Cái duyên gặp gỡ với bạn đọc người nước ngoài

Cái duyên gặp gỡ với bạn đọc người nước ngoài

Đoàn Thanh Liêm

* * *

Tôi qua định cư bên nước Mỹ từ năm 1996, đến năm 2016 này thì đã được 20

năm rồi. Sau thời gian trị bệnh, tình trạng sức khỏe của tôi đã hồi phục khả

quan và từ trên 10 năm nay tôi đã tham gia sinh họat về văn hóa xã hội với

nhiều bạn bè cùng chí hướng – cũng như viết báo để trao đổi thảo luận với bà

con độc giả qua báo giấy cũng như trên báo điện tử. Các bài tôi viết thì hầu

hết là bằng tiếng Việt nhằm phục vụ đa số bà con người Việt mình và tôi cũng

đã nhận được nhiều đáp ứng của bạn đọc với sự khích lệ thật đáng quý. Tôi

sẽ có dịp viết chi tiết về những sự trao đổi này của bạn đọc khắp nơi ở trong

cũng như ở ngoài nước.

Nhưng tôi cũng viết một số bài bằng tiếng Anh để dành riêng cho lớp cháu

sinh trưởng ở Mỹ và nhân tiện cũng gửi cho các bạn ngọai quốc đọc nữa. Và

trong số các độc giả người nước ngòai này lại có một ít người còn thông thạo

cả tiếng Việt nữa. Nhân dịp đầu Xuân Bính Thân 2016, tôi xin ghi lại những

câu chuyện trao đổi ngộ nghĩnh lý thú giữa tôi và các bạn đọc người nước

ngòai ấy. Xin lần lượt trình bày một số danh tính các bạn đọc đó như sau đây.

1 – Anh chị Earl và Pat Martin ở tiểu bang Virginia.

Hai anh chị Martin đã từng làm việc tại Quảng Ngãi hồi trước năm 1975

trong công tác nhân đạo từ thiện của Giáo hội Tin lành Mennonite được gọi

là tổ chức Mennonite Central Committee (MCC). Bà con ở Quảng Ngãi

thường biết đến anh chị qua tên tiếng Việt là chú Kiến, cô Mai. Sau năm

1975, anh chị còn làm việc tại nhiều nước Á châu khác nữa. Từ năm 1998,

Pat giữ chức vụ Giám đốc viện Xây dựng Hòa bình Mùa hè (Summer

Peacebuilding Institute SPI) thuộc Đại học Eastern Mennonite University

(EMU) tại thành phố Harrisonburg, Virginia. Trong các bài báo trước đây, tôi

đã có nhiều dịp viết về anh chị bạn rất thân thiết này rồi. Nay tôi chỉ ghi tóm

tắt lại câu chuyện trao đổi của anh chị về các bài viết của tôi cả bằng tiếng

Việt, cả bằng tiếng Anh.

Nói chung, anh chị đều chú ý đến các bài tôi gửi qua email và luôn phản hồi

mau lẹ, đại khái như “bài này hấp dẫn đấy” (interesting), “người Mỹ chúng

tôi cần được biết đến những thông tin chính xác như trong các bài do anh

viết” v.v… Có lần Earl gọi tôi là “an wandering philosopher” (một triết gia đi

lang thang). Mới đây, sau khi đọc bài “My Two Passions in Life” (Hai niềm say mê trong đời của tôi) Earl trả lời ngay rằng đó là “Beautiful Reflections”

Người anh cả của Earl tên là Luke Martin, ông làm việc lâu năm ở Việt nam

như là một vị Mục sư thuộc Giáo hội Tin Lành Mennonite. Ông cũng như bà

vợ là Mary Martin đều khá thông thạo tiếng Việt. Khi đọc bài tôi viết về Giáo

hội Mennonite tại Mỹ, mục sư Luke nói ngay chắc là Earl đã cung cấp các tài

liệu cho tôi tham khảo để viết bài đó. Vào cuối năm 2012, tôi đã đến ngụ tại

nhà ông bà tại thành phố Allentown tiểu bang Pennsylvania. Chúng tôi vẫn

thường liên lạc với nhau qua email.

2- Giáo sư Sophie Quinn-Judge tại Đại học Temple ở thành phố Philadelphia.

Sophie từng làm việc tại Việt nam trước năm 1975 trong tổ chức nhân đạo

của giáo phái Quaker. Chị thông thạo tiếng Pháp, Nga và cả tiếng Việt nữa.

Từ nhiều năm nay, chị làm giáo sự dạy môn sử học, đồng thời cũng làm phó

giám đốc trung tâm văn hóa, triết học và xã hội Việt nam tại Đại học Temple.

Một vài lần chị còn mời tôi đến trú ngụ tại nhà của chị ở khu ngọai ô của

Philadelphia. Đôi khi chị còn mời tôi đến nói chuyện với sinh viên trong lớp

do chị hướng dẫn nữa.

Sophie Quinn-Judge còn là tác giả cuốn sách “Ho Chi Minh – The Missing

Years” xuất bản năm 2002 mà được nhiều thức giả đánh giá cao. Sophie tính

tình hồn nhiên đôn hậu dịu hiền, chị xưng mình là một Buddhist Quaker

(người Quaker mà có tinh thần Phật giáo). Mới đây, chị cho biết sắp sửa đến

tuổi nghỉ hưu rồi, nhưng cho biết là chỉ nghỉ việc giảng day, còn vẫn phụ

trách chuyện nghiên cứu cho trường Temple.

Chị thường góp ý kiến cho các bài viết của tôi. Đặc biệt là về bài tôi viết về

“Kỷ niệm vui buồn với anh chị em thuộc Trường Thanh niên Phụng sự Xã

hội” ở Việt nam trước năm 1975, thì Sophie nói là những bài như thế rất là

cần thiết để cho các thế hệ sau này hiểu biết rõ ràng hơn về những cố gắng

xây dựng xã hội ở Việt nam ngay trong thời kỳ chiến tranh trước đây nữa.

3 – Luật sư Dinah Pokempner Cố vấn trưởng của tổ chức Theo dõi Nhân

quyền Human Rights Watch (HRW) ở New York.

Từ năm 1990 – 91, tổ chức HRW đã phân công cho Dinah Pokempner là

người phụ trách về hồ sơ của tôi bị giam giữ ở Việt nam từ năm 1990. Vì thế,

nên Dinah và tôi rất gắn bó thân thiết với nhau và mỗi khi tôi đến New York

thì thường tới gặp gỡ thăm viếng chị tại văn phòng của HRW. Dinah lại còn

tham gia giảng dậy tại Đại học Columbia và mới đây vào tháng 3/2015 lúc tôi

tham dự Đại hội thường niên của tổ chức Amnesty tại Brooklyn, New York,

thì Dinah cũng mời tôi đến nói chuyện với sinh viên trong lớp do chị phụ trách giảng dạy nữa.

Dinah cũng chuyển các bài của tôi viết cho các sinh viên của chị tham khảo

vài bữa trước khi lớp học bắt đầu, nên trong lớp học chị còn đặt những câu

hỏi và nhờ tôi giải thích chi tiết rõ ràng hơn cho các sinh viên hiểu biết về bối

cảnh chính trị văn hóa ở Việt nam. Dinah nhấn mạnh đến quan điểm vững

chắc của tôi trong cố gắng góp phần xây dựng luật pháp ở Việt nam – mà

cũng vì thế mà tôi bị cộng sản bắt giữ và tuyên án xử phạt tôi 12 năm tù vì tội

“tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội” trong phiên xử vào năm 1992 tại Tòa

án Sài gòn.

Chị còn nói rõ hơn với sinh viên: Các em cần chú ý đến lập trường của luật

sư Liêm khi ông viết trong tài liệu từ đầu năm 1990 rằng “Truyền thống nhân

bản và nhân ái của Việt nam đã có từ lâu – đó là cơ sở vững chắc cho công

cuộc phát huy nhân quyền tại quốc gia này. Chứ quan niệm về nhân quyền

không phải chỉ là sản phẩm riêng của phương Tây đề xuất ra…”

Sau buổi thuyết trình, Dinah mời tôi ra quán uống cà phê và nói chuyện thêm.

Tôi hỏi Dinah: Sinh viên của chị họ phê phán về tôi ra sao? Dinah vừa nói

vừa cười thật tươi rằng: Các em đó gọi anh là một “Rockstar”đấy. Khi về nhà

bạn Dick Hughes ở Manhattan, tôi thuật lại chuyện sinh viên ở Columbia của

Dinah, họ gọi tôi là rockstar đó, Dick cười ngất, anh nói: Mister Liêm quả

thật là nổi danh với chuyện được sinh viên tặng cho cái danh hiệu Rockstar

như vậy đó!

4 – Giáo sư Olga Dror tại Đại học Texas A & M (TAMU)

Olga Dror là người gốc Do Thái sinh trưởng ở Nga. Chị học chuyên về ngôn

ngữ và văn hóa Việt nam và đã có thời làm cho đài phát thanh Moscow phần

tiếng Việt. Hiện chị làm giáo sư giảng dạy về lịch sử tại Đại học TAMU. Chị

là người dịch cuốn sách Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca sang tiếng Anh –

cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Đại học Indiana cho ấn hành vào năm

2014 và tôi cũng đã có dịp giới thiệu với bà con độc giả người Việt vào đầu

năm 2015 vừa rồi.

Chị cũng là tác giả một cuốn sách nghiên cứu về Công chúa Liễu Hạnh mà

được nhà xuất bản Đại học Hawaii ấn hành vào năm 2007. Từ ít lâu nay,

Olga chuyên nghiên cứu đối chiếu về giáo dục tại 2 miền Bắc và Nam Việt

nam trong thời kỳ chiến tranh 1965 – 1975.

Từ đầu năm 2015 đến nay, tôi thường hay trao đổi thư từ và bài viết với Olga.

Cụ thể như khi tôi gửi cho chị loạt bài “Thanh thiếu niên và Công tác xã hội

tại miền Nam hồi trước năm 1975”, thì Olga trả lời rằng loạt bài này rất sinhđộng và góp phần vào việc tìm hiểu tình hình xã hội ở Việt nam trong thời kỳ

chiến tranh trước đây.

Phu quân của chị là Keith Taylor, thì cũng là một giáo sư chuyên nghiên cứu

và giảng dạy về lịch sử và văn hóa Việt nam tại đại học danh tiếng Cornell

nữa.

5 – Doug Hostetter, Giám đốc văn phòng “MCC Liaison Office with the

United Nations” (Văn phòng Liên lạc của MCC với Liên Hiệp Quốc).

Doug từng làm việc thiện nguyện tại Tam Kỳ trong tổ chức MCC hồi trước

năm 1968. Sau anh về Mỹ và tham gia tích cực trong phong trào sinh viên

chống chiến tranh hồi đầu thập niên 1970. Anh nổi tiếng vì họat động trong

nhiều tổ chức tranh đấu xây dựng hòa bình như Fellowship of Reconciliation

(FOR). Từ trên 10 năm nay anh là Giám đốc văn phòng của MCC liên lạc với

Liên Hiệp Quốc, vì thế lần nào đến New York tôi cũng đến gặp gỡ trao đổi

với anh tại văn phòng kế cận với khuôn viên của trụ sở LHQ.

Chúng tôi vẫn thường trao đổi thư từ với nhau qua email. Đặc biệt dịp 30/4

năm 2015, tôi có gửi cho Doug bài viết bằng Anh ngữ về những vụ tàn sát

của phe cộng sản Việt nam đối với người thuộc phe quốc gia trong các năm

1945 – 47 lúc họ vừa mới nắm được quyền hành trong tay của mình. Đọc

xong, Doug trả lời ngay cho tôi; “Các vụ thảm sát này không hề được phong

trào hòa bình (the peace movement) nhắc đến trước đây vào hồi đầu thập

niên 1970!”

6 – Trao đổi với anh bạn Danut Manastireanu từ xứ Rumania.

Đây là người bạn mà tôi chưa hề trực tiếp gặp mặt, nhưng từ vài ba năm nay

chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với nhau qua email. Lý do là anh bạn Danut này

hiện vẫn sinh sống tại quê nhà ở nước Rumania bên Đông Âu. Anh thường

cho đăng bài của tôi viết bằng tiếng Anh lên Google để nhiều người khắp nơi

có thể đọc được nữa. Tôi hy vọng khi qua thăm bà con bên Âu châu, thì sẽ có

dịp gặp mặt với anh để hàn huyên tâm sự nhiều. Anh làm việc cho tổ chức

World Vision tại Rumania.

7 – Trao đổi với chị Annette làm việc tại chi nhánh Bưu điện Bolsa, thành phố

Westminster, California.

Chị Annette làm việc lâu năm tại Bưu điện Bolsa là nơi mà phần đông bà con

người Việt tại khu vực Little Saigon đều biết đến. Mấy năm gần đây, tôi hay

gửi cho chị những bài tôi viết bằng tiếng Anh. Có lần sau khi đọc bài viết về

chiến tranh Việt nam, thì Annette đã nói với tôi, đại khái như thế này: “Trước

khi được đọc bài viết của anh, thì tôi thật không hề biết là người cộng sản ở

Việt nam lại có thể tàn ác đến như thế…” (I didn’t know that the communists

in Vietnam are so atrocious).

8 – Trao đổi với chị Sophie Richardson tại văn phòng HRW ở thủ đô

Washington DC.

Từ cuối thập niên 1980, hồi còn rất trẻ Sophie Richardson đã khởi sự tham

gia họat động tại Cambodia với các tổ chức phi chính phủ (NGO – Non-

Governmental Organisations). Và sau ít lâu thì chị gia nhập với tổ chức HRW

và từ 20 năm nay làm việc tại văn phòng của tổ chức này ở Washington DC.

Sophie được nhiều bà con người Việt chúng ta biết đến và mến chuộng vì chị

thường ra điều trần tại Quốc Hội Mỹ để tố cáo những vi phạm nhân quyền

của chính quyền cộng sản Hà nội.

Và mỗi khi tôi đến thành phố này, thì chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò

trao đổi thông tin với nhau. Sophie thông thạo tiếng Hoa, luận án thi văn

bằng tiến sĩ của chị là về tình hình chính trị ở Trung quốc. Gần đây, Sophie

được HRW bố trí phụ trách riêng về tình hình ở Trung quốc.

Có lần, Sophie giải thích cho tôi: “Anh biết không, cái tên Sophie của tôi là

từ tiếng Hy lạp có nghĩa là wisdom (minh triết). Tôi rất thích cái tên này do

cha mẹ chọn cho tôi đấy…” Tôi bèn trả lời: “Chị cũng biết đấy, tên của tôi là

Thanh Liêm có nghĩa là Honesty. Nhưng các bạn quen biết lại còn gọi tôi là

một philosopher nữa. Như vậy, thì giữa Sophie và tôi có sự liên hệ mật thiết

đấy nhỉ…” Sophie hiểu ngay ý nghĩa khôi hài của tôi và cười thật tươi.

Gần đây, sau khi đọc bài “My Two Passions” của tôi, Sophie trả lời ngay qua

email: “ Rất cảm ơn anh đã chia sẻ bài viết này với tôi. Ví chính tôi cũng có 2

niềm say mê giống như anh vậy – đó là sách báo và bạn hữu”.

9 – Trao đổi với các bạn trong nhiều cuộc gặp gỡ khác.

 Tôi tham gia sinh họat với tổ chức Amnesty International tại Mỹ từ nhiều

năm nay, ở cả 3 cấp bậc: – Họp thường xuyên hàng tháng tại địa phương gọi

là local group số 178 ở thành phố Irvine – cấp miền gồm các tiểu bang khu

vực miền Tây nước Mỹ gọi là Western Regional họp mỗi năm vào tháng 11 –

và cấp tòan quốc trong các Đại hội Thường niên họp vào tháng 3 gọi là

Annual General Meeting (AGM). Vì thế mà tôi có cơ hội gặp gỡ trao đổi thân

mật với rất nhiều bạn hữu từ nhiều quốc gia khác nhau mà lại có cùng một

chí hướng theo đuổi lý tưởng bảo vệ nhân quyền.

Số bạn này quá đông, tôi không thể nào kể ra hết danh tính của từng người

trong số cả ngàn các bạn đó được. Thường tôi chuyển một số bài mình viết

cho các bạn ấy đọc và rất nhiều bạn đã gửi phản hồi tích cực lại cho tôi. Đó là

cái duyên quen biết gắn bó lâu dài của tôi với các bạn trong khuôn khổ đại

gia đình của tổ chức Ân Xá Quốc Tế đó vậy.

Cũng tương tự như thế, qua nhiều cuộc hội thảo nơi các đại học tại những

tiểu bang thuôc khu vực miền Đông nước Mỹ, tôi cũng có thêm sự quen biết

gần gũi với khá nhiều các bạn khác nữa. Và chúng tôi đều có những trao đổi

thân tình thuận thảo với nhau trong tinh thần nhân bản tiến bộ và tương kính.

Đối với tôi, thì rõ ràng những cuộc gặp gỡ trao đổi gắn bó thân thiết với các

bạn người Mỹ cũng như với những bạn hữu quốc tế như thế – đó là một

phương cách thuận lợi để mình hội nhập êm thắm nhịp nhàng vào với dòng

chính của xã hội nước Mỹ – là nơi mà một số khá đông lên đến gần 2 triệu

người Việt chúng ta đã chọn lựa đi đến sinh sống lập nghiệp lâu dài kể từ sau

năm 1975 vậy.

Nói chung, thì với chiều hướng tòan cầu hóa về các mặt chính trị, kinh tế, xã

hội cũng như văn hóa tinh thần – con người ngày nay có sự tôn trọng, thông

cảm và liên đới gắn bó mật thiết với nhau mỗi ngày càng thêm bền chặt hơn.

Và đó là điều giúp chúng ta có được sự tin tưởng và niềm phấn khởi cho

tương lai sắp tới của nhân lọai trong thế kỷ XXI này vậy./

Westminster California, cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay