mãn, ngay cả người độc thân cũng sẽ có chồng nội trong một năm.

Kết quả là bất kỳ lúc nào, ai đến viếng mộ của Victor Noir cũng đều thấy chỗ môi, cằm, mũi, chỗ kín, của tượng đều luôn luôn láng bóng vì được sờ vuốt mỗi ngày.

Năm 2004, một hàng rào được dựng bọc quanh ngôi mộ của Noir để ngăn những ai mê tín tin theo những truyền thuyết ấy đến sờ vào tượng. Tuy nhiên, do gặp phải sự chống đối quyết liệt từ “giới phụ nữ của Paris,” đúng ra do sự cổ súy của bà Péri Cochin, người dẫn chương trình đài truyền hình Pháp, hàng rào cuối cùng phải được lấy đi.

Người viết này từng đến viếng ngôi mộ của Victor Noir lần đầu tiên vào năm 1983, hồi ấy cũng đã từng thấy những chỗ láng bóng nhưng khác với hiện nay là chỗ láng đều khắp mặt trên của tượng. Bạn đọc cứ tưởng tượng một thân thể trườn tới trườn lui bên trên tượng, chỗ nào tiếp xúc nhiều chỗ đó láng như vậy. Đó là ý người viết này muốn diễn tả. Hồi đó báo chí Paris viết rằng, một số phụ nữ vào lúc chiều tối ẩn nấp trong nghĩa địa, chờ đến giờ đóng cửa, mò đến ngôi mộ Victor Noir để ngủ chung với bức tượng. Sau này chỗ láng trên tượng khác với mấy chục năm trước, có thể do người ta có biện pháp để không ai có thể ngủ lại qua đêm trong nghĩa địa được, bằng cách tăng cường hệ thống chiếu sáng hoặc thêm những cách nào khác.

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen