Việt Nam có thể quốc hữu hóa thêm hai ngân hàng thương mại

Việt Nam có thể quốc hữu hóa thêm hai ngân hàng thương mại

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN 1-3 (NV) .- Đó là thông tin của tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn sau khi phóng viên của tờ này trao đổi với một viên chức là lãnh đạo Ngân hang Nhà nước.

Ocean Bank – một trong hai ngân hàng thương mại mà Ngân hang Nhà nước Việt Nam dự trù “quốc hữu hóa”. (Hình: TBKTSG)

Hồi đầu tháng hai, thay vì để Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (VNCB) phá sản, Ngân hàng Nhà nước tuyên bố mua lại VNCB với giá 0 đồng/cổ phần.

Trước đó, vào hạ tuần tháng 7 và thượng tuần tháng 8 năm ngoái, công an CSVN từng bắt giữ các ông Phạm Công Danh – Chủ tịch Hội đồng Quản trị của VNCB, ông Mai Hữu Khương thành viên Hội đồng Quản trị VNCB, ông Phan Thành Mai cựu Tổng Giám đốc VNCB vì “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

Đến cuối tuần qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết có thể sẽ mua lại “100% cổ phần của hai ngân hàng Ocean Bank và GP Bank” để thực hiện “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng. Từ tháng 10 năm ngoái đến cuối tháng 1 năm nay, công an Việt Nam đã bắt lần lượt ba nhân vật là lãnh đạo Ocean Bank cũng bởi “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

GP Bank thì nằm trong danh sách phải “tái cơ cấu” từ năm 2012 nhưng không ai muốn mua. Tuy chế độ Hà Nội và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không cho biết chi tiết về hiện trạng của hệ thống ngân hàng thương mại song có nhiều dấu hiệu cho thấy hệ thống này vẫn không thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và có thể sụp đổ theo kiểu dây chuyền.

Người ta phỏng đoán việc quốc hữu hóa (mua lại 100% cổ phần) của các ngân hàng thương mại là một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự sụp đổ này.

Năm 2008, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) từng cảnh báo, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế. Hoạt động chủ yếu của hệ thống này là rót tiền vào lãnh vực bất động sản. Khi thị trường bất động sản đóng băng, hệ thống này có thể tạo ra khủng hoảng tín dụng.

Cũng thời điểm đó, một số chuyên gia kinh tế khác nhận định, dù được gọi là “cổ phần” song đa số ngân hàng ở Việt Nam đều do nhà cầm quyền CSVN thành lập hoặc cung cấp vốn. Bởi có sự trộn lẫn giữa vốn nhà nước và vốn tư nhân, chuyện kiểm soát việc góp và sử dụng vốn lại lỏng lẻo. Thậm chí có nhiều dấu hiệu đáng ngờ nên “nợ xấu” (nợ không có khả năng thu hồi cả vốn lẫn lãi) đã trở thành một vấn nạn nghiêm trọng.

Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm cứu hệ thống ngân hàng được xem là một trong những lý do chính khiến kinh tế Việt Nam tụt dần xuống đáy. Trong 15 năm từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã thực hiện ba đợt “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng vì kinh tế Việt Nam suy thoái và tác động của kinh tế thế giới: 2000 – 2003 (sau khủng hoảng tài chính châu Á), 2005 – 2008 (vì gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO), 2012 – 2015.

Các đợt “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng bao gồm đóng cửa một số ngân hàng thương mại, cho ngân hàng này mua lại ngân hàng khác, hợp nhất ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với công ty tài chính cổ phần, chuyển ngân hang thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, sáp nhập các ngân hang thương mại cổ phần vào với nhau.

Tuy nhiên, trong một báo cáo về kết quả khảo sát việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội CSVN nhận định, ba lần “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng cho thấy, việc quản lý hệ thống ngân hàng không ổn và đó là lý do khiến hệ thống ngân hàng bất ổn, nguy hiểm cho toàn hệ thống.

Tính từ năm 2012 đến hết tháng 8 năm 2014, hệ thống ngân hàng đã giải quyết được 214,000 tỉ “nợ xấu” (những khoản cho vay bị mất cả vốn lẫn lãi) nhưng việc đối phó vẫn bị xem là quá chậm.

Việc để các tổ chức tín dụng tự giải quyết nợ xấu đã làm suy giảm năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín dụng. Trong tám tháng đầu năm ngoái, tổng nợ xấu được “xử lý” bằng cách dùng các nguồn “dự phòng rủi ro” lên tới 11,200 tỉ.

Việc thành lập Công ty Quản lý tài sản (VAMC) không đạt hiệu quả mong muốn vì năng lực tài chính có hạn. Tính đến cuối tháng 9 năm ngoái, VAMC đã mua 68,000 tỉ “nợ xấu” nhưng chỉ bán được hơn 1,400 tỉ. (G.Đ.)

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay