Bài 2 – Giai thoại trong thời chiến tranh Việt nam

  • Chuyện có thật mà cứ như đùa ấy.

Bài 2 – Giai thoại trong thời chiến tranh Việt nam

Đoàn Thanh Liêm

 (Chuyện kể từ một nhà báo và tác giả nổi tiếng quốc tế : Oriana Fallaci).

Oriana Fallaci (1929 – 2006)

Oriana Fallaci sinh trưởng tại thành phố Florence nước Ý Đại Lợi. Bà là một

nhà báo nổi danh quốc tế. Trong suốt mấy chục năm lăn lộn trong ngành báo

chí, Oriana đã phỏng vấn rất nhiều nhân vật có danh tiếng trên thế giới và

gây được tiếng vang trong dư luận khắp nơi. Điển hình như các nhân vật sau

đây : Giáo chủ Ayatollah Khomeini, Đức Dalai Lama, Lành tụ Đặng Tiểu

Bình, Tiến sĩ Henry Kissinger, Lãnh tụ Yasir Arafat, Nữ Thủ tướng Ấn độ

Indira Gandhi, Bà Thủ tướng Do Thái Golda Meir v.v…

Bà còn viết nhiều cuốn sách được rất nhiều độc giả ưa chuộng tìm đọc, cụ

thể như cuốn “Nothing, and so be it ” viết chủ yếu về chuyện chiến tranh ở

Việt nam hồi cuối thập niên 1960. Và nhất là trong mấy cuốn xuất bản gần

đây sau cuộc khủng bố 11 tháng Chín năm 2001, như : “The Pride and the

Rage ”, “ The Force of Reason “, bà đã thẳng thắn phê bình chê trách số di

dân người Ả rập và Hồi giáo đã gây khó khăn cho nước Ý, cũng như cho

toàn thể Âu châu. Mấy cuốn sách này đã gây ra một cuộc tranh luận gay go,

sôi nổi giữa bên bênh và bên chống đối với lập trường cứng rắn dứt khoát

của bà. Một số tổ chức của người Hồi giáo còn đâm đơn kiện bà ra tòa về tôi

phỉ báng và kỳ thị đối với người theo đạo Hồi.

Chuyện quan hệ giữa người di dân Hồi giáo với người Âu châu rất phúc tạp,

đến nỗi mà vừa mới đây vị Thủ tướng nước Pháp Francois Fillon đã phải lên

tiếng với lời lẽ rất cương quyết đanh thép, để nhắc nhủ người di dân Hồi

giáo như sau : “ Những người di dân không phải là gốc Pháp, thì phải thích

nghi (với xã hội Pháp) “ (nguyên văn tiếng Pháp : “ Les immigrants, non

francais, doivent s’adapter “).

Về chuyện liên quan tới Việt nam vào thời chiến tranh trước năm 1975, ta có

thể ghi lại vài mẩu chuyện như sau đây :

  1. a) Trong cuốn “Nothing, and so be it”, tác giả có kể lại cuộc phỏng vấn

một cán binh trong nhóm “đặc công” cộng sản, mà chuyên đặt mìn

phá hoại và sát hại tại các địa điểm quân sự cũng như dân sự ở Saigon

vào các năm 1964-66, rồi bị cơ quan an ninh của chánh quyền Việt

nam bắt giữ. Anh này khai tên là Nguyễn Văn Hai, người miền Nam.

Nhưng anh ta rất gan dạ, nhất quyết không chịu khai báo một chi tiết

nào về các vụ đặt mìn của mình. Cuối cùng, cơ quan điều tra phải cử

một sĩ quan rất có kinh nghiệm để tiến hành việc thẩm vấn nghi can

 Hai này. Điều tra viên này lập kế, khêu gợi “ bản lãnh anh hùng” của

nghi can, bằng cách dụ dỗ anh ta như sau : “ Chúng tôi đã thâu thập

được đày đủ bằng chứng do chính các đồng đội của anh mà cũng bị

bắt sau anh, thì họ đều xác nhận anh là kẻ chủ mưu chính yếu trong

mấy vụ đặt mìn này. Chúng tôi cần lời khai của anh để anh có dịp xác

nhận cái hành động anh hùng dũng cảm của anh trong khi theo đuổi lý

tưởng cách mạng giải phóng dân tộc. Như vậy, nếu mà anh có bị tòa

án xử thế nào đi nữa, thì mọi người cũng sẽ biết được cái nghĩa khí

anh hùng của anh. Và tổ chức Mặt trận Giải phóng sẽ vinh danh con

người “dũng sĩ cách mạng” của anh. Ngược lại, nếu mà anh cứ nhất

định không chịu khai báo gì cả, thì rồi anh cũng sẽ bị sát hại như “một

kẻ vô danh bị tai nạn xe cán tại một xó xỉnh nào đó” mà thôi…” Nghe

vậy, rốt cuộc nghi can Hai đã khai báo mọi chi tiết về hoạt động đặt

mìn phá hoại của mình. Và cơ quan điều tra đã có thể kết thúc hồ sơ

để truy tố đương sự ra trước tòa án quân sự mặt trận.

Khi Oriana được cho tiếp súc với nghi can để tiến hành việc phỏng

vấn này, thì cuộc điều tra đã hoàn tất. Nên nhà báo muốn khai thác

nhiều chi tiết về đời sống riêng tư của người đặc công gan dạ này. Tác

giả đã ghi lại khá nhiều chi tiết về sở thích cá nhân, về gia cảnh … của

đương sự. Và có chi tiết này rất đáng chú ý, đó là cuối cùng đặc công

Nguyễn Văn Hai tâm sự với nhà báo rằng : “ Tôi thật ân hận là vẫn

còn ham chuộng cái danh vọng hão huyền, để cho mình được ca tụng

như là một “người anh hùng”, nên mới khai báo chi tiết về hành động

của mình khiến cho các đồng chí bị liên lụy và bị bắt giữ, làm cho tổ

chức bị tan rã. Thật là chuyện đáng hối tiếc lắm lắm vậy đó…!”

  1. b) Cuối năm 1968, Oriana ra Hanoi và có dịp phỏng vấn Tướng Võ

Nguyên Giáp lúc đó còn giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng. Khi về

lại Saigon, Oriana có kể lại chi tiết cuộc phỏng vấn này với Luật sư

Trần Văn Tuyên vốn hồi trước năm 1945 là bạn bè gần gũi thân thiết

với ông Giáp. Tôi được Luật sư Tuyên thuật lại cho nghe về câu

chuyện phỏng vấn này, đại ý như sau : “ Oriana mô tả Tướng Giáp

tiếp bà tại văn phòng Bộ trưởng với một căn phòng rộng mênh mông

(une salle immense), và ông Giáp người thấp lùn với dáng điệu, kiểu

cách giống hệt như là Tướng Napoleon ngày xưa của Pháp ấy. Khi

được hỏi về chiến dịch Tết Mậu Thân ở miền Nam, thì tướng Giáp coi

bộ “sửng sốt, mất bình tĩnh” ( il s’énerve), ông đứng dậy đi đi, lại lại

trong phòng coi bộ suy nghĩ đăm chiêu lắm, và rồi cuối cùng thì ông

Giáp “đổ hết tội cho Phạm Hùng là người chỉ huy Trung Ương Cục

Miền Nam lúc đó (incriminer) đã gây ra những sự tổn thất nặng nề

trong chiến dịch này…” Chuyện Tết Mậu Thân năm 1968 này cho đến

nay vào năm 2010, thì vẫn còn là một bí hiểm, vì dù đã sau 42 năm,

chưa có bất kỳ một tài liệu chính thức nào tại cấp lãnh đạo chóp bu ở

Hanoi mà được đưa ra công khai công bố cho công chúng cả.

  1. c) Về một số nhân vật khác mà Oriana có dịp gặp gỡ trao đổi, thì bà

cũng thuật lại với lời lẽ rất thẳng thắn, chẳng hề dè dặt e ngại gì cả.

Điển hình như chuyện bà mô tả cảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan lúc

nằm tại bệnh viện sau lúc bị bắn trọng thương trong vụ chỉ huy phản

công chống lại quân cộng sản xâm nhập đợt hai vào Saigon hồi tháng

5 năm 1968, thì ông tỏ ra là con người chẳng còn một chút dũng khí gì

cuả một ông Tướng chỉ huy ngành cảnh sát quốc gia đày quyền uy và

rất là năng nổ trước đó. Tác giả cũng kể lại cuộc gặp gỡ với ông

Nguyễn Ngọc Linh với lời lẽ không mấy thiện cảm, đại khái như là ăn

diện rất trau chuốt kiểu cách, nói tiếng Anh cũng như tiếng Pháp đều

rất trôi chảy, nhưng mà lại xa rời quần chúng v.v… Nói chung, thì

cũng như nhiều ký giả quốc tế vào hồi đầu thập niên 1970, Oriana

không có mấy thiện cảm với các nhân vật lãnh đạo của chế độ Việt

nam Cộng hòa, trái lại họ có vẻ nghiêng về phía Việt cộng, mà họ cho

là có lý tưởng, có chính nghĩa hơn.

  1. d) Nhưng sau 1975, thì Oriana cũng như nhiều nhà báo thượng thặng

khác như Jean Lacouture của Pháp lại có cơ hội tìm hiểu rõ nét hơn về

thực chất của chế độ cộng sản Việt nam. Và bà đã có sự “đánh giá, xét

lại” về phong trào cộng sản ở Việt nam. Bà đã trao đổi chuyện này với

tác giả David Horowitz là người rất nổi tiếng vì đã thay đổi lập trường

180 độ, từ phía cực tả “thân cộng sản” sang phía “cực hữu”, khiến gây

sôi nổi trong công luận thế giới vài chục năm gần đây. Câu chuyện

xung quanh nhân vật David Horowitz “gây nhiều tranh cãi” nổi cộm

này (controversial figure), cũng như sự thay đổi quan điểm của Oriana

Fallaci kể từ sau thập niên 1980 trở đi, sẽ là đề tài cho một bài tìm

hiểu chi tiết hơn, mà người viết sẽ cống hiến với quý bạn đọc trong

một dịp khác vậy nhé./

California, Tháng Giêng 2010

Đoàn Thanh Liêm

 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay